Vài Nét Về Tiểu Bang New Mexico

Phần 1: Lễ cưới của Đinh Đồng Luận, thành viên thứ 55 - Thành phố Albuquerque.

Tôi đến Albuquerque NM vào lúc 1g trưa ngày 17-9-09 trong cơn mưa nặng hạt rất hiếm hoi ở thành phố sa mạc này. Thành phố Albuquerque (Alb) nằm ở chân rặng núi Rocky Mountain chạy dọc phía tây Hoa kỳ, giống như rặng Trường sơn của VN, vốn được gọi là “ Thành phố Sa mạc “. Chú Lân, bố của Luận đón tôi tại cửa ra của sân bay Alb. Chúng tôi đi trong cơn mưa để đến một tiêm phở của một người VN. Số người VN sống ở Alb không nhiều, chỉ có khỏang 6000, nhưng các tiệm phở tại thành phố sa mạc này cũng khá nhiều. Có thể gọi nền văn hóa ẩm thực của VN tại Mỹ là nền văn hóa phở. Tiệm phở chúng tôi ghé đến là của ông Đ., môt người Việt khá thành công ở thành phố có đông người Xì (chỉ người Mễ) này, hiện nay do cô con gái của ông trông coi.

Sau khi ăn phở xong, chúng tôi về nhà cất hành lý, rửa mặt, thay đồ, nghỉ ngơi chừng một tiếng. Sau đó chú Lân đưa tôi đi thăm rặng núi đồi phía tây bắc thành phố, nơi có nhiều địa điểm cắm trại, picnic. Hình dạng những đồi núi vùng này có nhiều điểm giống vùng núi đồi miền Phan rang, Phan rí của VN. Dọc đường đi, thỉnh thỏang có những ngôi nhà ẩn hiện trong rừng cây. Các chủ nhà hẳn là những đạo sĩ hay thi nhân có tâm hồn tiêu dao thóat tục. Nghe nói vùng núi đồi này vào mùa thu thì lá cây tòan một mầu vàng rất đẹp. Vì trời mưa nên rừng cây ẩm ướt và trời cũng đã về chiều nên chúng tôi không đi bộ vào những địa điểm picnic, cắm trại nằm sâu trong rừng núi, chỉ đi ngòai đường xe và nhìn quan sát cảnh núi rừng mà thôi. Sau khi đi hết một vòng khu rừng và đồi núi thì chúng tôi về nhà .

Ngày hôm sau, 18-9-09, sau khi ăn điểm tâm, tôi và Lân dựng cổng chào nhỏ bằng khung sắt, có trang hòang hoa lá và bảng Tân Hôn trước cửa nhà để đón khách. Trong thời gian này (kể từ 12-9) thì Luận và Trinh đi mua sắm các thứ cần dùng cho ngày lễ, trang trí nhà hàng ăn v.v..Tất cả mọi thứ đều do họ tự làm lấy, kể cả đi chụp hình ngọai cảnh của cô dâu chú rể…mục đích để tập sự tháo vát, năng động, biết cách xoay sở và tiết kiệm trong đời sống gia đình mai sau..

Trên đường đi mua thêm đồ trang trí cho cổng Tân Hôn, Lân đưa tôi đi một vòng xem Old Town, khu phố cổ của Alb, đồng thời ghé xem Viện bảo tàng thành phố. Khu Old town của Alb là khu thành phố được thành lập từ khi những di dân đầu tiên từ Mexico đến, cách nay hơn 400 năm nên có nhiều nét giống những thành phố Âu châu, bởi vậy có nhiều đường phố tương tự như những phố thuôc quận I của Saigon. Chúng tôi định vào tham quan nhà thờ khu Old Town, nhưng không tìm được chỗ đậu xe nên chỉ đi ngang qua rồi đi tới khu Bảo tàng viện Alb. Trước Bảo tàng viện là khu đất trống trưng bầy quần thể những tượng đồng mô tả những người di dân đầu tiên từ Mexico đến đây. Những tượng người, đàn ông, đàn bà, trẻ con, xe ngựa, những con bò, heo, chó đi theo đòan di dân lớn bằng người thật, rất đẹp. Trên mặt bức tường thấp sát cạnh đó có đề tên những người di dân đầu tiên đó gồm có người Tây ban nha, người Mễ, tất cả là là hơn 600 người, đi đến vùng này vào năm 1606 – 1610.

(Một người Việt trong số những di dân đầu tiên đến Albuquerque (An bu ca ki) New Mexico ? )

Sau khi chụp vài tấm hình chung với các di dân, chúng tôi vào thăm viện bảo tàng Alb.

