HT Thích Quảng Đức Bị Nguyễn Công Hoan Đổ Xăng Châm Lửa Đốt

LTS- Đây là tang chứng Nguyễn Công Hoan và các tăng ni PG Ấn Quang dàn dựng giết Thích Quảng Đức.

Theo lời tố cáo của ông Trần Trung Đạo, Bà Hàn Giang Trần Lệ Tuyền và Video ghi lại HT Thích Quảng Đức "không tự tẩm xăng tự thiêu". Hình ảnh, tài liệu cho thấy Thích Quảng Đức bị Nguyễn Công Hoan chích thuốc mê man, tê liệt, xong bị tưới xăng đốt sống ngày 11 tháng 6, 1963 tại Sài gòn.

Lửa Từ Bi

Bây giờ, là những ngày đầu của mùa Xuân Canh Dần, 2010. Đã bốn mươi bảy năm dài trôi qua, nhưng có lẽ không riêng tôi, mà rất nhiều người trong chúng ta khi nghe đến tên «Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu», với ngọn «Lửa Từ Bi» đã bừng bừng đốt cháy một người đã hôn mê qua những tấm hình trên các trang báo. Có những tấm hình người ta đã cho thấy «Hòa thượng Thích Quảng Đức» đang bốc cháy, hoặc có tấm hình cho thấy có một người cầm can xăng đang đổ từ vai xuống người của Hòa thượng Thích Quảng Đức.

Nhưng, hôm nay, tôi mới vừa nhìn thấy một đoạn phim trên: You Tube video: Bồ Tát Quảng Đức ( Monge Budista suicidio ). Đoạn phim này, đã được quay ngay lúc Hòa thượng Thích Quảng Đức đang bị Phật giáo Ấn Quang bức tử.

http://www.youtube.com/watch?v=fBj6ac_uVD4

Cách đây, bốn mươi bảy năm, vào lúc 7 giờ sáng ngày 11-6-1963, (nhằm ngày 20-4 âm lịch) những kẻ sát nhân này; trong đó có Trần Quang Thuận đã chở Hòa thượng Thích Quảng Đức đến ngã tư Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng, Sài Gòn, để đốt chết. Ngoài Trần Quang Thuận còn có Nguyễn Công Hoan là dân biểu lưỡng triều. Nghĩa là trước 30-4-1975, Nguyễn Công Hoan là dân biểu của Việt Nam Cộng Hòa và sau ngày mất nước Nguyễn công Hoan cũng tiếp tục là dân biểu tỉnh Phú Khánh của bọn việt-gian-cộng-sản. Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) là người đồng hương với Hòa thượng Thích Quảng Đức.

Theo những tài liệu cũ, thì suốt trong thời gian cuối đời của Hòa thượng Thích Quảng Đức, sau khi đã « được » Phật giáo Ấn Quang đã ra lệnh phải bức tử, Nguyễn Công Hoan luôn luôn ở bên cạnh Thượng tọa Thích Quảng Đức, để « theo dõi sức khỏe ». Nhưng, thực ra, là mỗi ngày Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) đóng vai là một y tá đã chích cho Hòa thượng Thích Quảng Đức bằng « thuốc trợ tim » đến nỗi đã khiến cho Hòa thượng Thích Quảng Đức từ từ biến thành một kẻ vô hồn. Bởi vậy, nên mọi người đều thấy khi được dìu đến nơi để phải chịu đốt, thì Hòa thượng Thích Quảng Đức đã hoàn toàn hôn mê, bất động và ngồi như một bức tượng đá trong ngọn «Lửa Từ Bi ».

Và, chính Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) là tên giả sư đã tự tay cầm một can xăng để tưới từ trên vai xuống người của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Rồi cũng chính Nguyễn Công Hoan đã dùng chiếc Zipo loại lớn để bật lửa rồi đốt cháy Hòa thượng Thích Quảng Đức trong lúc ông đã bị hôn mê hoàn toàn, theo: Lệnh Bức Tử của Phật Giáo Ấn Quang.

Trước đây, tôi đã viết về cái chết của Hòa thượng Thích Quảng Đức và dân biểu lưỡng triều Nguyễn Công Hoan, là lúc Nguyễn Công Hoan đang có mặt tại nước Mỹ.

Tưởng cũng nên nhắc lại: Vào năm 1977, trong lúc đương là Dân biểu của bọn việt-gian-cộng-sản của tỉnh Phú Khánh, Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) đã cùng Trần Bình Nam, tức Trần Văn Sơn, cựu Trung tá Hải Quân – cựu dân biểu VNCH; nhưng Trần Bình Nam vì là người thân của Dương Văn Minh, và là bạn chí thiết của Nguyễn Công Hoan, nên không bị vào tù « cải tạo » mà vẫn sát cánh kề vai bên Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh) là Dân biểu của việt-gian-cộng-sản.

Cả Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã dùng một chiếc thuyền chỉ có hai người là bạn thân thiết với nhau cùng với người tài công, để lên đường « vượt biển » tại bãi biển Nha Trang. Sau đó, cả Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã đến nước Mỹ. Tôi nhớ lúc đó, đã có nhiều tờ báo; trong đó, có Văn Nghệ Tiền Phong của Ông Nguyễn Thanh Hoàng đã lên tiếng và đặt nghi vấn về chuyện « vượt biển » của hai người này. Song rồi theo thời gian, mọi chuyện cũng đã đi vào quên lãng.

Nguyễn Công Hoan hiện đang sống trên đất Mỹ, nhưng y không hề ra mặt hay lên tiếng. Riêng Trần Bình Nam, tức Trần Văn Sơn là thường xuyên viết bài đưa lên nhiều trang điện báo.

