Tu Xuất: Một Vị Thế Đặc Biệt

Chuyển Hướng Đời Tu Sang Đời Thường

("Tu Xuất"): Một Vị Thế Đặc Biệt.

Đỗ Hữu Nghiêm,

Cựu Tu Sinh Dòng Tên (1959-60)

Cựu chủng sinh Hà Nội (1948-1960)

Từ Một Sự Kiện Thực Tế

1. Trong quá trình đào tạo các linh mục tu sĩ nam nữ, việc chuyển hướng đời tu là một điều đương nhiên mà nhà giáo dục chủng tu viện nào cũng tiên liệu. Cứ xem tỷ lệ những người được huấn luyện và những người tiếp tục đi theo con đường trở thành linh mục tu sĩ thì rõ.

Nhưng thái độ của cộng đồng dân Chúa (người huấn luyện trong chủng viện, các chủng sinh, thân nhân gia đình, và giáo dân, …) đối với thành phần "tu xuất" này không đồng nhất tùy theo quan điểm của từng thành phần có cá tính và trình độ đạo lý, học vấn cùng nhận thức giáo dục nhân bản khác nhau.

Từ lâu trong Giáo Hội Việt Nam, người ta, từ phía nhiều giáo dân cũng như từ chính hàng ngũ nhiều linh mục tu sĩ, đều có một thành kiến đối với những người chuyển hướng đời tu sang đời sống của một tín hữu bình thường. Thành kiến đó nằm ngay trong từ ngữ "tu xuất" mà người ta thường gọi một cách đầy mặc cảm. Thành kiến đó dường như đã trở nên một cách nhìn truyền thống trong giáo hội, khá phổ biền dưới con mắt của cá nhân, gia đình, cộng đoàn tín hữu cũng như nhiều, nếu không muốn nói là nhiều linh mục và nam nữ tu sĩ.

2. Về phía những thành viên tu trì có trách nhiệm đào luyện, có khi bằng lời nói, nhưng rõ rệt nhất như thể hiện trong cách ứng xử của Giám Đốc Chủng Viện hay cách ứng xử chung của nhiều cha giáo, như muốn cấm đoán hay cảnh giác các cựu chủng sinh đã chuyển hướng ra đời thường, trở lại thăm viếng hay tiếp xúc lại những chủng sinh đang học hay ngược lại. Ban Giàm Đốc chủng viện dường như dè chừng, thận trọng trong việc tiếp xúc với những người đã chuyển hướng đến tham lai chủng tu viện.

Trong tầng lớp những người chuyển hướng còn phân biệt những người bị Ban Giám Đốc loại bỏ vì nhiều lý do khác nhau: học lực kém, tính tình có xu hướng thế tục hay vì những lỗi phạm không hiển nhiên, …. Có những người tự ý xin chuyển hướng vì không tha thiết với đời sống tu trì, không thích học, hay có hạnh kiểm không phù hợp với các tiêu chuẩn đời sống tu hành, hay những lý do cá nhân mà chỉ có chính bản thân đương sự mới biết. Chính thái độ này đã tác động đến tình cảm và thái độ nói chung của cựu chủng sinh đối với chủng tu viện đã góp phần đảo luyện nên nhân cách họ.

3. Nhưng dường như trong một giai đoạn, chủng viện dường như không xét một cách nghiêm túc và kỹ lưỡng đến xu hướng có dấu hiệu đồng tính. Người viết còn nhớ câu nói của Linh mục Giám Đốc chủng viện Hoàng Nguyên; "Nunquam duo simper tres" để dè chừng các chủng sinh kết nghĩa riêng. Xu hướng này tuy nhiên thể hiện rõ nét ở nhiều đại chủng sinh về thực tập trong tiểu chủng viện, hay những chủng sinh lớn tuổi hơn đối với các chủng sinh nhỏ bé có dáng dấp yểu điệu hay xinh xắn như một thiếu nữ. Những người đó có thể một cách nào đó công khai, hay có thể lén lút tiếp tục suốt đời tu bất đắc dĩ.

Nhưng có những người có hành vi "kết nghĩa riêng" mà những người đồng lớp chứng kiến rõ ràng, nhưng không biết nói cùng ai, vì biết đâu có khi Ban Giám Đốc không tin những chủng sinh nói thật đó. Nhất là giữa các cựu chủng sinh và cả các chủng sinh đang theo học, người ta bàn tán xôn xao ngấm ngầm với nhau về tình trạng "con ông cháu cha" trong môi trường tu trì.

Một cựu chủng sinh gặp Linh mục Gastine trình bày về trường hợp một linh mục nọ đã có hạnh kiểm bất xứng khi quản nhiệm một xứ đạo, thì được Linh mục đó trả lời:

"Nếu ông nói với tôi từ trước, tôi đã đề nghị ngưng truyền chức linh mục cho người đó." (sic)

Có những người tiếp tục đời tu, đã được tiến cử làm linh mục, nhưng đã bị vướng mắc vào hành vi đồng tính hay kéo lê cuộc sống hôn nhân vụng trộm hai mặt khi đang làm linh mục mà tín hữu biết rõ nhưng không muốn tố giác, vì sợ bị cộng đoàn hay chính cha xứ coi là nói xấu các giáo sĩ, nói xấu mạ lỵ giáo hội cùng các Đấng làm thầy!.

4. Về phía gia đình của chủng tu sinh đã chuyển hướng ra đời, thành kiến hay mặc cảm đó còn nặng nề đến nỗi có chủng sinh từ chối tham dự lễ kỷ niệm ngày qua đời của một giám mục nọ, từng là giám đốc một tiểu chủng viện.

Điều đó chỉ được tâm sự huỵch toẹt giữa nhiều cựu chủng sinh đã chuyển hướng mà không hề được nói ra cho các cha giáo hay người có trách nhiệm trước kia ở chủng tu viện biết. Chính đương sự nói câu đó đã thực sự không có mặt trong buổi họp mặt nọ.

Một chủng sinh chọn gia nhập một dòng tu, nhưng sau thời kỳ probatio đã thấy rõ mình hơn, và quyết định xin ra khỏi tu viện. Nhưng khi về gia đình, mới thấy rõ ý đồ và ước mong lệch lạc của gia đình: "Chú này muốn ra đời, nên vào một dòng tu khó hơn và lấy lý do đó mà xin ra đời dễ dàng. Giá cứ chịu khó tu triều, thì chú ấy làm linh mục vừa sung sướng, mọi người chảo hỏi, làm vinh danh cho cả dòng họ và gia đình và bản thân mình ăn trắng mặc trơn sung sướng!

Có những chủng sinh mắc tật đồng tính, kết nghĩa riêng với nhau lúc sống trong chủng viện đã làm linh mục, nhưng kéo lê cuộc sống linh mục, thậm chí trong hàng ngũ đó có những người được đề cử làm giám mục (!)một giáo phận nọ cho đến nay mà không ai tiết lộ!

Thành kiến đó tạo ra một tình trạng có thể bất bình thường, chứa đầy mặc cảm, rất tai hại, từ lâu cho nhiều người thuộc nhiều thành phần xã hội và giáo hội khác nhau.

Di Tích Khu Nhà Thờ Tràng La Tinh Thánh Phêrô Hoàng Nguyên Hiện Nay

Thành kiến còn bắt nguồn sâu xa từ ý đồ của nhiều thành phần phụ huynh chủng sinh. Họ có quan niệm: "Gửi con cái vào học chủng tu viện, không làm linh mục tu sĩ thì cũng thành người có tương lai, có học vấn, và có địa vị xã hội nào đó khi không thành công làm linh mục tu sĩ vì điều kiện của gia đình đó khó có thể tài trợ giáo dục một người như vậy"

Tham vọng sâu xa lệch lạc ấy khiền trong giáo hội có người quan niệm tác động đến bản thân người làm linh mục và dòng họ. Những người ấy coi chủng tu viện như một chỗ tiến thân cho những người trong dòng họ."Một người làm quan cả họ được nhờ, một người làm linh mục cả họ được tiếng thơm". Nhân cách con người vì thế lại nẩy sinh một mâu thuẫn là đáng lẽ làm linh mục để phục vụ người khác, thì việc nâng cao học vấn qua quá trình tu hành lại thay đổi địa vị một người được giáo dục, trở thành một người được tạo điều kiện tiến thân trong nấc danh vọng mà nhiều người trong dòng tộc mong ước:"không làm quan ngoài đời, thì cũng làm quan trong đạo cũng được".

Nhiều làng xứ tổ chức vinh qui bái tổ các tân linh mục một cách trang trọng linh đình. Tập quán đó, khởi đầu là tốt đẹp một cách nào đó, nhưng góp phần xa gần làm nên cách ứng xử quan liêu thiếu khiêm tốn của nhiều linh mục và giám mục. Nó làm cho ý nghĩa hy sinh và phục vụ của đời sống thánh hiến giảm bớt đi nhiều.

Về phía cộng đồng dân Chúa, người giáo dân có thể vừa kính trọng vừa nghi ngại trong một trạng thái tâm lý pha trộn phức tạp, tùy theo thái độ của người ở vị trí lãnh đạo trong giáo xứ.

Về phía bản thân cá nhân, những người chuyển hướng đời tu mang một thứ mặc cảm tự ti tội lỗi thấy chuyển hướng đời tu sang đời thường, dù bất cứ lý do nào, là không đáp lại ơn gọi của Chúa. Dù "Chúa gọi thì nhiều mà chọn thì ít", vẫn mang mặc cảm "ăn hại công của giáo dục" ở nhà Đức Chúa Trời, hay chỉ chủ ý vào chủng tu viện để lợi dụng điều kiện học vấn do cộng đoàn tín hữu đóng góp cho quỹ đào tạo chủng viện của Giáo Hội.

Những người tiếp tục đời sống tu hành phần nào mặc cảm tự tôn vì coi là mình được Chúa chọn, dù khả năng kém cỏi, và đi đúng con đường ơn gọi làm linh mục và trở nên có học vấn và thánh thiện tối thiều để được chọn tiến cử tiếp lên chức linh mục hay chấp nhận đời sống tu sĩ.

Vị Trí Cùa Người Chuyển Hướng Đời Tu

Vị Thế Trần Gian Của Một Số Cựu Tu Sĩ

Sau khi đã chuyển hướng và cố thích ứng với đời thường, bản thân người viết và những người đồng cảnh ngộ đã làm nhiều nghề nghiệp để sống còn chứng kiến nhiều người cũng làm như thế. Họ bươn chải làm đủ thứ nghề nghiệp khác nhau như những người bình thường sống ở trần gian.