Viện này không đồ sộ nhưng cũng khá rộng, chia làm nhiều khu trưng bầy các hiện vật của đời sống người di dân có từ những ngày đầu đến Alb, tại mỗi nơi trưng bầy đếu có bảng chỉ dẫn chi tiết về nguồn gốc, chi tiết các hiện vật, nhưng vì không có nhiều thì giờ nên chúng tôi chỉ xem lướt qua cho chóng xong. Đây là lần đầu tiên tôi thấy càch trình bầy của một viện bảo tàng thật phong phú, nơi lưu trữ và phản ảnh những nét đặc biệt của cuộc sống người dân một thời đã qua. Ở đây có đủ các hiện vật của đời sống hàng ngày của người xưa như quần áo, dầy dép, dụng cụ nhà bếp, bàn ghế, dao, quốc, xẻng, máy dệt, các mẫu vải (của người Mễ, người da đỏ, người gốc Tây Ban Nha…) các mẫu huy hiệu của giới quí tộc Âu châu thời xưa do di dân mang tới, những huy hiệu của các vị Giám mục của Giáo phận, nguyên một khu có đủ các y phục, lễ phục, đồ dùng thường ngày, kể cả một chiếc đàn phong cầm (harmonium) dùng trong nhà thờ, các bộ áo lễ thời tiền Công đồng Vaticano II, của một cha xứ .Có cả một chiếc xe hơi hiệu Ford sản xuất và lưu thông từ 1800. Có một khu để sẵn những dụng cụ để nghe những cassette hay CD dẫn giải về viện bảo tàng, đồng thời có một phòng chiếu phim mô tả cảnh sống, sinh họat của người dân Alb những năm xa xưa, khi những di dân đầu tiên mới tới thành phố này.

Chúng ta biết rằng trước năm 1848 thì các tiểu bang miền nam nước Mỹ như Texas, New Mexico, Arizona, California còn thuộc về nước Mexico.

Sau khi thăm viện bảo tàng Alb, chúng tôi còn đi một vòng khu hồ nhỏ nhưng dài, gồm nhiều hồ, chạy dài trước sở thú của Alb, nơi đây còn duy trì những chuyến xe lửa chỉ có vài toa chạy bằng hơi nước để đưa khách đến xem sở thú. Nơi đây có lẽ là khu trũng nhất của thành phố vùng cao nguyên này. Chúng tôi lại đến ăn trưa ở một tiệm phở của người Việt nam. Sau đó ghé tiệm shopping để mua ít hoa lá trang trí cổng chào Tân Hôn còn thiếu.

Ngày 19-9, hôm nay là chính ngày thành hôn của Đinh Đồng Luận. Chúng tôi phải dậy sớm, chuẩn bị đón các khách nhà trai để 8 giờ thì phái đòan nhà trai đến nhà gái làm lễ đón dâu và cùng với nhà gái ra nhà thờ để cử hành thánh lễ. Sau khi các khách đã đến đầy đủ, chúng tôi chụp chung những tấm ảnh, quay phim, rồi lên xe đi đến nhà gái.Từ nhà trai đến nhà gái cũng xa, đi đường xe cũng 45 phút. Nhà gái thì khách mời, họ hàng rất đông. Nhà trai chỉ có 3 gia đình (không về đầy đủ) thì nhà gái có tới 8 gia đình (gần đủ, cả con cháu các gia đình) từ các tiểu bang Hoa kỳ và từ Việt nam qua. Thủ tục xin đón dâu thì cũng đơn giản đi nhiều, cũng có chào mừng của hai họ, cô dâu ra trình diện, mẹ chồng trao nữ trang cho con dâu, các cô bác họ nhà trai tặng quà cho cô dâu, họ nhà gái tặng quà cho chú rể.. ăn sáng… để còn kịp ra nhà thờ dự lễ vào lúc 11g30 AM. Hai họ lên xe vào lúc gần 10g30 để đi đến nhà thờ.

Giáo xứ Việt Nam duy nhất của Tổng Giáo phận Santa Fe là Giáo xứ Đức Mẹ Lavang. Xin nói qua về giáo xứ này. Tiểu bang New Mexico là một tiểu bang thưa dân, thành phố lớn nhất của tiểu bang là thành phố Albuquerque. Người Việt đến đây từ năm 1975 tương đối ít. Lúc đầu chỉ có mấy chục gia đình Công giáo với trên một trăm giáo dân. Lúc đầu giáo dân tập họp lại, nhờ một cha già người Mỹ làm tuyên úy, nhưng cứ phải lưu động đi hết chỗ này đến chỗ kia để mướn nơi cử hành thánh lễ. Sau đó ông Đinh Đồng Kỳ đã đề nghị làm đơn xin Đức Tổng Giám Mục Santa Fe cấp cho cộng đồng giáo dân VN một khu đất để xây nhà thờ. Sau mấy năm vận động, cuối cùng tòa Tổng cho một khu đất rộng 60 ngàn mét vuông, nhưng ở cách hơi xa khu trung tâm. Sau nhiều cuộc vận động quyên góp ở nhiều nơi, cộng đòan sau cùng quyết định mua lại một khung sắt cũ của một garage lớn để cất thành nhà thờ. Nhiều năm sau, cha già người Mỹ nghỉ hưu, cha xứ tiếp theo là cha Bùi Mạnh Tín, và cha xứ đã cùng các giáo dân, ngày nay đã lên đến con số 1000, bán lại khu đất ở xa, mua lại một ngôi nhà thờ Tin lành ở gần trung tâm, sửa chữa lại để làm nơi sinh hoạt cho giáo xứ vào năm 2007.