Xin mọi người đừng quên: Trần Bình Nam là bạn thân thiết của Nguyễn Công Hoan (Huỳnh Văn Thạnh), từng hoạt động với nhau, và cũng cùng nhau lên thuyền « vượt biển » vào tháng 5 năm 1977, là thời điểm bọn việt-gian-cộng-sản đang kềm kẹp người dân trong trong bàn tay sắt thép một cách kinh hoàng nhất; nhưng Nguyễn Công Hoan và Trần Bình Nam đã thuận buồm xuôi gió trên một chiếc thuyền du lịch để sang nước Mỹ.

Trở lại với đoạn phim trên: You tube video: Bo Tat Quang Duc (Monge Budista suicidio), tôi thật hết sức kinh hoàng khi nhìn thấy những sư sãi của Ấn Quang, tất cả đã đều vô cảm trước ngọn « Lửa Từ Bi » đang đốt cháy đồng môn!!!

Nhưng, tôi lại càng khiếp đảm hơn nữa, khi nhìn thấy thái độ của những nhân viên cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa. Bởi tất cả họ cũng đều dửng dưng trước hành vi phạm pháp của Phật giáo Ấn Quang, khi họ ngang nhiên tưới xăng đốt người giữa thanh thiên bạch nhật. Họ đã đồng lõa với tội ác, vì thấy chết mà không ngăn cản, không cứu người. Chẳng những thế, mà họ còn đưa cả hai cánh tay ra ngăn cản những người khác để không cho ai được cứu người. Họ là ai?

Xin thưa, họ là những nhân viên cảnh sát đã theo lệnh của Phật giáo Ấn Quang, vì phải giết chết Hòa thượng Thích Quảng Đức, mới mong làm sụp đổ Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa.

Đến đây, tôi xin được trích đoạn lại về cuộc đốt người này, qua cuốn sách "Trong Lòng Địch" của Tác giả Trần Trung Quân, từ trang số 99 đến trang 114, đã xuất bản vào năm 1984, như sau. Kính mời quý vị cùng theo dõi:

« Vào khoảng 4 giờ rưỡi sáng, Vũ Mạnh Trường mới đi vào công tác cụ thể. Trung úy Dương Quang Lâm, phụ tá của Vũ Mạnh Trường chăm chú ghi từng tên một, và tên người được trao phó cho công tác. Chính Vũ Mạnh Trường cũng đã thấm mệt. Nhấp một ngụm trà cho thấm giọng, Trường đưa đôi mắt đỏ lừ gườm gườm nhìn Thích Trí Quang.

Làm cách mạng không thể không có máu đổ. Nếu là máu nhà sư thì càng tốt nữa. Sự thù hận của dân chúng đối với Diệm-Nhu càng ngùn ngụt bốc cao hơn không còn sức mạnh nào ngăn chặn nỗi nữa. Bộ chính trị trung Ương đảng đã nhận rõ tình hình và quyết định rằng, chỉ vài nhà sư chết thảm là bọn Diệm-Nhu sẽ sụp đổ vô phương cứu vãn. Cho nên Đảng đã quyết định là phải giết sư để xúc tiến công cuộc thống nhất đất nước. Đồng chí Kiều Tuấn Cương ( bí danh của Thích Trí Quang ) nghĩ thế nào?

Thích Trí Quang ấp úng:

- Dạ … dạ …

Vũ Mạnh Trường quắc mắt đập mạnh tay xuống bàn giận dữ:

- Tôi yêu cầu đồng chí phát biểu ý kiến về sự thực hiện kế hoạch của đảng, có yêu cầu đồng chí tán thành hay phản đối đâu mà đồng chí dạ …

Thích Trí Quang ngồi im, gục mặt xuống. Cả hội trường không ai phát biểu ý kiến nào. Trường đắc chí, hất mặt lên, lớn tiếng dõng dạc:

Đảng ta đã trù liệu cả rồi. Bộ Chính Trị ủy ban Trung ương Đảng đã là những « đỉnh cao trí tuệ của loài người ». Chúng ta bì sao kịp! mà địch cũng không thể nào chống đỡ nỗi. Đảng có lệnh chúng ta phải khích động hoặc tạo điều kiện khích động các sư tự thiêu để cúng dường tam bảo! Có thế mới hấp dẫn được dư luận thế giới, mới gây căm thù sâu sắc trong dân chúng đối với chính quyền miền Nam được. Này, đồng chí Cương, thằng Giác Đức nó dám tự thiêu không?

- Chắc là không đâu, đồng chí. Nó nói thì hăng lắm, nhưng chỉ ba hoa thôi. Nó là học trò tôi, tôi biết rõ nó lắm. Háo danh, nhưng rất hèn.

- Thế còn Thích Hộ Giác?

- Hộ Giác cũng vậy, háo danh. Cái mộng của nó là mò lần lên chiếm ghế Viện Trưởng Viện Hóa Đạo đặng nở mặt với đời. Cái thứ như thế mà đòi hỏi nó hy sinh thì thật là khó. Chỉ có ai hy sinh cho nó leo lên thì chắc nó ký cả hai tay mà thôi.

- Thích Thanh Từ thế nào?

- Thích Thanh Từ là đệ tử của Thích Thiện Hoa. Thầy Thích Thiện Hoa còn ở Bến Tre chưa lên. Không có lệnh của thầy thì hắn chắc không chịu làm việc gì.

Đến đây, Cao Đăng Chiếm mới lên tiếng:

- Việc này, đồng chí Hằng có thể làm được.