Ở trong quân đội, họ là quân nhân, sĩ quan các cấp, tướng lãnh… Ở trong thương trường, họ buôn thúng bán mủng, bơm bán mực bút bi, chủ quán phở,… Trong những nghề nghiệp có địa vị xã hội như bác sĩ, dược sĩ, y tá, công chức, thượng nghị sĩ, dân biểu, đốc phủ sứ, tham sự hành chính, luật sư, giáo sư đại học, giáo sư trung học, kinh doanh ngân hàng, doanh nhân, ký giả, biên tập báo, nhà văn, làm những nghề không tên, …

Nhưng điều đặc biệt của những anh chị em chuyển hướng đời tu, chính là anh chị em ở giữa những nấc thang cuộc đời, nửa tu hành nửa thế tục, khiến anh chị em đó một phần nào hiểu biết đời tu và tâm sinh lý thói quen, luật lệ, cách sống người đi tu, … Trong đời tu, cũng có những phán đoán thiên vị như "con ông cháu cha" ở ngoài đời theo hệ thống linh tông. Nhưng anh chị em đã chuyển hướng ra đời, nên cũng hiểu đới và cố thích ứng với đời phần nào, nhưng vẫn mang nhiều lăng kính phán đoán, như khi còn ở đới tu.

Những anh chi em "dở ông giở thằng" ấy thể hiện một trạng thái khó mô tả. Không được đào tạo để sống ở thế gian mà phải sống giữa thế gian. Không được đào tạo để sống đời sống gia đình mà phải dấn thân làm vợ, làm chồng, làm mẹ làm cha, làm bà nọ ông kia một cách không hoàn toàn đúng điệu thế gian. Vì thế cách nghĩ cũng như cách làm cũng lạ đời, tu không ra tu, đời không ra đời, khiến cho nhiều người phải lúng túng trong cách xưng hô, có cách sống nóng không ra nóng, nguội không ra nguội!

Họ khó thấy rõ hoàn toàn bổn phận của kẻ làm cha mẹ hay làm một thành viên (con cái anh chị em, chú bác cô dì..) trong gia đình thế nào, khi đã chuyển hướng ra đời, nhất là đối với những anh chi em lận đận lâu dài và muộn màng trong dòng đời tu.Tâm lý đó không giống như những người ái nam ái nữ, đồng tính luyến ái ngày nay. Nhưng về tâm lý có những trạng thái kiểu noltalgia đối với đời sống tu trì: mong ước một linh mục thực sự trong mọi hành vi ý nghĩ, nhưng thực tế đã là người có gia đình đang sống với vợ con!

Những Thái Độ Phản Ứng Hư Ảo Điển Hình Khác Nhau

Có nhiều biểu hiện và nguốn gốc của tình trạng này. Ở trong giáo hội trong các cộng đồng dân tộc khác, tình trạng này cộng đoàn tín đồ ứng xử thế nào người ta chưa biết rõ đầy đủ. Có thể chứng minh tình trạng ứng xử đó qua nhiều câu truyện có thực được ghi lại trong lịch sử, như:

1. Truyện Thầy Lazarô Phiền

Tình hình hoàn toàn khác ở Truyện thầy Lazarô Phiền. Thầy Phiền sinh năm 1847. Mẹ thầy chết năm 1850, lúc thầy mới ba tuổi và bố thầy hơn 46 tuổi. Năm 1860, thầy nghe Tây đánh chiếm thành Gia Ðịnh. Năm 1862, bố thầy mất khi Tây lấy Bà Rịa. Năm 1864, sau một năm rưỡi học chữ quốc ngữ, thầy vào học trường La Tinh. Năm 1866, thầy học trường d’Adran. Năm 1870, thầy đi thi tại Sài Gòn, mấy tháng sau được cử làm thông ngôn và lấy vợ. Thầy nhận được bức thư đề ngày 14 tháng 8 năm Tân Mùi, tố cáo vợ thầy ngoại tình với bạn là Vêrô Liễu. Hơn một tuần lễ sau, thầy sát hại người thầy cho là tình địch. 15 ngày sau đó, thầy đầu độc vợ. Giữa năm 1873, vợ thầy chết, thầy đi tu. Năm 1882, thầy được phong chức. Ngày 7 tháng 1 năm 1884, thầy mất. Năm sau, 1885, tôi, người trần thuật, viếng mộ Lazarô Phiền. Thật như một bản khai sơ yếu lý lịch về con đường lắt léo oan nghiệt của đời tu.

Tuy là một tiểu truyện, được hư cấu và tiểu thuyết hóa, nhưng cũng phản ảnh đến mức độ nào thực tại xã hội khi đó.

2. Hồi Ký "Đời Một Phóng Viên"

Tự sự Chân Thành bộc trực của Văn Bia, tác giả hồi ký "Đời Một Phóng Viên".

Trong Lời Tựa Cuốn Sách "Đời Một Phóng Viên" Của Văn Bia, Nguyễn Vi Khanh Đã Giới Thiệu:

"Văn Bia không viết hồi ký lịch sử, không phân tích chính trị cũng không cá nhân hóa lịch sử, không tìm cách "làm lịch sử" như các tác giả hồi ký khác! Ngược lại ông như chỉ muốn làm nhân chứng, như đã từng sống, sống một cách thoải mái tự nhiên một mảnh lịch sử. Ở đây là kinh nghiệm sống của một cá nhân trong lòng một tập thể. Bắt đầu từ thập niên 1940, cậu bé Lê Văn Bia tự biết không thể đi tu, nhưng vẫn vâng lời song thân đi tu."

Ta hãy nghe chính đương sự tự bạch:

Hai năm đầu ở trong nhà dòng, tôi vẫn chưa biết gì về tình dục. Tắm rửa còn không dám đụng chạm tới bộ phận sinh dục của mình vì Sách Phần (dạy giáo lý căn bản) có dạy rằng ''Cấm rờ mó đến chỗ dơ dáy của mình và của kẻ khác''. Dì Phước đã dạy chỗ đó là chỗ dơ dáy.

Ðến khi chỗ đó đóng một lớp trắng cứng ngắc như thạch cao kẹt giữa quy đầu làm độc đau đớn quá, tôi phải đi thú với cha linh hồn tôi là cha giám đốc Larouche. Nhờ bị vụ nầy tôi mới được dạy dỗ luôn vấn đề sinh lý. Cũng vừa đúng lúc sắp có biến cố mới, thật to tát của đời tôi.

Trong một đêm nằm ngủ bị sưng ngứa chỗ đó, tôi thò tay gãi thì xảy ra một chuyện làm tôi hoảng hồn, tưởng máu me gì trong người tôi bị bứt đứt mạch bật búng ra. Tôi lo sợ chắc tấm trải giường đỏ tùm lum. Ðó là kinh nghiệm lần xuất tinh đầu tiên của tôi, lúc ấy mới mười một tuổi.

Ðời tu học của tôi gặp trắc trở từ đây. Vì cho rằng đời tu sĩ phải trong sạch mà tôi thì đã bắt đầu dơ nhớp. Việc bị tình dục quấy nhiễu thì tôi cho là bị ma quỷ cám dỗ và tôi đã yếu đuối sa ngã. Tôi thèm giao hợp đến mức nếu có người nữ thì tôi ôm ấp làm tình suốt sáng chiều hôm chưa đã.

Tôi phải thỏa mãn bằng cách thủ dâm. Mà thủ dâm theo Giáo Luật đạo Công Giáo là tội trọng phải sa hỏa ngục. Tôi xưng tội với cha linh hồn, chịu nhận mình không còn trong sạch để cầm Chén Thánh. Cha an ủi tôi rằng tuy tôi không xứng đáng nhưng ăn năn thì Chúa tha thứ và vẫn chấp nhận tôi theo chân Người. Sau nầy vô bưng biền chiến đấu dầu gian truân khổ sở mấy thấy không nhằm nhò gì so với cuộc tranh đấu chống đòi hỏi nhục dục trong tuổi dậy thì của tôi.

Thói Quen « Thủ Dâm » Không Thích Hợp Với Đời Tu

Cởi áo dài đen tu sĩ và mặc vào bộ đồ bà ba đen du kích quấn thêm chiếc khăn rằn là hai biến cố quan trọng trong đời tôi dồn dập nối tiếp nhau. Rời nhà dòng yên tĩnh trở về sống trong vòng khói lửa mịt mờ là thoát một trận chiến lý tưởng ác liệt kéo dài vô tận để tham gia một cuộc đấu tranh dữ dằn không kém nhưng thực tế và rõ ràng thấy có ngày thắng trước mặt. Bỏ trận chiến với tình dục đi kháng chiến chống thực dân Pháp.

……………………………………………………………

……………………………………………………………

Ngày tôi đoàn tụ với gia đình, thấy trong sự đón tiếp vui mừng của ba má và anh chị em tôi có thoáng một nét buồn không giấu giếm được, nhứt là trên gương mặt của má tôi, người mà thường, và có lẽ duy nhứt, khóc nhớ tôi trong những năm dài tôi đi tu xa nhà. Tôi biết hạnh phúc lớn nhứt trong đời má tôi mà tôi cũng đã quyết tâm đem đến cho người, không phải chức được làm mẹ ông Cố (có con làm linh mục), mà là muốn được trên giường chết có người con làm cha ban phép bí tích cuối cùng.

Má ơi, những lời con viết sau đây trong Hồi Ký nầy, con không thể nói ra lúc đó để cho má biết rằng con của má không làm cha (linh mục) được, nhưng nhứt định là có một đời sống xứng đáng không thua một ông cha. Bây giờ con tin Má, ở cõi thiêng liêng, thấy rồi.

Hình như để an ủi má tôi hay cho chính tôi khỏi mặc cảm vì chữ tu xuất, nhiều bà con ngồi bàn chuyện tu hành, phê phán lối tuyển chọn quá khắt khe ''kêu nhiều gọi ít''. Tất cả 24 trẻ trong họ đạo ra đi tu một lượt với tôi, tôi là một đứa cứng cựa nhứt, cuối cùng cũng trớt quớt.

Chú Sáu tôi nói:

- Họ sàn gạo bằng rổ mương, có hột gạo cội nào bằng hột mít cũng lọt. Ở miền quê dùng vần sàn để sàn gạo cho tấm cám rơi xuống nia. Thóc tụ vô giữa hốt đi còn lại gạo. Rổ mương to bằng đầu người, cũng đan bằng tre như vần sàn nhưng lỗ to thọt ngón tay cái qua lọt, dùng để hốt sình và tát cá. Cho nên có đem rổ mương dùng sàn gạo thì hột gạo cội phải to hơn hột mít họa may mới không lọt.

Thứ hạt gạo cội được tuyển chọn làm tu sĩ đúng là phải lớn hơn hột mít, có ai thấy được trên cõi đời nầy không? Lớp tôi học tu cả thảy sáu chục đứa, hay lắm mới có bốn đậu làm cha là các cha Do, Quế, Phú và Antoine Phúc. Tôi bái phục bốn cha nầy phải là siêu nhân. Sống được đời thật sự trái thiên nhiên thì đâu phải là người thường.