Phái đòan đưa dâu rể đến nhà thờ lúc 11g00, vào gặp cha xứ để làm các thủ tục giấy tờ trong đạo. Lúc 11g30 thì cha xứ cử hành thánh lễ.

Hôm nay là thứ bẩy, chỉ có thánh lễ hôn nhân mà thôi nên giáo dân chỉ là khách mời của hai họ. Tuy vậy số người tham dự cũng khá đông, vì cả hai ông thông gia đều là các ông trùm họ. Thánh lễ đã diễn ra trong không khí trang nghiêm nhưng thân mật. Trong bài giảng, cha chủ tế đã hỏi chú rể và cô dâu có ước vọng gì cho tương lai thì cả hai đều thưa là muốn được yêu thương nhau mãi mãi.

Trong lời cám ơn cha xứ lúc cuối lễ, ông bác của chú rể đã nhắc lại mấy đọan trong cuốn hồi ký “ Đường qua Biển Đỏ “ của cha Bùi Mạnh Tín, để nói lên những khó khăn, vất vả trong cuộc đời linh mục, để xin mọi người cầu nguyện cho các linh mục, vì năm nay là năm linh mục, vì vai trò quan trọng của vị linh mục trong cuộc sống người giáo dân. Hôm nay nhờ có linh mục mà hai cháu Luận- Trinh đã nên một gia đình mới.

Sau thánh lễ, mọi người đã ra nhà hàng cũng ở gần nhà thờ để dùng bữa tiệc mừng cho hai họ. MC hôm nay là bác Đinh Đồng Kỳ của chú rể. Với giọng nói lưu lóat điểm chút khôi hài cả hai ngôn ngữ Việt và Mỹ nên được các khách của hai họ đặc biệt tán thưởng. Trong bữa tiệc cưới hôm nay không có ban nhạc chuyên môn trình diễn, mà chỉ có các giọng hát karaoke cây nhà lá vườn, kể cả ông bố vợ của Dinh Đồng Luận cũng lên ca một bản rất mùi mẫn (có lẽ để sau này đỡ bị con rể đấm …! )

Vì bài cũng đã dài, nên hẹn kỳ sau chúng tôi sẽ giới thiệu về các nhà thờ cổ kính và nổi tiếng : Chimayo, Loretto (cầu thang phép lạ của thánh Giuse), Carlsbad Caverns, hang động thuộc lọai kỳ quan thế giới, đẹp và lớn hơn quần thể hang động vịnh Hạ -Long nhiều, của tiểu bang New Mexico .

Phần 2: Những nhà thờ cổ kính và nổi tiếng.

Tiểu bang New Mexico được sáp nhập vào Hoa Kỳ sau cuộc chiến tranh Mỹ - Mễ (1846- 1848), có diện tích 121.666 dậm vuông, dân sồ hiện nay vào khỏang 3 triệu, riêng thành phố Albuquerque có khỏang 800.000 dân.

Sau lễ cưới của Luận, hôm sau là chúa nhật, mấy anh em chúng tôi cùng nhau đi hành hương thánh địa El Santuario de Chimayo. Đây là ngôi nhà thờ cổ kính, được giáo dân Mễ rất tôn kính, đặc biệt là vào dịp thứ sáu tuần thánh hàng năm, người khắp nơi kéo về đây để đi đàng thánh giá trên chặng đường dài trên 10 miles, từ ngòai đường lớn đi vào, họ đi bộ từng đòan, vừa đi vừa đọc kinh, vác thánh giá nặng. Ngôi nhà thờ nhỏ, được làm bằng đất, cát, trộn với si-măng thành một hợp chất giống như vữa để đắp tường, không cần gạch. Trong nhà thờ trang hòang nhiều ảnh tượng tranh vẽ theo phong cách Mễ, Tây Ban Nha, bàn thờ chính làm bằng gỗ, trên tường sau bàn thờ có những khung vuông (Altar Screen) trưng bầy các ảnh … Bên hông ở phía đầu nhà thờ có một phòng riêng, trong đó có một lỗ trũng có đầy cát để giáo dân lấy đem về nhà dùng như thuốc chữa bệnh, bằng cách xoa cát lên chỗ đau bên ngòai da…Người Việt Nam ở Alb gọi nhà thờ này là nhà thờ "Cát"

Từ Albuquerque phải đi về hướng đông bắc 60 miles mới đến Santa Fe, thủ đô của New Mexico, sau đó đi khỏang 30 miles, qua một con đường nhỏ nữa mới đến Chimayo.

Sau khi đi dạo xung quanh khu vực nhà thờ, chúng tôi vào nhà thờ cầu nguyện, quan sát các ảnh tượng, sau đó đi lên phía cung thánh, rẽ trái để đến khu vực có cát, lấy một ít cát cho vào bịch nylon đem về làm kỷ niệm. Vì hôm nay là chúa nhật nên cũng đông người đi hành hương. Và vào lúc 11g sáng sẽ có thánh lễ ngòai trời, nên chúng tôi ở lại tham dự thánh lễ.