Hằng, tức Thích Thiện Minh giật mình đánh thót, vội nhỏm dậy:

- Thưa đồng chí …

Nhưng Chiếm đã khoát tay ra dấu cho Hằng ngồi xuống, cười nhạt:

- Tôi không bảo đồng chí tự thiêu đâu mà lo ngại. Đồng chí còn đắc dụng vào nhiều việc khác. Tôi chỉ nói rằng, với tài miệng lưỡi của đồng chí và lòng tín cẩn của Thích Quảng Đức nơi đồng chí, chắc đồng chí thừa sức cải tạo tư tưởng của Thích Quảng Đức, để hắn tình nguyện tự thiêu.

Thích Thiện Minh cười tít mắt. Cao Đăng Chiếm đã gãi đúng chỗ ngứa của tên đội lốt thầy chùa để làm chính trị và có nhiều anh hùng tính cá nhân này. Thích Thiện Minh vặn mình mấy lượt cho khắp hội trường phải ngó lại nhìn hắn, rồi mới lên tiếng:

- Cái đó, thì mấy anh khỏi lo. Quảng Đức đã bị tôi thuốc nước rồi. Ngày hôm kia trả lời cuộc phỏng vấn của tụi báo chí ngoại quốc, tôi đã gài cho Quảng Đức kẹt cứng rồi. Tôi đã nhân danh Thích Quảng Đức mà tuyên bố như vầy: “Nếu Diệm không phóng thích tất cả tù nhân chính trị, không ban hành một chế độ đặc biệt cho các tôn giáo, trong đó có Phật Giáo được treo cờ Phật Giáo ngang hàng với quốc kỳ, thì thầy Thích Quảng Đức nguyện sẽ tự thiêu để gióng lên tiếng chuông báo động với thế giới về những hành động kỳ thị tôn giáo, nhằm tiêu diệt Phật giáo của chính phủ Diệm-Nhu. Và Hội đồng Ấn quang sẽ đưa vấn đề ra trước Liên Hiệp Quốc”.

Trường gật gù có vẻ tán thưởng:

- Thái độ của Quảng Đức lúc ấy như thế nào?

Quảng Đức không nói gì, chỉ cúi đầu nhìn xuống. Nhưng tôi biết hắn có vẻ hơi thất vọng. Tuy nhiên, tính Quảng Đức rất ôn hòa và vị tha, lại dễ xiêu lòng, nên sau đó, tôi đã thêu dệt cả một tòa sen rực rỡ trên niết bàn đang chờ đợi ông ta, nhờ ông ta hy sinh vì Phật Pháp. Ông ta sẽ đắc đạo, sẽ thành Phật, và bức chân dung của ông sẽ được thờ phượng ở khắp các chùa sau này …

Kết quả có đến 80 phần trăm là Quảng Đức nghe tôi và sẵn sàng hy sinh. Điều tôi lo ngại là chúng ta không ra tay gấp, rủi gặp Hộ Giác, gặp những tên ba hoa như Hộ Giác lỡ miệng xúi bậy ông ta bỏ ý định thì hỏng hết.

Ngày tự thiêu của thầy Quảng Đức gần kề bao nhiêu, thì sức khỏe của thầy sa sút bấy nhiêu. Tim thầy mệt cầm canh. Gần như cả ngày thầy không hề nói một câu, ngoài việc tụng kinh niệm Phật. Ý thầy đã quyết chết và sẵn sàng “vị pháp vong thân” rồi, nên tùy thân xác còn lưu lại nơi trần thế, hồn thầy đã bay vào thế giới khác. Lúc này, Thích Thiện Minh ra lệnh cho Huỳnh Văn Thạnh phải suốt ngày cận kề bên thầy Quảng Đức, không được rời thầy nửa phút. Không phải hắn lo cho sức khỏe của thầy, nhưng là đề phòng mật vụ VNCH bắt mất thầy thì thực là xôi hỏng bỏng không. Cộng sản đã mất bao nhiêu thì giờ để thuyết phục vừa áp lực thầy tự thiêu cúng dường, thì không thể sơ hở trong phút chót được. Thích Trí Quang đã thức trắng mấy đêm liền để dọn tinh thần cho thầy, trong khi Huỳnh Văn Thạnh nâng giấc thầy còn hơn cha mẹ, lo giặt giũ quần áo, lo từng miếng ăn tới ngụm nước uống cho thầy. Để về sau, chính hắn đã tưới xăng lên người thầy và châm lửa đốt thầy.

Huỳnh Văn Thạnh theo cộng sản từ năm 1959, nhưng hắn không tập kết ra Bắc. Cộng sản để hắn ở miền Nam làm công tác tình báo cho Việt cộng ở khu 5. Tới năm 1962, hắn được biệt phái qua khu Dương Minh Châu, cho xâm nhập vào Sài Gòn hoạt động trong chiến dịch giáo vận. Năm 1964, cho phù hợp với đường lối và chính sách mới của Việt cộng là “gây ung thối trong hàng ngũ quốc gia” Thạnh được triệu ra khu, ẩn bóng một thời gian và sau đó Việt cộng làm hộ tịch giả cho hắn mang tên mới là Nguyễn Công Hoan, và cho hắn về Sài Gòn hoạt động chính trị công khai, đứng phe đối lập với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Năm 1966 tới năm 1972, nhiều lần cán bộ nằm vùng vận động tối đa rồi mới đưa hắn ra ứng cử dân biểu quốc hội VNCH, và hắn đắc cử tại đơn vị Phú Yên.