Ðể diệt dục là làm tiêu tan được một thứ nhu cầu như ăn uống, các vị tu sĩ thường xuyên hãm mình đánh tội. Mỗi tối Thứ Sáu, tôi nghe trong phòng các cha vang lên tiếng roi đánh tróc tróc, được biết là họ đang đánh tội. Trong ngày, mặc dầu bận rộn việc dạy dỗ, vào những khoảng giờ nhứt định, các cha phải cầm sách Kinh Nhật Tụng đọc hết hàng chục trang Giáo Luật qui định, cho khuây khỏa lãng quên nhu cầu yêu đương xác thịt. Như vậy họa may mới giúp họ giữ mình được "trong sạch".

Ngay trong tiêu chuẩn chọn lựa cũng là cả một việc mâu thuẫn. Phải vừa hoạt bát năng nổ đầy sinh lực vừa kém đường sắc dục mà điểm để dễ nhận xét là không mê thích người nữ. Hậu quả của cách tuyển chọn nầy, theo một cuộc điều tra vừa rồi ở Mỹ cho thấy đa số cha thầy thuộc loại không ưa phụ nữ thật vì họ là loại đồng tính luyến ái. Bao nhiêu linh mục can tội kê gian với học trò giúp lễ.

Phải dùng cách hành xác khắc khổ, dồn ép quá mức hay chăng mà tôi thấy có cha Galipau nổi cơn điên vứt bỏ quần áo chạy trần truồng ngoài đường, phải đưa về Canada, sau đó hồi tục cưới vợ trở lại bình thường.

Không Hy Sinh Tình Yêu Nam Nữ Cho Tình Yêu Vị Tha Hơn

Tôi còn được biết, trong khi tôi xuất dòng thì có bạn tôi là Trần Ngọc Phan, hiện sanh sống tại Boston (Massachusetts), cũng người Saigon, vào tu sau tôi ít năm, đến chức thầy mà tình ái lai rai ướt át với một nữ sinh Huế. Nhà dòng có cẩn thận, mỗi khi cho ra ngoài như hội họp làm việc công cộng với trường khác như trường nữ Ðồng Khánh, bắt phải có hai tu sĩ cùng đi để trông chừng nhau. Nhưng cả hai xăng tăng (s'entendre = đồng lõa) đi hẹn riêng với gái dài dài.

Gần đây, anh bạn nầy có kể chuyện cũ, một hôm anh đưa con đi học đến trường Taberd tình cờ gặp một thiếu phụ cũng vừa chở con tới đó, nhận ra anh là người tình xưa, khoảng hai mươi năm về trước. Nàng không đến đổi thê thảm như trong chuyện ''giọt lệ đài trang'' song rất tiều tụy về phương diện tinh thần. Tên cô gái Huế trường túc nầy là Ngô Thị Như Hà, có nước da mặn mà và đôi mắt thật đa tình, là tình nhân của Trung Tá Lãng vừa bị chồng nàng là Thiếu Tá Hổ bắn chết.

Báo chí lúc đó đang khai thác tối đa chuyện tình tay ba nầy, và cả tay tư nữa, vì úp mở cho biết có bóng dáng linh mục Cao Văn Luận sau lưng giai nhân là một học trò cũ có liên hệ thân mật với ông đến mức bị nhiều tiếng xầm xì.

Có lẽ vì nhờ linh mục Luận khi ấy làm cố vấn cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu che chở nên chuyện tranh giựt gái Ðồng Khánh Sông Hương Núi Ngự quá đa tình nầy bằng án mạng được xử gần như chìm xuồng. Phải chi những giờ phút hò hẹn thơ mộng ngắn ngủi trên núi Ngự hay bên bờ sông Hương giữa chú Ðệ Tử với cô nữ sinh Ðồng Khánh năm nào không bị đứt đoạn vì lương tâm tu hành, thì tình duyên nàng ta đâu có trắc trở dài dài từ Huế kéo lê vào Saigon

Đã Tu Hành Mà Chưa Trọn Đường Tu

Có nhiều vị đã được phong chức rồi vẫn lột áo dòng xin hoàn tục. Tôi khâm phục sự can đảm và lòng ngay thẳng của các vị nầy. Họ đáng trọng hơn các kẻ cố bám víu vào chiếc áo dòng mà làm nhơ bẩn nó, núp dưới nó hay còn lợi dụng nó nữa để làm chuyện tội lỗi còn hơn người thường, như quấy nhiễu tình dục làm chuyện dâm dục với con nít, thông gian với vợ con bổn đạo, cưỡng dâm hãm hiếp dì phước, bà xơ (soeur).

Tôi không lên án, chỉ vô cùng thương hại cho những kẻ sống giả hình nầy, vì họ chỉ là nạn nhân của Giáo Luật khắc khe. Trong hoàn cảnh họ, nếu tôi cố gắng tu như họ chắc tôi thành ''ông linh mục Phanxicô Xavie Lê Văn Bia'' bạo dâm hủ hóa còn hơn họ nữa.

Chính Giáo Hội thông cảm tu sĩ không thể thắng nổi bản năng giới tính, nên tha thứ vi phạm nặng nhứt trong ba lời khấn hứa giữ đức Trong Sạch, Khó Khăn và Vâng Lời. Linh mục ở nơi nào phạm lỗi bị lộ tẩy thì được đưa đi trấn nhậm chỗ khác. Khi không còn chận cấm được lời tố cáo của tín hữu thì Giáo Hội chịu bỏ tiền bạc ra mua chuộc bít miệng nạn nhân chớ vẫn không trừng phạt linh mục phạm tội.

Phải công nhận hầu hết các vị linh mục dính líu đến chuyện quấy nhiễu tình dục là những đấng có tài hùng biện và năng nổ, làm việc đắc lực, được nhiều cảm tình. Song áp dụng giải pháp bao che là dùng tệ hại nầy gia tăng tệ nạn khác mà thôi.

Lúc sống ở Bà Chiểu, tôi thường đi xưng tội với cha Gia-cô-bê Huỳnh Văn Của ngồi xứ ở nhà thờ Gia Ðịnh. Tội tôi thường xưng, và gần như duy nhứt để có mà xưng, là thủ dâm, vì tội nầy theo Giáo Luật là tội trọng phải sa hỏa ngục đời đời kiếp kiếp. Ghê lắm! Cha Của sau nầy làm Giám Mục, lần nào cũng khuyên tôi có một câu mà tôi muốn nhắn lại với các vị tu hành đang đau khổ nhọc nhằn, và nhiều đấng phải nhục nhã nữa, vì vấn đề sinh lý phải có của một con người đàn ông mạnh khỏe, là: ''Con hãy lo cưới vợ''.]

Lời Bạt 2001 Hồi Ký Văn Bia Của Võ Kỳ Điền,

"Đọc từng chương, từng chương trong cuốn Hồi Ký, ta được biết, ký giả Văn Bia xuất thân trong một gia đình công giáo thuần thành. Họ đạo Búng là một họ đạo lâu đời nhứt miền Nam, có Á Thánh Gẩm, vị thánh tử đạo đời Thiệu Trị.

Ký giả Văn Bia được gia đình dạy dỗ giáo lý và cho theo học chủng viện từ nhỏ với ước mong trở thành linh mục, nhưng trớ trêu thay cái thể xác trần tục, nhơ nhớp của con người ông lúc còn trai tráng cản trở chuyện tu hành, việc làm lén lút ban đêm của ông trái với giáo luật. Ông đã phạm tội gì lớn lao quá vậy? Ðã bao phen ông lên xưng tội với cha xứ, cái tội tày trời là... thủ dâm.

Hình như cho tới bây giờ, ông Văn Bia cũng còn nghĩ rằng hể người dâm dục thì không thể làm linh mục được? Tôi bèn nhớ tới Kim Thánh Thán, nhà phê bình nổi tiếng Trung Hoa đời Thanh có lần bàn về thầy tu Phật Giáo: "Nếu làm tì khưu lại được công nhiên ăn thịt, thì mùa hè nấu một nồi nước, dùng con dao bén, cạo đầu cho sạch." Hai chữ công nhiên hay quá sức.

Nhắc tới đây, tôi nhớ ông Văn Bia ghi lời khuyên của linh mục Của:

- "Con nên về cưới vợ."

Thành Kiến Chuyển Hướng Đời Tu

Người ta cho rằng chuyển hướng đời tu ra đời thường là những người không đủ tư cách để đi tu, như nghịch ngợm, vô ký luật, không chịu khó, không vâng phục, chấp nhận hy sinh. Thưc ra nếu có, thì triệu chứng như thế có thể cho biết ơn gọi của người đó là tìm hướng khác.

Kết quả của một cách ứng xử trong quá trình huấn luyện nào đó có thể tạo ra một thành phần tu sĩ chỉ biết vâng phục tối mặt, thiếu cởi mở, đối thoại, hay một tầng lớp người có thành kiến hay mặc cảm lố bịch trong giao dịch với những người không còn tiếp tục tu hành. Đới tu lành mạnh không hề cách biệt, thâm chí khinh rể những người đã chuyển hướng đời tu, ví bất cứ lý do nào, vì một thái độ mặc cảm như vậy tự bản chất của nó đã trái với đức bác ái.

Những nguyên nhân sâu xa tạo ra thành kiến

Hình thành một nếp sống không bình thường

Có lẽ người trong xã hội, nhất là nữ giáo dân càng tỏ ra khúm núm tôn trọng và đề cao chức vụ Linh mục thì người chuyển hướng ơn gọi tu hành càng có vẻ khính dể thù ghét những người bỏ nhà Đức Chúa Trời.

Trong thực tế, một số, có thể đông đảo, linh mục có cử chỉ tỏ ra chấp nhận để người tín hữu có một thái độ cung kính thái quá, như con "xin phép lạy cha". Chính thái độ âm thầm làm thinh chấp nhận ngôn ngữ hay cử chỉ cung kính thái quá của tín đồ đã củng cố tinh thần "servus servorum" trở thành một thứ venerabilis patronus như vậy, và những người tu hành trở thành những người có quyền bính trong lãnh vực tôn giáo một cách méo mó

Thậm chí nhiều linh mục tu sĩ được đối xử như thế không những không thẳng thắn phản đối, mà còn có thái độ tích cực hơn như ưa thích đước quí trọng như vậy và khuyến khích người tín hữu có cử chỉ và thái độ như thế, nhất là trong những tầng lớp tín đồ ở thôn quê, hay thiếu nhận thứ, vì ít học vấn cấn thiết.

Thíết tưởng người tín hữu bình thường không nên khúm núm mà nên biểu lộ và xây dựng một tác phong cung kinh nhưng bình đẳng ứng xử xứng đáng, giữa tín đồ thường và giáo sĩ. Nguợc lại thái độ trưởng thành của các linh mục tu sĩ cũng phải có lời nói hay thái độ cương quyết dứt khoát chối từ những cử chỉ và thái độ như thế dành cho mình và còn phải răn dậy tín hữu không nên làm thế!

Linh mục luôn luôn được tôn vinh là Alter Christus !?