Người Việt Công giáo ở Albuquerque thường đến đây cầu nguyện xin được nhiều ơn chữa lành trong nhiều trường hợp đặc biệt.

Sau khi dự thánh lễ xong, chúng tôi lên xe trở về Santa Fe, tìm đến một sân trống gần tòa thị chính Santa Fe, ngồi nghỉ ngơi và lấy thức ăn đã chuẩn bị sẵn từ ở nhà như sôi, bánh mì, chả, giò, dưa leo … để ăn trưa, theo kiểu picnic. Thành phố Santa Fe là thủ đô của tiểu bang New Mexico nhưng dân cư chỉ có hơn ba chục ngàn, hầu hết là nhân viên các công sở. Thành phố này ở trên một cao nguyên có độ cao là 1000 mét trên mặt biển, tương đương với Đàlạt của Việt Nam, khí hậu mát và thóang đãng .

Sau khi ăn uống xong, chúng tôi đi bộ đến thăm nhà thờ San Miguel cũng ở gần đây, là ngôi nhà thờ lâu đời nhất trên nước Mỹ. Vì nhà thờ không mở cửa nên chúng tôi chỉ đứng bên ngòai nhì ngắm .

Nhà thờ này do người bộ lạc da đỏ Tlaxcalan xây dựng từ năm 1610, dưới sự chỉ đạo của các cha dòng Phan Sinh.

Nhà thờ tiếp theo mà chúng tôi đến thăm là Nhà thờ thành phố: Vương cung thánh đường Thánh Phanxicô Assisi. Năm 2003 kỷ niệm 150 năm nhà thờ được nâng lên cấp nhà thờ thành phố (Cathedral), năm 2005 Đức Thánh Cha Benedicto 16 nâng lên cấp Vương cung thánh đường (Basilica), thuộc số những thánh đường đặc biệt của Đức Giáo Hòang trên thế giới. Một trong những đồ thờ phượng độc đáo của thánh đường là tượng Đức Mẹ Maria được các cha dòng Phanxicô mang từ Tây Ban Nha đến đây từ năm 1625. Thánh đường hiện nay được xây dựng do Đức Tổng Giám Mục Jean Baptiste Lamy, Tổng Giám Mục đầu tiên của Santa Fe (bắt đầu xây năm 1869), trước đó đã có ba nhà thờ khác được xây trên cùng địa điểm này.

Hình: Nhà thờ San Miguel và Vương cung Thánh đường San Francisco

Khu vực tây nam này (của nước Mỹ) trước đây hàng ngàn năm đã có tổ tiên của các bộ lạc da đỏ cư trú. Người châu Âu đến đây từ thế kỷ 16. Người Tây Ban Nha đô hộ New Mexico từ 1598. Năm 1610 thống đốc Pedro de Peralta dẫn quân chinh phục và thiết lập thành phố Santa Fe. Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời được xây dựng gần khu trung tâm, là khu truyền giáo lân cận của nhà thờ San Miguel. Năm 1625, cha Alonso de Benavides đến kinh lý các khu truyền giáo người da đỏ đã mang theo một tượng Đức Mẹ lên trời (kiểu Tây Ban Nha) cho nhà thờ, liền đó bức tượng được gọi là Đức Mẹ Chinh Phục. Một nhà thờ lớn hơn được xây dựng, tượng Đức Mẹ được đặt trong một nhà nguyện nhỏ trong nhà thờ. Nhà thờ này là nhà thờ cổ kính nhất tại nước Mỹ để tôn kính Đức Mẹ. Năm 1680, một cuộc nổi dậy của dân da đỏ chống lại sự cai trị tàn bạo của người Tây Ban Nha. Nhà thờ Đức Mẹ chinh phục bị phá hủy. Nhà thờ Thánh Phanxico Assisi được xây năm 1714, nhưng sau bị sụp đổ, đến năm 1800 nhà thờ này được tái thiết. Năm 1853, giáo phận Santa Fe được thành lập. Năm 1869, nhà thờ hiện nay đượpc xây dựng. Nhà thờ này có kiến trúc la mã, theo kiểu dáng của nhà thờ Clermont-Ferrand tại Pháp, quê hương của Tổng Giám mục J.B. Lamy, nhưng phần trang trí bên trong lại mang nhiều sắc thái Tây Ban Nha. Việc xây dựng nhà thờ này có liên quan nhiều đến việc xây dựng nhà nguyện Loretto.

Nhà nguyện Loretto nằm ở cuối đường xe lửa của thành phố Santa Fe cổ được xây vào năm 1873. Bên trong kiến trúc gothique có cầu thang được coi như là một phép lạ, không giải thích được và tuyệt vời. Cầu thang này đôi khi được gọi là Cầu thang Thánh Giuse.Cầu thang có tính chất vừa kiến trúc vừa kỹ thuật cao và cả tinh xảo. Nó gồm có 2 vòng cuốn tròn 360 độ và cao 20 feet không có cột trung tâm chống đỡ. Nó đứng sững từ nền đến gác hát. Các ván đứng của 33 bực thang có cùng chiều cao. Được làm bằng một lọai gỗ quý rất lạ, không biết nguồn gốc, nó được cấu tạo nên chỉ bằng những mộng gỗ vuông không có keo dán hoặc đinh .