Sau ngày cộng sản chiếm Sài Gòn, Huỳnh Văn Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, xuất đầu lộ diện nguyên hình, tích cực tuyên truyền cho cộng sản và chỉ điểm cho công an việt cộng bắt không biết bao nhiêu chiến sĩ quốc gia chân chính. Để trả công cho hắn, việt cộng cho hắn vào quốc hội của cộng sản, để lừa bịp dư luận rằng cái quốc hội của cộng sản không hoàn toàn chỉ gồm những đảng viên hay tay sai của cộng sản, mà còn gồm cả một số dân biểu, nghị sĩ “ Ngụy” đã biết ăn năn hối cải trở về với “cách mạng”.

Tuy nhiên, Nguyễn Công Hoan vào múa may ở quốc hội của cộng sản một thời gian, thì những tên chủ nhân việt cộng của hắn thấy cũng không lừa bịp nỗi ai, nên bèn cho hắn “ vượt biên tỵ nạn” để ra nước ngoài làm công tác kiều vận. Nguyễn Công Hoan đã vượt biển sang Nhật, sau đó, nhờ thủ đoạn và móc nối chính trị hắn đã tới được nước Mỹ một cách ngon lành. Nhưng cái mác dân biểu lưỡng trào của hắn và cuộc tỵ nạn mờ ám của hắn đã bị đồng bào nghi kỵ, cho nên hắn chẳng làm được trò trống gì. Hiện nay, hắn trùm mền núp bóng một tên sư hổ mang để chờ một cơ hội khác.

*****
Đó là những chuyện xảy ra về sau, mà đa số chúng ta, nhất là bạn đọc của Văn Nghệ Tiền Phong đều biết rõ. Nay xin trở lại với chuyện “ tự thiêu của thầy Thích Quảng Đức”. Vấn đề mà Việt cộng lo ngại nhất là làm sao mang một thùng xăng khá lớn để có thể đốt cháy thầy Quảng Đức ngay tức khắc để các cơ quan công quyền không kịp cứu. Mang một thùng xăng lớn tới nơi mà chúng định thiêu thầy Quảng Đức cho trót lọt không phải dễ, vì an ninh VNCH đã rõ mưu đồ của việt cộng. Huỳnh Văn Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, chính là tên đã được việt cộng trao cho trọng trách cung cấp xăng đốt thầy Thích Quảng Đức, và Thích Thiện Minh là người được đề cử để giám sát vụ này, nên hắn rất lo lắng. Đêm hôm trước khi xảy ra vụ “tự thiêu”, chính Thích Thiện Minh biểu tài xế lái xe chở đi gặp Huỳnh Văn Thạnh để cho biết rằng xăng đã được giấu trong hai thùng nhỏ đựng dầu hôi trong gánh hàng của một nữ cán bộ việt cộng đóng vai người đi bán hàng rong buổi sớm.

Bao nhiêu lít? Thích Thiện Minh hỏi.

-15 lít, thưa thầy. Thạnh trả lời.
-15 lít đủ đốt không con?
-Dư sức mà thầy, 5 lít cũng đủ chết bà Quảng Đức rồi.
-Phần kế hoạch F2 con cẩn thận nhé.
-Thầy yên tâm, trước khi “ xuất hành”, con sẽ gửi thêm một mũi Trenxinne nữa. sau đó, con sẽ bồi thêm hai mũi trợ tim Haldol là đủ.
Vậy à. Tốt lắm, công con to lắm …

Bảy giờ sáng, ngày 20 tháng 4 năm 1963 ( ngày âm lịch ) dương lịch là ngày 11-6-1963, không khí bên trong chùa buồn như đám ma. Tăng ni ai nấy đều mặt mày ủ rũ thương cho thầy Quảng Đức chỉ chốc lát nữa đây sẽ bị đưa lên giàn hỏa để “ bảo vệ đạo pháp”. Ngoại trừ một số ít cán bộ việt cộng và tay sai núp áo cà sa giết người cho cộng sản, là hăm hở chờ đợi giờ phút xảy ra biến cố.

Ngay từ lúc 4 giờ sáng, Huỳnh Văn Thạnh đã vô giường thầy Quảng Đức, lật mông thầy lên để chích cho thầy một mũi Trenxinne, mà hắn thỏ thẻ thưa là “thuốc trợ tim” để thầy mau bình phục sức khỏe. Thầy Quảng Đức ngủ mê man, ngủ say sưa như một đứa trẻ thơ trong nôi, sau khi đã no sữa, ống thuốc Trenxinne thấm, cơ thể thầy Thích Quảng Đức bỗng mềm nhũn, ngắt véo, thầy cũng không biết đau.

Lúc ấy, Huỳnh Văn Thạnh, tức Nguyễn Công Hoan, mới ra dấu cho đàn em chạy vào lau mình mẩy cho thầy, và thay cho thầy bộ áo cà sa mới toanh. Thế là việt cộng đã chuẩn bị xong để đưa thầy Thích Quảng Đức ra cúng tổ … Các … Mác!!! “

Trên đây, là những trích đoạn về lệnh bức tử Hòa thượng Thích Quảng Đức của Phật giáo Ấn Quang, tiền thân của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và bọn việt-gian-cộng-sản, trong cuốn sách Trong Lòng Địch của tác giả Trần Trung Quân.

Tôi cũng cần phải nhắc lại:

Vào tháng 5-1977, Nguyễn Công Hoan, tức Huỳnh Văn Thạnh đã cùng Trần Bình Nam lên một chiếc thuyền và rời bãi biển Nha Trang, chỉ có hai người này và tài công, và cả hai hiện đang có mặt trên đất Mỹ.