Sự tôn kính không đúng mức dễ tạo ra một tâm lý khúm núm, vâng lời tối mặt, thậm chí "chống cha chống Chúa và đồng hóa nhiệm vụ của mọi thứ linh mục ngang hàng với Thiên Chúa!", tạo nên một hố ngăn cách kẻ trên người dưới xa cách trong ứng xử giữa người đi tu và không đi tu.

Đi tu là cuộc sống khiêm nhường, nghèo khó, chấp nhận sẵn sàng phục vụ và tứ chối để kẻ khác phục vụ, không phải chỉ trong khung cảnh những người cùng tu đối với bản thân minh, đối với nhau mà đối với mọi người

Chính thái độ đó tạo ra hai tình trang nghịch lý ở hàng ngũ những người bị áp lực chấp nhận tiếp tục ờ trong nhà tu mà không hóa giải những ấn ức tâm lý. Nhưng đây lại là con số thường đông đảo hơn chính những người còn theo đuổi đời tu, ít ra là theo bề ngoài.

Một Số Linh Mục Tu Sĩ Công Khai Đứt Gánh Giữa Đường

Trong mục này chúng tôi muốn nói đến một số linh mục tu sĩ đã bỏ hẳn đời tu trì sau khi đã được tấn phong chính thức làm linh mục tu sĩ trong hàng ngũ thành phần trong hàng giáo sỹ trong giáo phẩm phục vụ ở các cơ sở khác nhau trong Giáo Hội. Bản thân người viết chưa có điều kiện nghiên cứu xã hội học, tiếp xúc trực tiếp với những đối tượng này. Một số người chính bàn thân người viết đã biết cụ thể như các cựu linh mục

TT

Họ Tên

Nơi làm việc trước

Tình hình lúc chuyển hướng

1

Nguyễn Văn Mai

Quản Lý Ấn Quán Têrêsa, Phồ Hành Trống, quản lý Toà Giám Mục Hà Nội

TGP Hà Nội

RIP năm (?) Hà Nội

2

Nguyễn Văn Trinh

Tuyên Úy sinh viên Công Giáo, Huế

TGP Huế

3

Nguyễn Khắc Xuyên PSS

Giáo Sư Đại Chủng Viện Solitude PSS, ở Issy les Moulineaux Paris

Gốc Hà Nội

RIP 1/2/2005

Nha Trang

4

Trần Thái Đỉnh PSS

Giáo sư Giám Đốc Đại Chủng Viện Kim Long, Huế

Gốc Bùi Chu, TGP Huế RIP ngày 12/11/2005

Sài Gòn

5

Lê Tôn Nghiêm

Giáo Sư Đại Hoc Sàigòn, Huế, Vạn Hạnh

Gốc Bùi Chu, TGP Sài Gòn, RIP năm (?) Sài Gòn

6

Lại Hữu Chí

Giáo sư TCV, Chính xứ Nam Thái, Tân Bình, Sàigòn

Gốc Hà Nội, TGP Sài Gòn

RIP 12/10/2007, Thủ Đức

7

Nguyễn Công Thục OP

Tu Viện Mân Côi, 482A Đường Phan Thanh Giản (nay là 90 Nguyễn Thái Sơn, F.3), Gò Vấp

Gốc Bùi Chu, TGP Sàigòn

8

Nguyễn Văn Số SDB

Tu viện Don Bosco, số 4, Đường Võ Tánh Đà Lạt

Gốc Hà Nội, TGP Sài Gòn

9

Lưu Hồng Khanh

Giáo Sư Thần Học, CSsR/VN

Gôc Vinh/ Đức

10

Nguyễn Văn Đào

Giám Đốc Đệ Tử Viện CSsR/VN

Gốc Hà Nội/+háp

11

Nguyễn Ngọc Lan

Giáo Sư Triết Thần Học CSsR/VN

Gốc Huế (RIP

12

Nguyễn Nghị

CSsR/VN

Gốc Há Nội

13

Trần Công Thạch

CSsR/VN

Gốc Haà Nội

14

Trần Đức Tường

CSsR/VN

Gốc Hà Nội

15

Đâu Vương Quyền

Phan Rang, Ninh Hòa

Gốc Vinh, Gp Nha Trang

16

Uông Đình Đạm

Di tản sang Hoa Kỳ

Hà Nội

gốc Gp New Orleans, LA

17

Tạ Đình Vui, OFM

tu viện Phanxicô Thủ Đức

TGP Sàigòn

Ngoài ra còn rất nhiều cựu linh mục tu sĩ đứt gánh giữa đường thuộc các giáo phận, tố chức tu trì khác thuộc thế hệ tiền bối hay hậu sinh mà người viết chỉ nghe mà không biết mặt hay không nghe đến

Một Cuộc Đời Trăn Trở

Người biên soạn chứng kiến trọn vẹn các giai đoạn của cuộc đời một cựu linh mục từng là một cựu chủng sinh đại chủng viện Xuân Bích Hà Nội, từ khi người đó thực tập trong chủng viện Hoàng Nguyên đến khi tiếp tục dậy một thời gian trong chủng viện, thụ phong linh mục, ra giúp xứ và từ đó vấp phạm với một người con gái của một ông trùm trong giáo xứ.

Linh mục đó còn giấu hành tung đến độ phao tin thất thiệt là gia nhập một dòng tu, rồi đi nước ngoài. Kỳ tình là dan díu tình cảm với một cô gái con ông trùm xứ, nhưng tay hòm chìa khóa của nhà xứ đều do cô ấy nắm giữ.

Hai người xây tổ ấm trên miền cao nguyên Đà Lạt được bốn người con, nhưng cả gia đình ấy đã sống một cuộc đời vất vưởng bất hạnh. Ông khốn khó phải đi đạp xích lô kiếm sống và bị gia đình bạc đãi! Sau thời gian xin tạm ngụ tại Tu Viện Naza Thủ Đức, cựu linh mục đó chết đi tại dây, mà mẹ con người tình tan nát trên Đà Lạt. Sau đây là một lới chứng của một linh mục:

« Về Bác L…, thì cũng đã xong rồi. Ngài đã mất ngày 12/10/2007. Mình đã lo mọi sự, thiêu xong đưa cốt về Đà Lạt. Bà ta không vào. Hai con vao, còn một đứa thì đi tù, nên không vào được. Nhưng khi đưa cốt àvề, thì bà ta và đứa con ở tù được ra tạm để gặp. Hai người đón khi xe vào nhà. Mọi sự tốt đẹp. Bà có vẻ hối hận. Nhưng vì hoàn cảnh… Thằng con út làm ăn sao đó, nợ nần quá nhiều… Bà phải bán nhà bán cửa để trả nợ… Cuối cùng phải đi tù.

Mẹ kiện tụng nhà với người con gái là U…. Đưa nhau ra tòa vì nhà cửa … Tệ lắm. U. đã lo cho em ra tù và đã lo cho em có nhà cửa. Mình đã tạo điêu kiện để anh chị em gặp nhau và giúp đỡ nhau. Nhưng còn bà ta thì chưa xong. Bà vẫn có kiện tụng, đòi nhà của con gái. Tòa đã xử xong. Con thắng vì nhà của con, mẹ đứng tên. Cuối cùng con phải trả mẹ 80 triệu. Con đã trả xong nhưng mẹ lại kháng án ???

Thôi mọi sự đều là phù vân… Nhưng người ta chẳng nhận ra điều đó… Các con đều hiểu về sự sai sót của chúng đối với cha chúng… Nhưng lực bất tòng tâm. Mình cũng thông cảm và không đòi hỏi chi cả. Mình còn muốn giúp đỡ nhưng không biết như thế nào ? »

Thật là cám cảnh bẽ bàng cho một đời người éo le!

Trong lúc đó, một người đã từ bỏ cuộc đời tu hành với tư cách một linh mục để công khai chuyển hướng sang đời thường và đã định hướng cuộc đời của mình tương đối ồn định.

Chuyển Từ Đời Thường Sang Đời Tu Về Lúc Cao Niên

Nhưng hiện nay, trong giáo hội như tại Pháp có một tổ chức dòng tu tiếp nhận một số người đã góa vợ gia nhập chốn tu hành. Chẳng hạn như tu đoàn sau đây:

Anh chị Đỗ Mạnh Tri mến:

Tôi nhập viện Frères de la Résurrection đến nay được một tháng, hầu như vào một thế giới mới, với một nguồn sống mới, một niềm tin vui mới và một khác vọng mới về nguồn tư tưởng : trước sau vẫn lui tới các vấn đề văn hóa, tín ngưõng, Thánh Kinh, cùng tâm niệm một Phúc Âm, một Thánh Vịnh… song chiều kích suy tư bỗng nhiên rộng lớn, bao la, trùm bọc mỗi giây phút của cuộc sống.

Trước khi vào đây tôi đã thanh toán toàn bộ tủ sách gia đình tính đến trên dưới hai nghìn, đem phân phát cho các hội đoàn, thư viện, chỉ giữ lại một số sách thuộc loại tham khảo, références với 16 bộ. Nhà cửa, vườn tược cũng được đưa lên thi trường địa ốc.

Cách đây ba tuần tôi đã được nhận vào Nhà Tập thuộc Oblats Réguliers dòng Bénédictin dưới sự bảo trợ của Abbaye de Ligugé cách đấy 80 km : nhà dòng chi nhánh của Abbaye de Solesmes. Hằng ngày 4 giờ 30 đọc kinh Nhật Tụng, Thánh Lễ, chàu Mình Thánh ; 6 giờ dùng vào việc Lectio Divina và truy cứu Thánh Kinh. Nghĩa là sống trong một thế giới mà ở ngoài đời không hình dung được.

Chúng tôi tất cả trên dưới 10 người, tất cả là góa vợ, có hai người được Tòa Thánh cho phép chịu chức linh mục, trạc tuổi từ 67 đến 85. Mọi người đến đây để dùng nhuệ khí còn lại để được sống một mối tình cao cả, AD MAJOREM AMOREM, sau khi đã bị mất đi tình yêu vợ chồng. Nay được chuyển sang tình nghĩa huynh đệ trong tinh thần tương kính, tương trợ. Người « bề trên » được bầu với nhiệm kỳ năm năm với chức vụ là servant, anh giúp việc. Mọi công tác được phân công hằng tuần vào sáng thứ hai trong buổi họp gọi là « chapitre ». Mỗi sáng dành một giờ ban sáng để thay nhau thuyết trình một đề tài được chọn. Mỗi người sống trong một phòng 3m50x10m. Có đủ tiện nghi riêng biệt. Phòng họp, phòng ăn, nhà bếp rộng lớn. Nhà nguyện được trang bị hai dãy stales của các tu viện cổ xưa.

Về mặt tài chánh Tổ chức Fraternité được Hiệp Hội gọi là Association de soutien aux Frères de la Résurrection tài trợ phần lớn. Hiệp Hội này là chủ nhân của địa ốc tu viện. Các anh em đóng góp mỗi người một nửa số thu nhập hằng năm của mình để chi tiêu về ầm thực.