Khi Đức Giám Mục J.B. Lamy, một linh mục Mỹ gốc Pháp, từ Cincinati, tiểu bang Ohio đến nhận tân giáo phận Santa Fe bao gồm 3 tiểu bang: Colorado, New Mexico và Arizona, nhiều linh mục ở vùng này chống đối bằng cách bỏ về Mexico, khiến cho tân giáo phận càng thiếu các linh mục và người giảng dậy. Đức cha Lamy đã gửi thư đi các nơi kêu gọi sự giúp đỡ của các linh mục, các tu sĩ nam nữ trong việc truyền giáo và giáo dục. Một trong những dòng tu đầu tiên đáp lại lời kêu gọi của Đức Cha Lamy là các Sơ dòng Loretto. Đây là dòng tu được thành lập tại Kentucky năm 1812 với cha Charles Nerinckx, tên gọi Tu hội nhỏ các bạn của Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá Chúa Giêsu. Cơ sở dòng đầu tiên được gọi là Các Sơ Loretto, là nhà dòng nữ đầu tiên ở Mỹ không có gốc từ Âu châu, chuyên về giáo dục. Năm 1852 nhóm các Sơ Loretto đầu tiên gồm 7 sơ chấp nhận cuộc hành trình gian khổ từ tiểu bang Illinois, St Louis, vuợt sông Misspsipi đến Independence, Missouri. Nhóm này bị dịch tả và Mẹ Bề trên qua đời, một sơ khác quá yếu không thể đi tiếp nên quay về Kentucky. Các sơ còn lại dùng xe chở hàng để di chuyển qua những vùng khí hậu khắc nghiệt và người da đỏ hiếu chiến. Họ đã từ bỏ vùng Kentucky văn minh, yên bình để đi đến Santa Fe đầy bụi bậm, phố xá dơ bẩn. Các sơ không biết tiếng Tây Ban Nha, và phải bắt đầu học trên những chuyến xe đi về miền tây, do Đức Tổng Giám Mục J.B.Lamy dậy. Năm 1855 và 1856 có hai nhóm các sơ tiếp tục đến Santa Fe, có một sơ chết vì sợ trên đường di chuyển, khi bị người da đỏ tấn công đòan xe. Trường học bắt đầu dậy từ năm 1853, từ một cơ sở nhỏ bé tiến dần lên thành một trường có 300 học sinh. Với sự đóng góp của các gia đình học sinh, các sơ đã xây trường học và nhà nguyện, nhà dòng. Đức Cha Lamy đã đưa hai cha con ông Ạntoine và Projectus Mouly từ Paris qua để thiết kế và xây dựng nhà thờ thánh Phanxicô .Nhà thờ này cần 10 năm để hòan thành. Chính Đức Cha Lamy đã gợi ý và khuyến khích các sơ nhờ cha con ông Mouly thiết kế và xây dựng nhà nguyện như họ hằng mong ước. Nhà nguyện này theo kiểu của nhà nguyện Sainte Chapelle ở Paris, cần 5 năm để hòan thành. Về sau ông Antoine Mouly phải bỏ về Paris vì mắt kém, để lại một mình người con hòan tất cà nhà thờ và nhà nguyện. Nhà nguyện dài 100 feet, rộng 26 feet, cao 69,8 feet kể cả tượng Đức Mẹ trên chóp đỉnh.

Cầu thang. Như các nhà nguyện ở Âu châu thời đó, không có cầu thang để lên gác hát, vì cầu thang chiếm một phần diện tích lớn làm giảm bớt số chỗ ngồi trong nhà nguyện. Vào thời gian đầu thế kỷ 19 (1800) đàn bà không được hát trong ca đòan, đàn ông thì có thể dùng thang trèo lên gác hát. Vậy thì các sơ với y phục tu hội và các thiếu nữ mặc áo dài phủ gót giầy mà phải trèo thang thì quả là hãi hùng .

Có nhiều câu chuyện đồn thổi về việc không có cầu thang ở nhà nguyện. Như ông thợ chính về Paris mà quên không nhắc việc làm cầu thang ? Ông thợ con vì say sưa chè chén mà bị bệnh chết ? Còn có cả chuyện ông thợ con vì có chuyện với vợ người cháu của Đức Tổng Giám mục nên bị bắn và chết tại khách sạn Exchange, ngày nay là La Fonda, không để lại bản vẽ hoặc ghi chú về cầu thang ? Vậy làm sao đây ? Các sơ thì chỉ biết cầu nguyện, đặt tất cả lòng cậy trông vào thánh Giuse, đấng bảo trợ các thợ mộc và thợ xây dựng. Các sơ làm tuần chin ngày kính thánh Giuse. Quả nhiên ngày thứ chín thì có một ông già râu xám đến nhà trường, một ông thợ mộc, đề nghị làm cầu thang mà nhà nguyện đang cần đến. Ông thợ được thuê và tiến hành công việc. Một người thợ lưu động thì không được đánh giá tiền công khi chưa hòan thành công việc, do đó đã không có hợp đồng, tên người thợ và số tiền phải trả. Vào thời gian đó nếu các sơ và các thiếu nữ đến tiếp xúc với một người thợ đàn ông thì bị coi là khiếm nhã.Vì vậy chỉ có một mình bác thợ mộc làm cầu thang trong nhà nguyện. Cầu thang được dùng cho việc phụng vụ hàng ngày. Cầu thang và gác hát được xử dụng mỗi ngày một hoặc hai lần.