Và, vì đây là một bài viết có liên quan đến đoạn phim vừa đưa lên: You Tube video: Bo Tat Quang Duc ( Monge budista suicidio ). Nên một lần nữa, tôi lại phải mời quý độc giả hãy cùng đọc lại những lời của cựu Đại đức Thích Huệ Nhật, tức Mục sư Tin Lành Nguyễn Huệ Nhật, trong cuốn sách “Từ Áo Cà Sa Đến Thập Tự Giá”. Ông đang có mặt tại Đức quốc, để cùng nhau suy gẫm:

Cái chết tự nguyện là gì? Những người tự thiêu cho đạo pháp

Nguyễn Huệ Nhật

“Tôi xin giới hạn trong phạm vi hiểu biết của cá nhân mình, và những gì tôi viết sau đây cũng là một số kinh nghiệm và nhận xét của riêng tôi, sau ba lần tưởng đã chết nhưng nay tôi còn sống trong Ơn Cứu Rỗi của Thiên Chúa, nên xác tín hơn, rộng mở hơn.

Người tự thiêu đầu tiên trong thời kỳ Phật giáo đấu tranh chống lại kỳ thị tôn giáo dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm là Hòa thượng Thích Quảng Đức. Ngài là một vị tu sĩ bán thế xuất gia, nghĩa là có vợ con trước khi đi tu. Con ruột ngài cũng là đệ tử nổi tiếng của ngài sau khi ngài hy sinh. Ngài chỉ nổi tiếng sau khi hy sinh.

Cũng như tất cả các vị thánh tăng đã nối tiếp tự thiêu cho Đạo Pháp, bản thân Hòa Thượng Thích Quảng Đức không hề biết rằng kết quả tốt do sự hy sinh của ngài chỉ là nhất thời từ 1-11-1963, còn hậu quả xấu do sự hy sinh của ngài là lâu dài từ mùa hè 1966 đến nay. Vì sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Phật giáo Việt Nam chỉ thắng thế nhất thời, để rồi càng bị CSVN lợi dụng sâu sắc hơn, và đưa những cuộc đấu tranh kế tiếp đến ngày 30-4-1975, cho cộng sản Việt Nam lên cướp chính quyền.

Nhìn lại quá trình, chỉ hai năm đầu sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm sụp đổ, Hội Phật Học VN đã trở thành GHPGVNTN nổi như cồn, nhưng đó là thời gian manh nha đưa GHPGVNTN đến tình trạng suy đồi và phân rẽ ngay trên đỉnh cao thế lực của họ. Năm 1966, GHPGVNTN chia rẽ thảm khốc giữa hai phe Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang. Chưa bao giờ lịch sử Phật giáo Việt Nam có sự căm thù nhau, phân rẽ nhau tệ hại như thế. Vụ đem bàn thờ Phật ra đường để đấu tranh trong mùa hè 1966, là một bằng chứng suy tàn nhất của tinh thần và tổ chức Phật giáo Việt Nam. Nếu tôi kể ra những bất đồng của các vị lãnh đạo PG trong vụ Đem Phật Ra Đường, thì rất phiền. Những cuộc tranh giành đẫm máu trong khuôn viên Việt Nam Quốc Tự cho đến nay vẫn còn giữ kín, trừ vụ kéo sập dãy nhà do Đại đức Thích Đức Nghiệp xây lên sát lề đường Trần Quốc Toản là không thể dấu diếm được. Tôi ngẫm nghĩ Thượng tọa Thích Trí Quang chỉ là một mẹ mìn rất đắc lực của cộng sản Bắc Việt. Ông bắt cóc niềm tin của đa số Phật tử, để biến họ thành phương tiện hữu hiệu nhất cho cộng sản Bắc Việt vào xâm chiếm miền Nam, và ông đã cho cộng sản Bắc Việt vắt chanh bỏ vỏ tất cả nhân, tài, vật lực do niềm tin ấy mà có. Khi công việc bắt cóc ấy hoàn thành, mẹ mìn Thích Trí Quang ngồi im lặng rung đùi và được cộng sản Việt Nam bảo vệ kỹ, không ai dám động một sợi lông chân của ông.

Tôi tin chắc rằng Hòa thượng Thích Quảng Đức đã không hình dung nổi hậu quả tang thương về sau nầy, đối với Phật giáo nói riêng, và dân tộc nói chung, qua sự hy sinh của ngài. Chính người con trai ruột của ngài, người đã trở thành một vị Thượng tọa nổi tiếng tại ngôi chùa của ngài để lại trên đường Trương Minh Giảng, đã sống ba chìm bảy nổi mang nhiều tăm tiếng và cũng bị tù đày trong chế độ cộng sản.

Lần tự thiêu thứ nhất tại Sài Gòn là lần tôi hoàn toàn chờ đợi theo sự sắp xếp và tổ chức của Ủy Ban Liên Phái, nhưng không thực hiện được, vì tình hình sao đó.

Một người khác là thầy Lưu Bổn, đệ tử của Hòa Thượng T.M.H chùa TL, Huế, cũng đã nhảy xuống giếng sâu tự tử tại chùa Phật giáo Đà Nẵng, vào mùa hè 1972, sau khi bị nghi ngờ một chuyện xấu. Mười lăm phút trước khi nhảy xuống giếng, thầy Lưu Bổn ngồi ăn trưa với tôi một cách lặng lẽ.