Hiện nay tôi chưa định mua ordinateur để làm việc. Tất cả thư từ, văn kiện đều viết tay. Nếu không còn muốn sáng tác gì nữa, thì rất có thể khỏi dùng đến computer.

Đấy, tôi xin tường trình một vài điểm về cuộc sống mới để anh chị hay biết và có dịp cho các anh chị em Nhóm 20 được rõ.

Mến chúc anh chị mọi sự tốt đẹp trong Chúa Kitô

(Đã ký) Bửu Sao

(André Bửu Sao : Thư viết từ Marcillac, ngày 15/5/2008. Prieuré Notre Dame de Lanville 160140 Marcillac- Lanville France)

Bao Nhiêu Người Chuyển Hướng Đời Tu

Thử Bàn Đến Một Thống Kê Xác Xuất

Tôi chi tạm thời tính từ nam 1950, có bao nhiêu nguời đã chuẩn bị cuộc sống tu hành lại trở về sống cuộc sống trần thế như những người bình thương. Có nhiều loại đi tu bỏ hẳn đời tu: những người đi tu trong các dòng tu (nôm na là các tu sĩ dòng, làm linh mục hay không) và những người đi tu trong các giáo phận (vẫn thường gọi là các linh mục triều).

Người ta chỉ có thể nghiên cứu được những con số chính xác của từng đơn vị trong quá trình đào tạo ở các chủng tu viện căn cứ vào các dữ liệu chính xác còn được lưu trữ. Hiện nay chúng ta có tất cả 26 giáo phận, sáu đại chủng viện với một cơ sở nhánh của đại chủng viện Sàigòn tại Xuân Lộc, Đồng Nai và học viện, kinh viện và tu viện huấn luyện các linh mục tu sĩ dòng thì rât nhiều tổ chức tu trì như các dòng tu, tu hội, tu đoàn khác nhau, Mỗi giáo phận trước 30/4/1975 đã từng có một tiểu chủng viện hay cũng có thể có một đại chủng viện tương ứng của riêng giáo phận hay chung với nhiều giáo phận

Chúng ta chỉ tính những người chuyển hẳn đời tu sang cuộc sống trần thế mà không tính đến những tu sĩ tu chuyển từ cơ sở dòng tu này sang cơ sở khác. Trong lớp học của bản thân người viết trung bình tỉ lệ những người được chọn tu trọn vẹn, thì tỉ lệ thường là 1/10 người. Như thế làm con toán nhanh chóng chúng ta có số lượng những người chuyển hướng đời tu. Nếu chúng ta có được số linh mục tu si hiện còn sống đời sống tu hành , thì làm một bài tính nhân đơn giản con số đó lên 10 lần , có thể chúng ta có được tổng số những người đã trở về sống cuộc đời bình thường.

Theo các số liệu thống kê về hiện tình Giáo Hôi Việt Nam (trong Đại Hội IX của HDGMVN năm 2005)

Chúng ta có các con số, thuộc toàn thể 25 giáo phận của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam:

Dân số Công Giáo: 5.667.428

Giáo Hội Việt Nam hiện nay có 26 giáo phận chia làm ba giáo tỉnh hay tổng giáo phận:

Giáo Tinh Hà Nội: Hà Nội, Lạng Sơn, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hưng Hóa , Bùi Chu, Thái Binh, Phat Diệm, Thanh Hóa, Vinh (10)

Giáo Tỉnh Huế: Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Kontum, Nha Trang, Ban Mê Thuột (6)

Giáo Tỉnh Sàigòn: Sàigòn, Vĩnh Long, Cần Thơ, Mỹ Tho, Đà Lạt, Long Xuyên, Phú Cường, Xuân Lộc, Phan Thiết, Bà Riạ Vũng Tàu (tách từ Xuân Lộc) (11)

Mấy Con Số Có Ý Nghĩa:

Linh Mục

Chủng tu sinh

Tu Sĩ

Triều

Dòng

Tu học

Bự Bị

Nam

Nữ

2.560

467

1.419

1.764

1.833

11.421

3027

3183

15087

Tổng Cộng: 3027+3183+15087 = 21297 Linh mục tu sĩ

Nếu cứ tính tỷ lệ đào tạo thành công là 1/10, thì số những người đã chuyển hướng ra đời thường là: 21297 x 10 = # 212.970 người.

Linh Mục Trong GP: 2281; LM Ngoài GP: 41; Linh Mục Dòng: 467; Tân Linh Mục: 138; Linh Mục qua đời: 34; Chủng Sinh đang học: 1217; CS Học Xong: 202; CS Dự Bị: 1764; Nam Tu: 1833; Nữ Tu: 11421(t.511) Giáo Hội Công Giáo Việt Nam: Niên Giám 2005. 2005. Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội, 966 trang, 16x27cm

Giáo Xứ Giáo Phận: 1418 LM; Giáo xứ Dòng: 95; Giáo Xứ: có LM nơi khác đến: 576; Giáo Xứ có tu si tín hữu trong coi: 371 ; Giáo Xứ Không người điều hành: 58

Ta có thể có một hình ảnh là khoảng 84 dòng tu, tu hội, tu đoàn và sáu Đại chủng viện và Đại Chủng Viện Nhà Xuân Lộc tạo nên một số lượng lớn những người từ bỏ đời tu và chuyển hướng sang cuộc sống trần thế bình thường.

Ta thử xem hiện nay có bao nhiêu hình thức tu trì trong Giáo Hội Việt Nam.

Số Liệu Tình Hình Các Dòng Tu Công Giáo ở Việt Nam

Biểu đồ 1. CÁC TỐ CHỨC TU TRÌ CHO GIỚI NAM

Tố Chức Tu Trì Đời Sống Thánh Hiến

Dòng Tu Quyền Giáo Hoàng

Tu Hội Đời Sống Tông Đồ

Tu Hội Đời

1. Biển Đức

Tu Đoàn Giáo Hoàng

Q. Giáo Hoàng

2. Chúa Cứu Thế

1. Hội Thừa Sai Paris

1. Prado

3. ĐaMinh

2. Truyền Giáo Vinh sơn

Q. Giáo Phận

4. Lasan

3. Linh Mục Xuân Bích

1.Chúa Giêsu (Tp HCM)

5. Phanxicô

Tu Đoàn Giáo Phận

2. Đắc Lộ (Tp HCM)

6. Don Bosco

1. Giáo Sĩ Nhà Chúa

3. Gia Đình Na Gia (Tp HCM)

7. Tên

2. Nhập Thể-Tận Hiến-Truyền Giáo

4. Nhà Chúa Thánh Gioan Tiền Hô (Tp HCM

8. Thánh Thể

3.Thừa Sai Thánh Mẫu Chúa Cứu Thế

9. Tiểu đệ Chúa Giêsu

4. Hội Thừa Sai Việt Nam

10. Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa

11. Xitô

12. SVD

13.Thánh Tâm

Dòng Q. Giáo Phận

1. Anh Em Đức Mẹ Người nghèo

2 Đồng Công

3. Lời Chúa (Thừa Sai Đức Tin)

4. Thánh Gia

5. Thánh Giuse

6. Thánh Tâm

13 + 5

3 + 4

1 + 4

18

7

5

Tổng Cộng Có 30 Tố Chức Tu Trì Việt Nam Cho Nam Giới

Biểu đồ 2. Các Đại Chủng Viện Giáo Phận Tại Việt Nam Hiện Nay

Chủng Viện

Ban Giảng Huấn

Chủng Tu Sinh

1.Thánh Giuse Hà Nội, Kẻ Vĩnh, Kẻ Non, Kẻ Sở từ TK18

40 Phố Nhà Chung Hà Nội. Đt: 04 8289853. Tax: 84 9285073

E: dcvhanoi@hn.vnn.vn

20

162

Các GP: Hà Nội, Hài Phòng, Hưng Hóa, Phát Diệm, Bùi Chu, Bắc Ninh, Thái Bình, Lạng Sơn (và Dòng Xitô Châu Sơn)

2. Huế

Từ tk 18, 30 Kim Long Huế. Đt: 054 528230 Fax: 054 529265

E: antonhien@pmail.vnn.vn

binhlouis@dng.vnn.vn

28

89 (kể cả 21 tu sĩ Thiên An và Thánh Tâm)

3. Thánh Giuse Tp Sàigòn, từ tk 19

6 Tôn Đức Thắng, Bến Nghé I Tp HCM. Đt: 08 8290109

E: dcvgiuse@tlnet.com.vn

28

232 chủng sinh dã huấn luyện (1986-2003)

173 thụ phong linh mục

4. Sao Biển Nha Trang, từ 31-12-1991

60 Đường số 9, Phước Long, Nha Trang. Hộp Thư 61 NT.

Đt: 058 881095. Fax: 84 058 882862 dcvsaobien@dng.vnn.vn

29

84 đang thụ huấn

127 đã huấn luyện (kể cả bổ túc)

5. Vinh Thanh

Xã Nghi Xuân, Nghi Lộc, Nghệ An.

Đt: 038 861266.

E: dcvvt@yahoo.com

# 28

89

6. Thánh Quý

87/1 Võ Tánh, Cái Răng, Cần Thơ. Đt: 071 846617. Fax: 84 071 911132

27 +

167 (124 đang huấn luyện trong ĐCV và 43 đang thực tập)

7. Xuân Lộc (Chi Nhánh Của Đại Chủng Viện Sàigon)

?

?