Có nhiều lời đồn đại là chính Thánh Giuse là người đã làm chiếc cầu thang này. Người ta kể lại rằng cần từ 6 đến 8 tháng để hòan thành và lúc đầu không có tay vịn. Cầu thang nguyên thủy được bác thợ mộc lạ lùng dùng những tấm ván có chiều dài từ 3 đến 5 feet, không có đinh, đinh vít hay keo dán, cũng không có cột trung tâm để đỡ cầu thang. Tuy nhiên có hàng trăm cái chốt vuông bằng gỗ (square wooden pegs) được dùng đến với sự chính xác và tinh xảo kỳ lạ. Mặt dưới của cầu thang khi hòan thành được quét một lớp vữa bằng lông ngựa có mầu xám. Chất này thường được dùng để phủ mặt sau của các mặt bậc và ván đứng của cầu thang. Qua thời gian, các học sinh và du khách thường lấy những mảnh vữa để làm kỷ niệm và thánh tích. Dịp kỷ niệm 100 năm của Học viện Loretto, các sơ đã sửa lại chất vữa quét mặt dưới và thuê thợ địa phương sơn lại như mầu gỗ. Cầu thang không có tay vịn và dốc đứng thì làm sao mà các sơ và học sinh nữ trèo lên được ? Một sơ đã cho biết là khi lên thì phải vịn tay vào bậc thang mà lên, còn khi xuống thì quay mặt vào thang mà lần xuống hoặc “ lướt xuống bằng cái đáy (bàn tọa) của mình “. Ấy vậy mà các sơ và các học sinh đã dùng cầu thang không tay vịn này trong gần 7 năm. Về sau các sơ đã yêu cầu người thợ mộc làm việc cho nhà thờ Thánh Phanxico, ông Phillip August Hesch, làm thêm tay vịn chắn ngòai cho cầu thang dễ sợ này.

Để giải thích về sự vững chắc của cầ thang kỳ lạ, có ba lý thuyết: 1/ Nhiều kiến trúc sư và kỹ sư cho rằng hai vòng 360 độ quay của cầu thang đã tạo nên hai xoắn ốc, giống như cơ cấu của DNA, thiết kế lò so và sức nặng đặt trên nó có thể làm cho nó vững chắc hơn theo lý thuyết. Người khác thì lại cho rằng sức nặng không đồng đều có thể làm nó sụp đổ. 2/ Có người lại chủ trương và tin rằng bên trong cấu trúc hình bầu dài, do đường kính nhỏ, theo lý thuyết có thể tạo nên tải trọng hình ống (load bearing column ). Nhưng hình ảnh trên vi tính và những tính tóan chỉ ra rằng cấu trúc hình bầu dài của cầu thang quá lớn nên không thể tạo nên một tải trọng. 3/ Nhiều kỹ sư trẻ đã phát biểu lý thuyết “ trượt “ (shear theory), cho rằng mỗi yếu tố cấu tạo chính của cầu thang, mặt bậc cầu thang, các ván đứng và đà ngang đặt cùng nhau với kỹ xảo thần kỳ dùng các mộng gỗ vuông và do đó các mộng gỗ vừa vặn có thể làm trượt khỏi sự sụp đổ. Các mộng gỗ vuông, vừa khít có thể tạo nên sự chắc chắn thực sự. Có thể tổng hợp các lý thuyết trên, hợp với lời cầu nguyện và ý Chúa muốn ? Thay cho các lý thuyết, không có một nhất trí nào đạt được về phía các kỹ sư. Đa số cho rằng nó không thể giải thích được. Người thợ mộc kỳ tài sau khi làm xong cầu thang thì không bao giờ trở lại mà cũng không đòi tiền công. Lọai gỗ làm cầu thang cũng kỳ lạ không kém, không biết là gỗ gì ?

Cầu thang sau khi lam tay vịn

Phần 3: Hang Dơi Carlsbad Caverns.

Đường đi từ Albuquerque đến Hang dơi dài 275 miles. Vậy mà chúng tôi vừa đi vừa về trong ngày. Quãng đường dài 550 miles, 800 km, bằng từ Saigon ra Huế. Nhờ đường giao thông tại Mỹ tốt nhất thế giới, đường đi cũng vắng xe, nên nhiều lúc xe cứ tốc độ 90 miles giữ đều không thay đổi.