Một người bạn khác của tôi tên T. An, cũng đi tu ở chùa Phổ Đà tại Đà Nẵng, ông mở một trường Bồ Đề ở gần ga xe lửa Đà Nẵng, cũng đã tự thiêu vì một chuyện riêng, nhưng sau đó được dư luận báo chí cho là tự thiêu vì ý nghĩa lớn lao khác. Trong thế giới tôn giáo đã lâm lụy vào những cơ mưu chính trị thời Việt Nam Cộng Hòa, một vài trường hợp các tu sĩ tự tử bằng cách tự thiêu đã được gán cho những ý nghĩa cao cả “Ý nghĩa cao cả” ấy được áp đặt cho mục đích khác, mà người tự thiêu không đặt ra, nhưng sau cùng những người bà con của họ cũng được hưởng tiếng thơm “Thánh Tử Đạo”. Cũng có nhiều vụ tự thiêu do ý định tự tử để giải quyết chuyện riêng, nhưng khi thực hiện, họ lại nêu lý do thiêng liêng để che đậy chuyện bậy bạ. Hoặc là người tự tử bằng cách tự thiêu xong rồi, sau đó mới được gán cho một ý nghĩa thiêng liêng. Thời đó, nhiều vụ tự thiêu đã bị lạm dụng. Người tình nguyện tự thiêu thì đông, nhưng người đáng được chấp nhận thì ít. Vì một người có đời sống không sáng sủa, nếu được chấp nhận cho tự thiêu, sẽ có nguy cơ làm mất niềm tin của nhiều người khác. Tất cả những người tình nguyện tự thiêu đều là những người không sáng giá khi còn sống. Những người sáng giá nghĩ rằng mình cần sống để làm việc có kết quả hơn.

Những người nêu trên đều quen thân với tôi, nên tôi biết một số lý do tại sao họ đã tự thiêu. Giống như những người thất tình, những thí sinh thi rớt, những đứa con giận cha mẹ, những người bị thất bại làm ăn … Họ không còn thiết sống nữa. Họ tìm đến cái chết để trốn chạy một thực tại bất đắc chí bằng cái chết tự sát”.

Quý độc giả vừa đọc qua những trang sách của tác giả Trần Trung Quân và cựu Đại đức Thích Huệ Nhật. Nên biết, sau khi chiếm được miền Nam tự do cho đến hôm nay, thì bọn việt-gian-cộng-sản đã trả công cho Phật giáo Ấn Quang bằng rất nhiều hình thức; trong đó, có nhiều con đường mang tên Thích Quảng Đức.

Riêng tôi, vì đã vô cùng căm phẫn trước những hình ảnh của Hòa thượng Thích Quảng Đức đã bị cả lũ người bất lương, vô nhân tính và tàn ác, khi đem sinh mạng của Hòa thượng Thích Quảng Đức ra để làm phương tiện cho cứu cánh. Bởi vậy, nên tôi phải viết lên bài này, với tất cả tâm thành, tôi ước mong cho mọi người đừng bao giờ đem sinh mạng của bất kể người đó là ai để làm vật hy sinh. Bởi mỗi sinh mạng của một con người trên thế gian này, đều do Trời sinh, thì xin mọi người hãy để cho Trời diệt.

Nhưng, những việc làm của Phật giáo Ấn Quang; trong đó có: Lệnh Bức Tử: Hòa thượng Thích Quảng Đức, đã được xác tín hơn nữa, qua những lời của chính Hòa thượng Thích Quảng Độ qua cuốn sách «Nhận định những sai lầm tai hại của đảng cộng sản Việt Nam đối với dân tộc và Phật giáo Việt Nam Thống nhất». Cuốn sách này đã do Võ Văn Ái viết lời giới thiệu và phát hành vào năm 1995; và Thích Quảng Độ đã có những lời viết như sau:

« Chính quyền ông Ngô Đình Diệm càng ngày càng trở nên độc tài, gia đình trị và có tính kỳ thị tôn giáo, nên ít được lòng dân. Sau khi đã tiêu diệt các tôn giáo khác, như Cao Đài, Hòa Hảo, năm 1963, ông Ngô Đình Diệm ra tay đàn áp Phật giáo, toàn thể tăng ni Phật tử miền Nam đã phải đứng lên chống lại để bảo vệ đạo pháp. Đến tháng 11-1963, chế độ ông Ngô Đình Diệm bị lật đổ ».

Và đến cuốn ngụy thư thứ hai lại cũng do Võ Văn Ái viết lời giới thiệu và đã đăng trên báo « Quê Mẹ » số 113, trang 06, tháng 06 năm 1995, với cái tựa đề «Bằng đôi chân của mình mời người hãy đi lên», của Thích Đức Nhuận « nguyên Tổng thư ký Viện Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất » tức Ấn Quang.

Mở đầu Thích Đức Nhuận đã viết:

« Tôi viết những dòng chữ dưới đây thân gửi những tâm hồn luôn luôn thao thức đến tiền đồ Dân tộc và Đạo pháp, dù bạn hiện ở trong nước hay ở ngoài nước, xin hãy hướng lên Đức Phật từ bi cao cả nguyện cầu cho Tổ quốc và đồng bào thân yêu của chúng ta: sớm chấm dứt mọi hận thù, biết tha thứ và yêu thương nhau để cùng chung sức chung lòng góp phần xây dựng đất nước Việt Nam Quang Vinh ».

Đến trang số 09, Thích Đức Nhuận viết tiếp:

« Năm 1963, Phật giáo Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, đòi tự do và bình đẳng tôn giáo và được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ. Bạo quyền mang đặc tính kỳ thị tôn giáo sụp đổ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập ».

Nên ghi nhớ, vào đại hội thống nhất Phật giáo năm 1981, Thích Đức Nhuận đã được bầu lên ngôi « Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam cộng sản ».

Qua những lời của chính Thích Đức Nhuận đã viết. Thì rõ ràng là Thích Đức Nhuận đã công khai nhận trách nhiệm của Phật giáo Ấn Quang với câu nói:

« Phật giáo Việt Nam phát khởi cuộc vận động chống chế độ… » là để đánh đổ Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Điều quan trọng hơn cả là: « Đã được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ ».