Tống Cộng: 6 Đại Chủng Viện và Chi Nhánh Xuân Lộc cho khoảng 160 Nhân viên Giảng huấn (kể cả điều hành) và khoảng 670 Đại chủng tu sinh thuộc 3 Tổng giáo phận và 23 Giáo phận từ niên khóa 2002-2003 trở về sau

(Niên Giám 2005. Chương 17, tt. 288-304)

Biểu dồ 3. CÁC TỔ CHỨC TU TRÌ CHO GIỚI NỮ

Tu Hội Đời Sống Thánh Hiến

Dòng Tu

Dòng Tu Đời sống Tông Đồ

Tu Hội Đời

Dòng Tu Q. Giáo hoàng

Dòng G. Giáo Phận

Q. Giáo Hoàng

1. Biển Đức

1. Nữ Tu Đa Minh Việt Nam (Bùi Chu, Tam Hiệp, Thánh Tâm, Rosa Lima, Lạng Sơn)

1. Dâng Truyền OMMI

2. Cát Minh

2. Nữ Tu Đức Mẹ Người Nghèo

2.Nữ Lao Động Thừa Sai (TM)

3. Clara

3.Con Đức Mẹ Đi Viếng

Q. Giáo Phận

4. Chúa Giêsu Hài Đồng

4. Con Đức Mẹ Mân Côi Trung Linh

1. Hiện Diện & Sống Tp HCM

5. Chúa Quang Phòng

5. Con Đức Mẹ Mân Côi Chí Hòa

2. Nô Tỳ Thiên Chúa Tp HCM

6. Con Đức Mẹ Phù Hộ

6. Con Đức Mẹ Nam Vang

3. Tôi Tá Thánh Tâm Tp HCM

7. Đức Bà

7. Con Đức Mẹ Vô Nhiễm

8. Đức Bà Truyền Giáo

8. Khiết Tâm Đức Mẹ

9. Nữ Tì Thánh Thể

9. Mẹ Thăm Viếng Bùi Chu

10. Nữ Trợ Thế Thánh Tâm Chúa Giêsu

10. Mến Thánh Giá, (10- 33):

[Giáo Tỉnh Hà Nội] Bùi Chu: Đt: 0350 874946

Hà Nội: 04 8287061 Hưng Hóa:

Vinh: 038 861238

Phát Diệm: 030 862321

Thanh Hóa: 037 855610.

dmtgth@hotmail.com

[Giáo Tỉnh Huế]

Quy Nhơn: 056 823120 / 817330

mtgqn@dng.vnn.vn

Huế: 054824594

mtgsh@dng.vnn.vn , Nha Trang: 058 863020

([Giáo Tỉnh Sài Gòn] Cái Nhum: 075 873139

Thủ Thiêm: 08 7400455 / 740029

Cái Mơn: 075 875146

caimonmtg@hcm.vnn.vn

Chợ Quán : 08 9234482 / 9231484

maryhien@yahoo.com

Gò Vấp: 08 8941492

viti@hcmc.netnam.vn

Đà Lạt: 063 864730 (ĐL) ; 08 9316236 (HCM)

mtgdl@hcm.vnn.vn + Khiết Tâm: 08 8960623

Tân Lập: 08 7431125

mtgtanlap@hcm.vnn.vn

Tân Việt: 08 8426307

mtgtanviet@hcm.vnn.vn

Thủ Đức: 08 8964001

khan@bdvn.vnd.vn

Cần Thơ: 079 820484

hdmtgct@hcm.vnn.vn

Tân An: 072 826819

mtgtanan@hcm.vnn.vn

Bắc Hải: 061 881148

dongmtgbhxl@bdvn.vnd.net

Phan Thiết: 062 870660

hdmtgpt@yahoo.co.uk )

11.Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ

34.Nữ Tu La San

12. Phaolô Thành Chartres

35.Nữ Tì Chú Giêsu Linh Mục

14. Phaolô Thiện Bản

36. Nữ Vương Hòa Bình

15. Tiểu Muội Chúa Giêsu

37. Thừa Sai Bác Ái

16. Xitô Nữ

38. Thừa Sai Trinh Vương Bùi Chu

Tu Đoàn Đời Sống Tông Đồ

39. Thừa Sai Trinh Vương Bùi Môn

Q. Giáo Hoàng

1. Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn

Q. Giáo Phận

1.Ảnh Phép Lạ

2. Nhập Thể-Tận Hiến-Truyền Giáo

16 + 1 + 2

1 +10 (10-33) + 6

2 + 3

19

30

5

Tổng Cộng: 54 Tổ Chức Tu Trì Công Giáo Cho Giới Nữ Việt Nam

Con số ước lượng 212.870 người chuyển hướng đời sống tu trì ra ngoài đời sống trần thế bình thường chỉ là một con số xác xuất, và trong thực tế có thể đông hơn

Trong thực tế trước 30 tháng 04 năm 1975, tổ chức các dòng tu Công giáo còn phức tạp hơn do các tiểu chủng viện (triều, giáo phận) và các đệ tử viện hay kinh viện (dòng tu). Tiếu chủng viện hay để tử viện có thể nhiều ít tùy theo sự phát triển của các cơ sở ở mỗi dòng tu và giáo phận và tỷ lệ những người làm linh mục thường rất cao so vói những người bỏ đời tu hành một cách tự nhiên

Từ đó những người bỏ đời tu ra ngoài đời cũng có những tâm trạng khác nhau tùy theo các ứng xử và trình độ của mổi chủng tu viện đào tạo. Có thể nhìn vào đó để thấy hệ thống nhưng người đi ra không luôn luôn đơn giản cho mỗi giới.

Những chủng tu viện đào tạo ra các linh mục, nhưng nhiều dòng tu chỉ đào tạo ra các tu sĩ không làm linh muc.

Thành kiến tâm lý đó trở thành một thứ tâm lý bệnh hoạn, kiềm chế nhiều người gần như bó buộc phải âm thầm chấp nhận đời tu, dù tính tính của mình rõ ràng là phù hợp với cuộc sống ngoải thế gian thay vì tu hành. Nhưng người như thế đã phải kéo lê đời tu mà không bao giờ thấy mình hạnh phúc khi chọn đi con đường miễn cưỡng trái với bản tính tự nhiên của mình.

Tâm trạng của những người chuyển hướng đời tu ra sống đời binh thường thật phức tạp đa đoan. Thật khó tiêu chuẩn hóa tâm lý của mỗi người, phương chi người chuyển hướng đời tu. Tùy theo hoàn cảnh và tính tình mỗi người khi chuyển hướng đới tu, mà tâm trạng cũng thay đổi khác nhau.

Nói chung đó là một loại người không bình thường như một tín hữu trung bình, vì những người "từng ăn cơm Nhà Đức Chúa Trời" chuyển hướng ra đời cũng mang dấu ấn tu trì trong cách ăn nói xử sự với người đời. Càng sống lâu trong đời tu thì càng mang nhiều dấu ấn giáo dục làm biến đổi nhân phẩm con người đó.

Có những người làm linh mục rồi ra khỏi đời sống tu trì. Có những người được đào tạo ở một chủng viện cấp trung học. Thực ra có nhiều nguyên nhân cho một người phải bỏ đời tu.

Một cách linh thánh câu nói của Chúa Giêsu trong Phúc Âm thật rõ ràng: Trong dụ ngôn về nước trời giống như một vườn nho, Nhiều người rốt nhất sẽ nên người nhất "Chúa gọi thì nhiều mà chọn thí ít" (Mt XX, 16). Người ta hay nêu ra đoạn này trong Tin Mừng để nói đến nhiều loại on gọi, trong đó có ơn gọi di tu làm linh mục hay không làm linh mục.

Giáo Hội Nên Ứng Xử Thế Nào Với Những Thành Phần Này?

Đây là một vấn đề có thể chưa ai trong giáo hội đặt ra như một chính sách trưởng thành ổn định nhất quán có trách nhiệm của Giáo Hội đối với những người đã chuyển hướng sang đời thường. Tôi nói như thế, vì những người này vẫn là thành viên của cộng đồng dân Chúa. Thế mà trong thực tế họ đã bị phó mặc cho định mệnh cuộc đời của mỗi trường hợp, mà Giáo Hội không có trách nhiệm đặc biệt nếu xét về tính nhân bản và quá trình giáo dục liên tục môt con người.

Trách nhiệm đó thể hiện bằng nhiều hình thức:

Ví dụ: bảy tỏ một thái độ yêu mền và trân trọng những mầm non giáo dục ấy theo chiều hướng thích hợp với người đó để giúp người đó thích ứng hội nhập với cuộc đời nơi dương thể.

Nói chung những người càng trẻ tuổi mà chuyển hướng đời tu sớm thì dễ thích ứng với đời hơn, nhưng đều có những khó khăn đối với cuộc sống và cần được những nhà giáo dục quan tâm đặc biệt. Có bao giờ những nơi đào tạo giúp đỡ những chủng tu sinh khi phải đối phó vời bào nghịch cảnh cuộc đời: họ bị khủng hoảng, bơ vơ giữa chợ đời và thiếu nơi ăn, chốn ở, họ thiếu người hướng dẫn và hầu như phải bươn chải với cuộc sống rất vất vả, nhất là ở trong một môi trường gia đình hay xã hội có định kiến đối với nggười đã được gia đình cho đi tu và nay không có điều kiện đáp ứng những mong ước của gia đình và xã hội.

Dĩ nhiên đối với từng đối tượng, giáo hội nên có một tiểu ban chuyên trách về những người chuyển hướng ơn gọi. Tại sao đó là một vấn đề thường xuyên có khi còn nhiều hơn những người được tuyển chọn làm linh mục tu sĩ. Tại sao, Giáo Hội làm được công tác từ thiện đối với xã hội, như đối với thành phần hủ hóa của xã hội, thì đối với những loại người này lại không có một trách nhiệm riêng biệt vì đã có một quan hệ đặc biệt, nhất là những người đã thành danh lâu năm trong đời sống linh mục mà chuyển hướng ơn gọi giữa chừng.

Có thể nên qui tụ và thường xuyên liên lạc được với họ, cổ vũ khuyến khích họ và yên ủi họ. Có những trường hợp chuyển hướng ơn gọi đã phải kéo lê đời sống hơn cả những hạng cùng đinh trong xã hội và bất mãn một cách bệnh hoạn với giáo hội hay có mặc cảm xa tránh giáo hội hay môi trường tôn giáo.

Đừng sợ một cách lệch lạc và hẹp hòi là làm như thế là khuyến khích các chủng sinh chuyển hướng ơn gọi làm linh mục. Như thế là chính những nhà đào tạo trong giáo hội không có tinh thần quảng đại và con mắt tiên tri, vì chính các nơi đảo tạo nào cũng thầy đương nhiên số người đạt mục tiêu đào tạo như mục đích ban đầu là chiếm tỉ lệ rất nhỏ, nhưng tại sao lại khép kín với đa số kia

Chỉ cần nêu một trường hợp để thấy trách nhiệm của người đào tạo trong chủng viện

Tâm Tình Ngổn Ngang Ngày Hội Ngộ của Một Chủng Viện

Một chủng sinh tham dự "Hội Ngộ Làng Sông-Qui Nhơn 2006" ghi lại cảm tưởng như sau:

"Cuộc hôi ngộ lịch sử của chúng ta đã qua với dư âm bất tận. Không bút mực nào có thể diễn tả hết tình cảm và sự xúc động của những người con của mẹ Làng Sông gặp nhau sau một thời gian dài xa cách. Thật là một cuộc hội ngộ tuyệt vời!..."

"Những tháng ngày xưa cùng nhau chung dưới một mái trường chủng viện, những tháng ngày xuất ra giữa dòng đời rồi tiếp đến là những đổi thay phận người trôi theo cùng vận nước, thấm thoát thế mà đã là bốn năm chục năm... Nhìn lại tất cả tựa một giấc nam kha..."

"Ngày hội "Về Làng Sông "hôm nay bạn bè gặp lại nhau với bao buồn vui lẫn lộn, những nỗi bùi ngùi của ngày hội ngộ khiến tâm hồn chợt trào dâng một tình cảm gần như là thiêng liêng khi một lần nữa lại được bên nhau ăn ngủ, đùa chơi được đấu láo chuyện xưa , được xem lễ, được cất giọng chung hát lên bài Salve Regina dưới mái trường củ . Những giây phút sum vầy làm sống lại bao kỷ niệm …."