Từ Albuquerque, chúng tôi dậy sớm, khỏang 7 giờ thì khởi hành, mang theo thức ăn sáng và trưa để ăn trên đường đi. Xe ra khỏi Alb nhắm hướng nam. Qua Belen, rồi Bernardo, Socoro, đến San Antonio thì quẹo trái, đi hướng đông, mặt trời vùng sa mạc chói chang, lóa mắt. Chúng tôi lấy bánh mì chả ra ăn sáng trên xe. Sau đó cùng nhau lần hạt mân côi để xin ơn bình an. Từ đây đường đi chỉ có xe chúng tôi chạy đơn độc, hai bên đường là những cánh đồng cỏ nuôi bò chạy tít mắt tận chân trời. Những đàn bò, đa số có lông mầu đen, đứng gặm cỏ. Tuy vùng này rất khô cạn, ít mưa, nhiều đá sỏi, nhưng cỏ vẫn mọc được, tuy không cao lắm, nhưng do diện tích lớn nên vẫn đủ để nuôi những đàn bò rải rác khắp nơi. Và chúng tôi không thấy bóng dáng những chàng cao bồi cưỡi ngựa, đeo súng ngắn bên hông như trong phim cao bồi viễn tây thuở nào. Thỉnh thỏang lại thấy một khu vực trồng cỏ cao, có ống dẫn nước phun tưới, lọai cỏ cao ngập đầu người, thường được cắt rồi phơi khô, đóng thành những bó vuông vắn dành nuôi bò về mùa đông. Tiểu bang New Mexico mùa hè thì nóng dữ mà mùa đông thì lạnh dữ, cỏ không mọc được. Vì vậy phải trữ cỏ cho bò ăn trong mùa đông. Về nước uống thì vì không có suối nước thiên nhiên ở vùng này nên người ta phải đào giếng, có máy bơm nước chứa vào những hồ nhân tạo nhỏ để cho bò uống nước. Thấp thóang những khu nông trại nhỏ có người trông coi lo việc chế biến sữa, làm các sản phẩm từ sữa bò.

Bắt đầu qua khỏi thị trấn Carrizozo, đến vùng Capitan rồi Picacho, vùng này có khai thác dầu hỏa nên dọc đường có nhiều nhà máy lọc dầu với nhửng dàn ống, cột cao phun khói, hai bên đường dải rác những máy bơm dầu đang họat động. Tiều bang New Mexico và tiểu bang Texas sãn xuất nhiều dầu hỏa và có săng tiêu thụ cho dân chúng, giá săng rẻ hơn các tiểu bang khác. New Mexico còn có những trung tâm nghiên cứu về nguyên tử, và hình như vụ nổ thử nghiệm trái bom nguyên tử đầu tiên trên thế giới, trước khi được xử dụng tại Hiroshima và Nagasaki trong chiền tranh thế giới thứ 2, đã được thử tại một vùng núi non hẻo lánh của New Mexico.

Đến thị trấn Roswell, nơi có một trường trung học dành cho thiếu sinh quân, xe rẽ phải rồi nhắm hướng nam đi tới. Khu vực này có một vài cái hồ lớn, sẵn nước nên có nhiều khu nông trại và chăn nuôi. Qua thị trấn Artesia, đến khu vực hồ Lakewood và Brantley thì đến thị trấn Carlsbad. Đây là nơi có nhiều hotel, motel dành cho khách từ xa đến trọ để chờ xem đàn dơi bay ra khỏi hang động Carlsbad Caverns lúc chiều tối, rồi sau đó đến thị trấn này nghỉ đêm. Vì không có ý định ở lại xem dơi bay ra khỏ hang nên chúng tôi không mướn phòng trọ mà đi thẳng đến vùng hang động Carlsbad. Khúc đường từ Carlsbad đang được mở rộng. Đến thị trấn White’s city nhỏ xíu là bắt đầu di vào con đường men theo triền núi để đến hang dơi. Vùng đồi núi Carlsbad Caverns Nat. Park nằm ngòai bìa của khu rừng Lincoln National Forest, vùng đồi núi này chạy dài qua tiểu bang Texas, thuộc về vùng núi Guadalupe Mountains National Park của Texas.

Chúng trôi kiếm chỗ đậu xe rồi lấy thức ăn mang theo như xôi, mì xào, thịt quay để ăn trưa, tìm đến một nơi có bàn ghế sẵn dưới dốc cây để ngồi nghỉ và ăn trưa, vừa thưởng thức không khí trong lành của vùng núi, nhì về phía nam xa xa là biên giới tiểu bang Texas.