Như thế, đã quá rõ ràng, đã quá sáng tỏ, để cho mọi người hiểu được rằng: Phật giáo Ấn Quang « phát khởi cuộc vận động chống chế độ và đã được toàn dân từ Bắc chí Nam ủng hộ ». Nghĩa là gồm cả cộng sản Bắc Việt.

Như vậy, căn cứ theo những lời của chính hai người đã và đang đứng đầu của GHPGVNTN, tức Ấn Quang thì cả hai đã công khai nhận trách nhiệm về cái chết của Hòa thượng Thích Quảng Đức, và kéo theo là sự sụp đổ của Nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa và hệ lụy là ngày mất nước: 30-4-1975, với các sư sãi của Phật giáo Ấn Quang đã công khai đưa từng đoàn xe ra tận núi rừng, để đón rước cộng quân vào các thành phố tại miền Nam tự do, cùng với những màn bắn giết các vị là Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng Hòa, vào trước ngày 30-4-1975, để trả thù và để lập công với bọn việt-gian-cộng-sản.

Chính vì thế, Phật giáo Ấn Quang cho dù có ngụy biện bằng cách nào chăng nữa, thì vẫn không bao giờ xóa được những tội ác của một thời « tranh đấu » có bàn thờ Phật xuống đường, có máu đổ đầu rơi. Chẳng những vậy, mà qua cái « Thông bạch của hàng giáo phẩm đang đứng đầu Phật giáo Việt Nam đang hành đạo tại Hoa Kỳ », những người này đã bênh vực cho Thích Trí Dũng, người đã công khai trên sách báo là «Vào Tết Mậu Thân, 1968, chùa Phổ Quang là nơi khai hỏa đánh sân bay Tân Sơn Nhất».

Vậy, để biết thêm một cách tường tận hơn, xin kính mời quý vị hãy đọc lại bài: Tưởng Niệm Bốn mươi Năm Cuộc thảm Sát Mậu thân: 1968-2008; hiện vẫn còn lưu giữ trên trang điện báo: Hồn Việt: hon-viet.co. uk 28-02-2010

THÍCH THIỆN MINH
(1922 - 1978)

Hòa thượng Thích Thiện Minh, thế danh Đỗ Xuân Hàng, pháp danh Thiện Minh, pháp hiệu Thích Trí Nghiễm. Sinh năm Nhâm Tuất (1922) tại làng Bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

Gia đình Thiện Minh thuộc tầng lớp thức giả, thân phụ là ông Đỗ Xuân Quang, có làm việc làng, được phong Cửu Phẩm Văn Giai. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Nhơn. Thiện mInh là người thứ năm trong tám anh chị em (1).

Năm Tân Mùi (1931), khi mới 10 tuổi, Thiện Minh được song thân cho phép xuất gia tu học. Khi ấy phong trào chấn hưng Phật giáo đang được phát động rầm rộ tại Trung kỳ và Hội An Nam Phật Học được thành lập tại Huế năm 1932. Do đó, Ngài thừa hưởng được những thuận duyên để vun bồi cho sự tu học ngay từ bước đầu. Năm Giáp Tuất (1934) Hòa thượng Giác Tiên cùng đệ tử thân tín của Hòa thượng là Ngài Mật Khế đứng ra tổ chức, thành lập trường An Nam Phật Học tại chùa Trúc Lâm, thu nhận chỉ 50 học Tăng, được tuyển chọn rất kỹ từ nhiều nơi, trong đó có Thiện Minh (Thiện MInh hoạt động đắc lực cho CS để đánh phá Miền Nam, và không che dấu ý đồ muốn làm "lãnh tụ" nên bọn việt gian Cộng Sản tra tấn và giết Thiện Minh trong tù để cảnh cáo những tên ác tăng đảng viên Cộng Sản muốn phản đảng")

- Thích Thiện Minh, tên thật là Ðỗ Xuân Hàn, sinh ngày 21 tháng 04 năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triều Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất gia năm 12 tuổi, đệ tử của Ðại Lão Hòa Thượng Thuyền Tôn Thích Giác Nhiên, Ðệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

- Năm 1936, Người bắt đầu theo học lớp Sơ Ðẳng Phật Học tại chùa Tuy Ba, cùng lớp với Thầy Võ Tường (tức Thích Thiện Siêu), Nguyễn Bình (tức Thích Trí Tịnh), Phạm Quang (tức Thích Trí Quang), Trần Trọng Thuyên (tức Thích Trí Thuyền).

- Ðến Năm 1943, tốt nghiệp Trung Ðẳng Phật Học, nhưng chưa thọ đại giới đàn Bảo Quốc để theo đuổi chương trình Ðại Học Phật Giáo.

- Năm 1948, sau khi thọ Sa Di Giới, Người lấy Pháp Danh là Thích Trí Nghiễm, lên nhận công tác Phật sự tại vùng Cao Nguyên, làm Chánh Hội Trưởng Hội Phật Học Ðà Lạt và là giảng sư của Hội tại cao nguyên Lâm Viên. Suốt 4 năm tại đây, Thầy Trí Nghiễm đã ra công xây dựng những chi Hội khắp 3 tỉnh, lập nhiều cơ sở Gia Ðình Phật Tử, xuất bản tờ Hương Thiền, rồi tờ Liên Hoa và Sen Hồng.

- Ðến Năm 1952, Tổng Hội cử Thầy về làm giảng sư những tỉnh miền Nam Trung Việt. Lúc đó, đổi Pháp Danh là Thích Thiện Minh. Cũng như vùng cao nguyên, tại đây, nhờ phương pháp tổ chức, nhờ đức kiên nhẫn, Phật Giáo tại miền thùy dương vươn cao chưa từng thấy.