"Ôi nơi này ngày xưa tâm hồn chúng ta trong vắt với những lời nguyện cầu sớm tối. Nhớ làm sao những buổi sáng thức dậy theo tiếng chuông, thinh lặng nguyện gẩm, thinh lặng xếp hàng vào nguyện đường dâng lễ, thinh lặng ôn bài và thinh lặng ăn sáng. Rồi 4 giờ lên lớp buổi sáng, ba giờ lên lớp buổi chiều thật nghiêm túc với các cha giáo, những người thầy luôn rút hết ruột của mình ra mà gieo trồng tri thức cho đàn em. Khi nghĩ lại việc học hành thuở ấy chúng ta đều tự hào vì những kiến thức mà mình đã tiếp nhận: hễ thi tú tài thì bao giờ cũng là "một trăm em ơi…!".

"Mà không phải chỉ tự hào chuyện học, cuối mỗi chiều khi mà tiếng chuông báo giờ chơi đến là tất cả các lớp đều oà lên như ong vở tổ để nhào ra sân chơi. Suốt một giờ trên khắp các mặt sân bóng rổ, bóng chuyền… luôn vang lên những tiếng banh lẫn tiếng đùa vui. Chính nhờ vậy mà mỗi khi đi thi đấu với các trường bạn it khi chúng ta phải về không. Giờ chơi hết là đến giờ cơm với ba tầng cà mèn cùng những món truyền thống như rau muống nguyên cây chấm mắm cái, cá ngừ nguyên con kho lạt, cá ngừ mắm khúc bự, đậu phụng rang đậu phụng hộp, trứng bột đầy cà mèn …cùng các hàng chưng bày kinh điển như bình nước mắm hai vòi, song cơm đầy vun, ấm nước lạnh …"

Quá Trình Chuyển Hướng Đời Tu Cụ Thể

Dọc đường tu trì sĩ số chủng sinh cứ lần lượt rụng bớt, đứa thì bị đuổi vì đạo đức, đứa vì học lực kém, đứa thì thấy không thích hợp nên tự xin được lui binh. Năm đầu khoảng 10 bạn, năm sau khoảng 5 bạn …. Từ khoảng năm chục người ở đệ thất thì đến lớp đệ nhất còn lại khoảng hơn chục mạng

Rồi thêm 7 năm đại chủng viện sàng lọc thêm và số người bước tới lý tưởng linh mục chỉ mong là còn ở số nhiều, mà được như thế thì việc giáo dục cũng coi như đã đạt yêu cầu! Ôi công việc chọn chủ chăn cho nước trời quả là một kỳ công của chủng viện. …

Và cũng vì thế nếu lấy số đông làm chổ dựa thì khi nói chuyện với mấy "thằng tu xuất các đấng thầy cả" cũng đừng buồn lòng làm chi nếu bọn "ta ru" kia cứ khăng khăng bảo chúng nó có lý hơn: vì lẽ phải là phải thuộc về số đông kia mà …

Nhưng dù sao khi nghĩ về chủng viện thì bao giờ trong hồn ta cũng:

"Muốn hôn từng nắm đất
Muốn kéo hết hương trời
Để nghe gì đã mất
Để thấy những đùa chơi
Ôi! Những ngày xưa thân ái ...
Ta-Ru
Tu xuất
tu không thành ta đành thành tu xuất
bon chen vào cuộc được mất trần gian
ngơ ngáo như mán xuống khỏi đại ngàn
hành xuất xử hệt còn đang mộng tưởng
mở miệng bay hương kinh cầu

tối sớm những pater deus cum tuo
giữa cõi gian mà vẫn thật ngây ngô

một chốn để dung thân tìm đỏ mắt
nẻo hắc bạch tâm đà phân định sẵn
mười là do năm cộng lại với năm
có biết đâu có thể tới mười lăm
và có thể là dăm ba chục vạn !
ngàn giáo huấn thuở xưa nên lẽ sống
chuyện được thua coi cứ nhẹ như không
dẫu trắng tay vẫn chẳng mấy bận lòng
giàu sang cũng coi như tuồng huyễn hoặc
mang dấu ấn đời tu nên kệ mặc
dòng đời trôi ta cứ mãi là ta
đã tu ra mà cứ ngỡ như là…
ta vẫn còn đang tu ta chưa xuất …
Ta-Ru"
Lê Mến (Ta-Ru)


DVD Ghi Lại Hình Ảnh Đáng Nhớ cuộc Hội Ngộ Cựu Chúng Sinh Đạo Đời

Nguyễn Mậu Thích viết:"......BẠN nói đúng. Sáng rất nhiệt tình, coi việc chung như việc nhà.

Và tiện đây xin có lời tán dương khen ngợi nhóm thức hiện CD "Về Làng Sông Ta Hát". Hay lắm, từ Monterey County xuống Orange County hơn năm tiếng lái xe, nghe liên tục 5 lần vẫn còn thấy hay và cảm động. Và nhiều người cũng đồng ý. Một phu nhân sau khi xem DVD và nghe CD phát biểu rằng, sau khi nghe CD và xem DVD rất hãnh diện là người thân của mình, xuất thân từ Làng Sông Qui Nhơn.Có thể nào thực hiện "Về Làng Sông Ta Hát" số 2 không?

DVD ghi lại những hình ảnh đáng ghi nhớ. Anh em bỏ qua công việc hằng ngày, các cha bỏ giáo dân, giáo xứ về Qui Nhơn Làng Sông sống lại những ngày xưa thân mến. Cha Quản lý Địa Phận (Cha Đề), các cha chính xứ Tân Định (Cha Tân), Gò Thị (Cha Kính) đã cùng cung cấp những bữa ăn tuyệt vời. Cha Bân (Giám Đốc Chủng viện làm MC cùng với Ban Tổ Chức, giữ chương trình linh động. Cha Hạt Trưởng Quảng Ngài cỡi Honda đường trường 200 cây số về họp mặt… Anh em từ Miền Tây, Sàigòn, Cam ranh, Tuy hòa, Đà Nẵng. Quảng Ngãi, hải ngoại, kéo nhau về… vui lắm.

HẸN NHAU LẦN TỚI, nếu được.

Và cũng tiện đây xin đưa tin: Cha Trần Kim Thượng (An Ngãi, Đà Nẵng), người cùng Cha Tước hướng dẫn buổi chia xẻ tâm tình Làng Sông, sau ngày hội ngộ về đã bị tai nạn gãy xương vai. Cha đi Honda với người đệ tử, dọc đường huyết áp (tension) cao thấp gì đó, khiến cha ngất xỉu và té xuống đường bị gãy xương vai. Cha OK và ngày tiễn đưa cha Huỳnh Nhẫn, cha có lên nghĩa trang nói lời good bye với cha Nhẫn.
XIN CÁM ƠN"

Tâm Sự Hội Ngộ Làng Sông, Quy Nhơn Lai Láng

Điều mang nhiều ý nghĩa chính là cuộc hội ngộ tất cả mọi nguồn cựu chủng sinh Làng Sông, dù thành công làm Linh mục hay đã chuyển hướng đời tu, nhưng cùng một dòng chảy Làng Sông. Điều ánh vừa bày tỏ tình đoàn kết vừa làm vơi đi những cám cảnh của những anh em đã không trên cùng một con thuyền đời tu.

Nguyễn Ngọc Thể viết:

"Bạn Thích mến,

Chẳng lẽ bạn khen những bài CD, giờ tôi lại khen nữa. Tôi vẫn mở CD này nghe hoài mỗi khi lái xe và cả khi ở nhà. Bài tôi thích nhất là bài "Xin cảm tạ hạt lúa mì". Phải, hạt lúa mì có mục nát đi thì mới sinh hoa kết trái.Bài hát CVLS hành khúc đưa ta đi về một khung trời Làng Sông đầy nhung nhớ. Làng Sông, đối với mỗi người chúng ta ai nấy cũng đều mang một dấu ấn không thể nào phai mờ. Làng Sông ngày trước nơi ghi dấu nhiều vết chân vào ra của bao sĩ tử một thời muốn sống cuộc đời hiến dầng cho Chúa và cho tha nhân.

Nhưng Làng Sông bây giờ, hôm nay đã trở thành hoang vắng khác thường. Nếu chúng ta về đó một mình, chúng ta chỉ còn nghe thấy những tiếng chim hót từ nơi cao vút của những cây sao. Nếu chúng ta về đó một mình, chúng ta chỉ thấy canh cánh một nỗi buồn gì đó và gợi cho chúng ta một nỗi nhớ về dĩ vãng xa xăm. Bao câu chuyện buồn, vui lẫn lộn vẫn còn mãi nơi mỗi người sĩ tử chúng ta.

Nếu xem DVD Hội Ngộ, chúng ta thấy gì nơi chủng viện LS? Thế nhưng, ngày ghé về Làng Sông, ngày 20/7 vừa qua, dịp Hội ngộ vừa rồi, anh em chúng ta vẫn còn có dịp quay quần bên Thánh Thể Chúa để tâm sự, để trút đi phần nào gánh nặng của cuộc sống trần gian, của những bước chân nặng chĩu đang lê bước trên cõi trần gian và thử thách. Chúa vẫn ở và đồng hành với chúng ta, nơi mỗi anh em chúng ta đang bước đi những nẻo đường khác nhau.

Cha Huỳnh Kim Lang, nay không còn đi được nữa, phải ngồi xe lăn. Cha Bình Kim Lang, nay không còn đii được nữa, phải ngồi xe lăn. Cha Binh, còn đó nơi nhà hưu dưỡng vẫn có thể đi lại gặp gỡ anh em. Cám ơn Chúa cha Trương Đắc Cần còn khỏe mạnh mà dịp Hội ngộ vừa rồi, vẫn hiện diện với anh em. Cha Nguyễn Xuân Báu, vẫn ở Làng Sông, nhưng nay Ngài đã còng lưng. Cha Đoàn Kim Hiền (Ghềng Ráng), cũng tháp tùng với anh em về Làng Sông dịp này. Cha Hoàng Tiến Nam từ Vạn Giả (Nha Trang) về để được gặp vài người bạn cùng lớp như anh Đỗ Thanh Minh (tức Ty, Úc Châu), anh Lê Minh Hương (Long Khánh), anh Truyền, từ Tân Bình Sài gòn về.

Riêng anh Phùng Hoành Anh (tức Cường, gốc Nam Bình (từ Pháp) về, nhưng khi anh đến nơi thì anh em đã chia tay nhau ra về từ buổi sáng 21/7. Anh vô cùng hối tiếc vì đã bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ. Anh Nguyễn Đình Túc (trước sống ở Đức, nay đã về Việt Nam), ngưởi trưởng tràng dịp này (87 tuổi), cũng hiện diện và nhìn anh thật cảm động khi anh quì xuống hôn đất me Làng Sông một cách trìu mến. Anh Nguyễn Hữu Liên (trước ở Houston, TX, nay cũng về sống ở Việt Nam cũng có mặt, … Nhiều nhiều anh em khác nữa, không kể hết được. Phải có mặt mới thấy được nỗi vui mừng và cảm động này khi gặp nhau.