Sau khi ăn uống xong, chúng tôi đi vào khu bán vé để vào hang động. Tại đây có cầu thang máy để đi xuống, nhưng chúng tôi muốn tự mình đi bộ xuống hang động để xem cho kỹ. Sauk hi mua vé thì đi vào một lối đi ven theo ngọn đồi nhỏ. Đối diện với khu đồi này là một khu đồi khác, cách nhau bằng một thung lũng nhỏ có lối đi bằng phẳng và rộng dẫn đến cửa hang động. Trên suờn đồi đó có nhiều nhà trọ, hotel, quán ăn nhưng giá cả khá đắt. Chúng tôi đi men theo đường đồi, đến một khu nhà nhỏ, có mái che nhưng không có vách, tất cả mọi khách du lịch dừng lại để nghe hướng dẫn viên hướng dẫn những tình huống xẩy ra khi đi vào hang động, phải kêu gọi người phục vụ giúp đỡ ra sao, phải đi như thế nào, v.v… Sau đó thì đi tiếp. Đến trước cửa hang, chúng tôi thấy có một khu khán đài có ghế ngồi khá rộng, có thể chứa tới mấy trăm người. Đây là nơi dành để cho khách ngồi quan sát đàn dơi bay ra khỏi hang vào mỗi buổi chiều tà trong mùa hè. Người ta kể rằng mỗi buổi như thế có cả trăm ngàn con dơi bay ra khỏi hang để đi kiếm ăn. Chúng bay rợp trời. Chúng đi kiếm ăn ở các nơi đầm hồ, rừng rậm trong vùng, có thể bay xa 50 miles, trên cao 3000 m (10.000 feet ). Chúng ăn muỗi, bướm đêm… mỗi buổi mỗi con dơi tiêu thụ một lượng côn trùng bằng nửa trọng lương cơ thể của chúng, con cái phải nuôi con thì ăn số lương côn trùng còn nặng hơn cơ thể chúng nữa. Người ta ước tính mỗi một nùa, đàn dơi ở Carlsbad Caverns tiêu thụ hàng triệu pounds côn trùng.Những con háu ăn còn ăn cả bông gòn, bắp ngô và các nông sản khác nữa. Đàn dơi đã lập tổ ở đây trong khỏang thời gian từ 45.850 năm trước đây. Chúng chỉ bay ra khỏi hang trong mùa hè. Ngòai dơi thì còn có cả chim yến cũng làm tổ trong hang.

Chúng tôi đi lần theo con đường từ cửa hang để vào sâu trong hang. Qua khỏi cửa hang là chúng tôi đã thấy mùi dơi nồng nặc, nhưng đi sâu xuống một chút thì không còn mùi dơi nữa. Chúng chỉ làm tổ trên tầng sát mặt đất. Đường đi xuống hang tối mò, tuy có những ngọn đèn điện bắt cách khỏang ở hai bên lối đi, có hàng rào chắn khi bên cạnh lối đi có những vực sâu hay hang động sát cạnh. Chiều sâu của hang Carlsbad là 800 feet. con đường đi xuống hang phải đi vòng thành nhiều tầng, mỗi tầng đều có ghi số, để rủi ro có tai nạn hay chuyện gì xẩy ra cho du khách thì các hướng dẫn viên hay nhân viên khu du lịch biết chỗ mà tìm đến để giúp đỡ. Có khỏang 35 tầng từ trên xuống, nhưng còn khỏang hơn trăm feet nữa mới đến tầng cuối cùng của hang.

Carlbad Caverns National Park đã hình thành cách nay 250 triệu năm. Theo các nhà địa chất học thì các lục địa của trái đất trước kia liền một dải chạy dài tứ cực bắc đến cực nam. Do sự thăng trầm, lên xuống của các dải đất, một thời kỳ nào đó, vùng đông nam của tiểu bang New Mexico này có thời đã chìm sâu dưới biển đến 1800 feet. Vì thế mà ngày nay người ta còn tìm thấy dấu vết của nhiều đông vật biển, san hô,dải đá ngầm, v.v. trên tầng đất Guadalupe Mountains National Park, chạy dài từ New Mexico qua Texas, dầy 1800 feet, rông 3 miles, dài hơn 400 miles. Khỏang 12 triệu năm trước, các hang được hình thành trên Guadalupe Mountains, khỏang 300 hang động. Khi tầng đất được nâng cao thì các vạt nước đi dần xuống các tầng đất dưới sâu. Và vào khỏang 6 triệu năm trước thì hang Carlsbad Caverns bắt đầu hình thành. Các hang đông hình thành do acid carbonic từ nước mưa và tuyết thấm qua đá vôi, đôi khi tạo thành những lọai acid có lưu hùynh đậm đặc như acid dùng trong bình điện xe hơi, và tạo ra thạch cao. Tại hang Carlsbad Cavern ngừoi ta thấy những tảng thạch cao dày 15 feet. Gần đây các nhà khoa học còn tìm thấy dưới những tầng sâu của hang động, nơi xa tất cả các ngưồn ánh sáng và thực phẩm, những nguồn năng lượng cần thiết cho sự sống, có hiện diện những lọai vi khuẩn ăn kim lọai và khóang chất.

Tóm lại, hang động Carlbad Caverns gồm rất nhiều tầng chồng lên nhau, có nhiều thạch nhũ tạo thàng rất nhiều hình thù kỳ dị và đủ sắc mầu, linh động, kỳ bí và rất đẹp.Cái đẹp của Carlbad Caverns là do thiên nhiêu tạo dựng, với thời gian hàng triệu năm. So với những hang đông ở đây thì các hang đông của Việt Nam như Hạ Long, Phong Nha quá nhỏ bé và sơ sài. Có thể nói hang Carlbad Caverns rất độc đáo mà không một hang động nào trên thế giới có thể so sánh được.

Để coi rõ hơn, các bạn có thể xem slide show về Carslbad Cavern.

Tường thuật: Đinh Đông Phương