- Ðến năm 1956, Thiện Minh cùng các cao Tăng ở Bắc ra Trung Phần, nhất là có sự tiếp tay của Cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền đã đứng ra tổ chức Ðại Hội Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam kỳ II. Sau Ðại Hội, Thượng Tọa trở về công tác tại Nha Trang một thời gian rồi lại trở về Huế, điều hành Tổng Hội Phật Giáo Trung Phần.
- Năm 1962, Thiện Minh gởi đơn chống chính quyền VNCH.
- Năm 1963, sau vụ triệt hạ cờ Phật Giáo, vụ PG Ấn Quang sách động tín đồ và đồng bào biểu tình tại Ðài Phát Thanh Huế, nhân đại lễ Phật Ðản, Thiện Minh được công cử vào Ban Liên Phái Phật Giáo, đòi chính quyền VNCH hủy bỏ đạo dụ số 10, thỏa mãn 5 nguyện vọng của PG Ấn Quang . Ngày 20 tháng 08 Thiện Minh bị bắt giam và chỉ được thả sau ngày 01 tháng 11 năm 1963.

- Năm 1964, PG Ấn Quang cướp Viện Hóa Đạo và cho ra đời Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất , Thiện Minh được cử làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên. Chính Thiện Minh đã đứng ra điều động tổ chức Ðại Hội Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử lịch sử tại trường Gia Long, Sài Gòn. Những tên ác tăng Phật Giáo trong số đó có Thiện Minh lại đứng ra chống chính quyền VNCH với lý do bảo vệ tự do tín ngưỡng và tự do dân chủ. Ngày 01 tháng 06 năm 1966, Thiện Minh bị mưu sát trước Trung Tâm Quảng Ðức, bị trọng thương và phải nằm điều trị tại bệnh viện nhưng tên ác tăng vẫn sống để thi hành mưu đồ xăm lăng của bọn việt gian Cộng Sản.
- Ngày 17 tháng 03 năm 1969, Thiện Minh bị toà án Quân Sự Mặt Trận kết án 15 năm tù khổ sai và cấm cố. Khắp trong và ngoài nước vô cùng công phẩn. Tại sài Gòn, một Ủy Ban Vận Ðộng cho việt gian Cộng Sản đòi hủy bỏ bản án Thích Thiện Minh ra đời, trong đó có đủ thành phần việt gian gồm có tôn giáo, nghị sĩ, dân biểu, chính trị gia. Dưới áp lực mạnh mẽ, chính quyền VNCH đành phải ra quyết định phóng thích Thiện Minh ngày 01 tháng 11 năm 1969.

- Năm 1970, Thượng Tọa lên đường tham dự Hội Nghị Tôn Giáo và Hòa Bình Thế Giới tại Tokyo (Nhật Bản). Tại đây, Thượng Tọa đã đọc bài tham luận nổi tiếng với nhan đề '' Quan điểm của Phật Giáo về bất bạo động''với mục đích bôi nhọ, chống VNCH và ca tụng bọn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là ngoại vi của đảng VGCS. Báo chí ngoại quốc đã nhìn ra mưu đồ của PG Ấn Quang đang làm lợi cho đảng việt gian Cộng Sản , sau khi bị chất vấn bọn ác tăng này không trả lời.
- Năm 1973, khi Hòa Thượng Thích Thiện Hoa viên tịch, Thiện Minh quyền Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo ra Thông bạch gởi toàn thể Tăng Ni khắp toàn quốc phải nổ lực xây dựng vết thương chiến tranh khi hòa bình vãn hồi. (ngưng trích)

Ác Tăng Thích Hộ Giác, thế danh Ngô Bửu Đạt, sanh ngày 14-1-1928.. Thân phụ Thích Hộ Giác, Hòa Thượng Thiện Luật là một trong những ác tăng đưa Phật Giáo Nguyên Thủy vào Việt Nam và sau nầy trở thành Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Thích Hộ Giác trong thời niên thiếu học Trường Cao Đẳng Phạn Ngữ Pnom Penh. Sau khi tốt nghiệp ưu hạng tại trường nầy Thích Hộ Giác sang Miến Điện và Tích Lan nghiên cứu Phật học. Với sự lỗi lạc hai văn hệ Phạn ngữ và Pali, Ngài được tuyển thỉnh làm một trong 2500 thành viên của lần Kết Tập Tam Tạng Kinh Điển thứ VI tổ chức tại Ngưỡng Quang, Miến Điện năm 1957.

Sau nhiều năm du học ở xứ người, Hòa thượng trở về Việt Nam nhận chức vụ Tổng Thư Ký đầu tiên của Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam và thành lập Phật Học Viện Pháp Quang nơi đào tăng hơn phân nửa số lượng tăng tài của Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam.

Năm 1963 Thích Hộ Giác tham gia Ủy Ban Liên Phái chống phá VNCH và bị bắt cầm tù. Khi bản hiến chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời Thích Hộ Giác trở thành một trong những thành viên sáng lập cơ cấu Giáo hội và giữ nhiều trách vụ quan trọng như Tổng vụ trưởng Tổng vụ Xã hội, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Cư sĩ, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hoằng pháp.

Năm 1981 trước sự thúc ép của Ban Tôn Giáo, đảng việt gian Cộng Sản cho phép Thích Hộ Giác rời Việt Nam qua ngã đường bộ Kampuchia. Năm 1982 Thích Hộ Giác định cư tại Hoa Kỳ để khuếch trương các tổ đảng (molds) việt gian nằm vùng tại thủ đô người Việt Tỵ nạn Cộng Sản.