Xin cám ơn tất cả những người anh em đã góp phần, qua mọi hình thức, cho biến cố hội ngộ vừa qua." T. Nguyễn

Simon Ngọc (VN) viết:
Từ 18-21/7/2006, chúng tôi đã về Làng Sông, nơi chúng ta đã từ

đó ra đi và còn mãi ra đi. Nhưng, có điều vô cùng hạnh phúc mà tôi muốn chia sẻ với các bạn là chúng tôi đã được gặp nhau, đã nắm tay nhau, đã ôm nhau tha thiết như chưa từng bao giờ được ôm. Riêng lớp chúng tôi (niên khóa 58-59) có lẽ là lớp về dự đông nhất trong các lớp "tiền chiến". Sau đây là danh sách những anh em đã về dự trong kỳ về nguồn vừa rồi:

1. Đặng Công Anh, LM QN

2. Phạm Văn Ánh, Đà Nẵng

3. Trần Ân, Đà Nẵng

4. Nguyễn Đình Chương, Đồng Nai

5. Lưu Đình Dương, LM USA

6. Mrs Võ Thành Đào, SG

7. Nguyễn Hiến, USA

8. Lê Quý Long, SG

9. Huỳnh Kim Ngọc, SG

10. Phạm Văn Phúc, USA

11. Nguyễn Đình Sứ, Đồng Nai

12. Phan Thanh Thế, Phan Rang...

Như thế đó, một thời đi tu, một đời mãi nhớ... Trong dịp này, LM Đặng Công Anh và LM Lưu Đình Dương đã cùng với LM đàn anh Trần Kim Thượng và LM đàn em Lê Hưng dâng thánh lễ đồng tế tại nhà thờ Quy Hiệp của cha Anh để cầu nguyện cho hương hồn các bạn đã qua đời gần đây như cha Phaolô Lê Đình Chiến, anh Antôn Bùi Minh Đức, anh FX Võ Thành Đào, anh Phêrô Lê Văn Hùng v.v... cùng với sự tham dự của số anh em trên và thân nhân gia đình...

Xin thông báo và kính chào tạm biệt.

Gửi anh em 59-60-61

Kính gửi Quý Cha và quý Anh (thuộc niên khóa 1959-60-1961).

Xin cảm tạ Hồng Ân của Thánh Giuse đã cho tất cả cựu chủng sinh Làng Sông Quy nhơn về bên mái trường xưa được thành công tốt đẹp và bình an trong mọi nghĩa.

Dưới đây là danh sách và địa chỉ của những anh em đã gặp nhau trong cuộc Hội Ngộ về nguồn:

1 Thái HOÀNG phone # 08990789 Đc 39/2 Nguyễn Trọng Tuyễn PN, HCM VN

2 Lê HƯNG (LM) email: pethungs@yahoo.com Giáo xứ Nhượng nghĩa, Đà nẵng, VN

3 Nguyễn văn HƯỜNG dungnguyentri@yahoo.com Giáo xứ Hà Dừa, Nha trang, VN

4 Vỏ Tá KHÁNH (LM) juanpesocd@yahoo.com

5 Nguyễn Hửu KHIẾT khiet94@yahoo.com New Jersey, USA

6 Huỳnh Kim LONG (Sư) lg_huynh@yahoo.com WA USA

7 Huỳnh Thanh PHONG Phone #(02) 9610 8813 NSW Australia

8 Nguyễn Đình SANG dsangsanjose@yahoo.com CA USA

9 Nguyễn Công SANH (LM) petcsanh@pmail.vnn.vn nguyencongsanh@gawab.com Giáo xứ Đồng Tiến, Quy nhơn VN

10 Đặng SON ( LM ) peterson@dng.vnn.vn Hạt Quãng ngãi VN

11 Hoàng TÝ tyhaong@yahoo.com .Phone # 058 863 332 Cam ranh VN

XIN CHÚA BAN MUÔN HỒNG PHÚC CHO NHỮNG VỊ ĐÃ GIÚP CHÚNG CON CÓ ĐƯỢC CUỘC HỘI NGỘ LỊCH SỬ NÀY.
Hoàng Tý

Chút Tâm tinh sau Hội ngộ

Nhìn chung đoàn xe tiến vào chủng viện, lòng tôi thật rộn ràng và sung sướng! Cho đến 12 giờ đêm vẫn còn vài chiếc từ xa chạy về. Ôi! thật là vui và cảm động biết bao khi anh em bắt tay nhau với nụ cười và nước mắt sau nhiều năm xa cách. Những cụ già chống gậy cũng đã tìm lại được những người bạn xưa, và tôi không cầm đươc nước mắt khi nhìn thấy những bàn tay đang run run siết tay nhau với nụ cười trong nước mắt. Sau một buổi chiều gặp gỡ đầy xúc động, ngày hôm sau, tại Làng Sông, bạn thử tưởng tưọng sẽ ra sao khi nhìn thấy một cụ cựu chủng sinh đang nằm sấp trước cổ trường hơn nhiều lần trên mảnh đất xưa thân yêu! Từng góc kỷ niệm đã đến với từng người trong sụt sùi, kể lại cho người thân đi kèm

Ôi! Làng Sông, người mẹ hiền thân thương nhất của chúng ta, vẫn hiên ngang với hàng sao cao vút. Gần 250 đưa con từ khắp bốn phương trời đã trở về với kỷ niệm xưa và trong vòng tay của Mẹ Làng Sông dấu yêu!

Xin cám ơn Chúa và Mẹ Maria cùng Thánh Quan Thày Giuse đã cho cuộc hội ngộ 2006 được thành công ngoài sức tưởng tượng! Xin Quí Cha và anh em mở trang nhà www.cclsqn.com để xem một số hình ảnh hội ngộ. BCH/CCSLSQN/HN

Chia sẻ...

Paul Tân:

Em chắc là đĩa thịt cay và rượu đế mặn nồng tinh quê. Vừa nhậu vừa có các anh em chung quanh, thì vui lắm. Nhưng em chỉ ước ao được ăn bánh bèo chén và húp nước mặn. Lâu lắm rồi chưa được ăn. Bên Mỹ này, không có bánh bèo nào giống bên đó mặc dù nhiều quán cứ quảng cáo là chính gốc.

Em chúc các anh trên đường về bình an.

Tân…………………………

K.Long (WA) viết: "Chiỉ tiếc là không có tân trong dịp hy hữu có một không hai ! Cha sở nhà thờ Tân Định (Cha Tân) cho an hem bữa ăn mặn nồng tình quê này. Ngày kế tiếp, đi Gò Thị, cha kính đãi anh em một bữa thật thịnh soạn. Không biết Tân có tưởng tượng nổi không, 40 năm nay tìm lại đĩa thịt cầy với rượu dê. Thật là một bữa ăn nhớ đời ! Thân ái trong tình anh em CCSLSQN.

FX Long (hiên khóa 1960-1961). «……………..

NH.KHIẾT viết: "Anh Tân,

Thay mặt các anh em, mình tin cho anh Tân hay là ngày này ban tổ chức đang tiếp đón và ghi danh các anh em đang tựu về. Tuy ĐC đang dưỡng bịnh ở SG và sẽ không góp mặt, nhưng đầy đủ các cha và các anh em CCS đang về tham dự ngày họp mặt. Nhìn những nụ cười, ánh mắt của mỗi người, mình nghĩ kỳ họp mặt này sẽ đầy hứa hẹn một niềm vui dĩ vãng xa xưa.

Chúc anh Tân và gia đình yên vui. Tôi sẽ chuyển lời lại cho anh Thế và các anh em hải ngoại.
Mến,
Khiết.

".............................. ......................................................................
BÀI THƠ VIẾT THAY TÂM TÌNH (ANH QUANG, CH HOÀNG, VÀ NHỮNG ANH EM KHÔNG VỀ DỰ HỘI NGỘ ĐƯỢC)
Em gọi anh
Em gọi anh từ trong góc núi
Góc núi xa, góc núi bôn ba
Giọt trăng cô đơn rụng vỡ lập loà
Nghe vẳng tiếng ca " Về Làng Sông Ta Hát"
Anh đã về với hương tình bát ngát
Hàng cây sao rung nhịp hát mừng vui
Vòng tay ôm, Mẹ ấp úng...nghẹn lời
Các con ơi, Mẹ mừng mừng tủi tủi
Em gọi anh, và gởi lời tạ tội
Với Mẹ Yêu và tất cả tôn huynh
Mỗi phận đời có một chút linh đinh
Ấy mới biết thế nào yêu và nhớ
Em muốn nghe tiếng chim reo về tổ
Em muốn nhìn những giọt lệ rưng rưng
Em muốn bên anh, bên Mẹ nỗi mừng
Và em muốn đắm mình trong mầu nhiệm
Xa rất xa nơi góc đời định mệnh
Vẫn rất gần trong nhịp thở yêu đương
Em gọi anh, gọi anh giữa đêm trường
Và em tin Ta chung giường hạnh phúc
Bởi trong Ta, Làng Sông là cốt nhục
Tình Đệ Huynh mãi mãi đến vô cùng...
CHH

Thay Lời Kết Luận

Đây chỉ là những tông hợp bước đầu, có thể chủ quan và phiến diện. Nhưng dù sao cũng phản ảnh ý nghĩ, xao xuyến và ước vọng của một thành viên từng có một thời gian đi tu trải qua một phần kinh nghiệm học tập và tu đức cuộc sống một tu sinh Dòng Tu và một chủng sinh Chủng Viện tại Giáo Phận.

Những cảm nhận đó chỉ là một ước nguyện tiến đến cuộc sống thánh thiện dù ở cương vị nào và mong muốn Giới Hữu Trách trong Dòng Tu Hay Giáo Phận chú ý tạo điều kiện sử dụng và kết nãp nâng đỡ mỗi khi có thể những người mà các cơ sở đào tạo tưởng chứng như mình không hẳn có trách nhiệm với những thành phần chuyển hướng đời tu

Nhưng người ta ít gặp những mẫu tình huynh đệ chan hòa này với đủ mặt anh em Cựu Chủng sinh Làng Sông thuộc Giáo phận Qui Nhơn – dù là linh mục hay không còn là linh mục. Đã một thời mối tình đó đã vô tình hay hữu ý bị một Bề Trên chủng viện cùng với một số người nào đó làm hoen ố theo một cung cách nào đó, khi đang còn trách nhiệm đào tạo chính thức giữa những người có lúc cùng chung một con thuyền đời tu!

Tiếp tục đời tu đúng nghĩa hay không, từ bỏ Công giáo hay vẫn là tín hữu Công giáo, những thành phần chuyển hướng đời tu, vì bất cứ lý do nào, vẫn cần được Giáo Hội ứng xử một cách nhân bản và có ý nghĩa nhất theo tinh thần nhân ái tôn trọng nhân vị quảng đại.