(Tham khảo : Tài liệu của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt nam)
Năm 2010, nạn buôn người ở Việt nam vẫn còn tiếp diễn nặng nề, mà chưa có một dấu hiệu nào của sự cải thiện tình trạng vi phạm đến phẩm giá của người công dân. Điều này đã được chính giới chức chỉ huy Phòng chống nạn buôn người ở Hanoi xác nhận vào tháng 11 năm 2010.
Nạn buôn người xuất hiện dưới cả ba loại đối tượng nạn nhân : đó là giới công nhân đi làm lao động ở nước ngoài, rồi đến các trẻ em, các cô gái trẻ bị đưa đi làm "nô lệ tình dục" ở nước láng giềng như Cambodia, Trung quốc, và các cô gái "đi làm cô dâu ở nước ngoài" như ở Đài loan, Đại hàn, Trung quốc v.v… Hầu hết đều trở thành nạn nhân của sự lừa gạt, hà hiếp bóc lột đến tột cùng của sự tàn bạo dã man.
1 – Nạn bóc lột người công nhân làm việc tại nước ngoài.
Vì nghèo túng, nhiều người dân tại vùng nông thôn đã phải bán nhà cửa hay vay nợ để đặt "tiền thế chân" hầu được đi lao động ở nước ngoài, cụ thể như tại Mả Lai, Nam Hàn, Đài Loan, các nước ở Đông Âu, Trung Đông… Con số thống kê của Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội cho biết trong mấy năm gần đây đã có đến trên 600 ngàn công nhân đi lao động và sinh sống tại trên 30 quốc gia trên thế giới.
Nhưng phần đông họ bị bỏ rơi, khi sang làm việc ở nước ngoài và bị đối xử rất tàn tệ với công việc nặng nhọc vất vả, mà lại được trà lương rất thấp, lại còn bị tịch thu hộ chiếu, nên phải sống như người tù bị giam hãm trong phạm vị chật hẹp do giới chủ nhân xí nghiệp kiểm soát rất ngặt nghèo. Chung quy, cũng vì văn phòng môi giới dịch vụ cung cấp lao động đi nước ngoài đã tác trách không lo việc bảo vệ cho giới công nhân bất hạnh này. Các tổ chức Bảo vệ người Lao động và Liên minh Bài trừ Nô lệ mới ở Á châu (CAMSA = Coalition to Abolish Modern-day Slavery in Asia) đã nhiều lần phải ra tay để cứu vớt các nạn nhân, nhưng vẫn chưa thể có giải pháp loại trừ tận gốc rễ tệ nạn này, vì lý do nó được sự bao che của chính những cán bộ nhà nước Việt nam thông đồng cấu kết
với các hãng môi giới dịch vụ gây ra từ nhiều năm qua.
2 – Nạn trẻ em và cô gái trẻ bị lừa gạt làm "nô lệ tình dục".
Các trẻ em nhỏ từ 5-6 tuổi, cũng như các cô gái trẻ ờ vùng đồng bằng sông Mekong thường bị dẫn qua biên giới đến Cambodia và bị biến thành nô lệ tình dục nơi các động mãi dâm xung quanh vùng thủ đô Phnom Penh. Các nạn nhân này, một phần bị bọn ma cô lừa gạt, phần khác lại do chính cha mẹ vì quá tuyệt vọng với cảnh nghèo túng, nên đã đang tâm bán con cho lũ người môi giới bất lương. Nhiều cá nhân và tổ chức thiện nguyện đã tìm cách cứu vãn giải thoát cho các nạn nhân khốn khổ này, nhưng vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn. Cụ thể như chương trình "One Body Village" do linh mục Martino Nguyễn Bá Thông chủ xướng.
Khó mà có được con số chính xác về các nạn nhân thuộc lọai này, nhưng theo một nguồn tin của cảnh sát Cambodia vào năm 2004, thì có đến 50,000 cô gái ở trong các nhà chứa tại các địa phương của xứ này, mà phần đông có xuất xứ từ Việt nam. Gần đây, thì chuyện buôn bán phụ nữ và trẻ em lại chuyển sang phía Trung quốc, vì lý do dễ lén lút qua phía biên giới vừa dài đến cả ngàn cây số, vừa ít có sự kiểm soát ở phía bắc.
Công bình mà nói, thì các cơ quan an ninh ở Việt nam cũng đã tìm cách ngăn chặn việc buôn bán bất hợp pháp và vô nhân đạo này, và đã có một số can phạm bị đưa ra xét xử trước tòa án. Vả lại, Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt nam, với sự yểm trợ của một số tổ chức nhân đạo quốc tế, cũng đã có chương trình hành động nhằm giúp đỡ các nạn nhân, cũng như tìm cách xóa bỏ tệ nạn này. Nhưng theo sự đánh giá của giới am hiểu tình hình tại chỗ ở Việt nam, thì kết quả trong lãnh vực này xem ra vẫn chưa được coi là khả quan.
3 – Nạn "làm cô dâu trong các gia đình ở nước ngoài".
Đây là hình thức buôn người rất phổ biến tại các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Mekong. Các cô gái trẻ từ các gia đình nghèo túng miền quê được những văn phòng môi giới dụ dỗ "làm hôn thú với người đàn ông" từ Đài loan, Đại hàn hay Trung quốc và đi theo chồng ra nước ngoài. Phần đông họ đã bị đối xử rất tàn tệ, như một thứ nô lệ trong các gia đình của người chồng. Các cô gái bất hạnh này phải liều mình đánh đổi cả cuộc đời non trẻ của mình, cốt ý để thoát cảnh cơ hàn đói khổ của bản thân và của gia đình, mà rồi lại bị sa vào cái bãy nô lệ tình dục tại xứ người. Có trường hợp như cô Thạch Thị Hoàng Ngọc, 20 tuổi bị ông chồng Nam Hàn 47 tuổi mắc bệnh tâm thần giết chết một cách dã man mới đây vào hồi tháng Bảy năm 2010.
Nhiều tổ chức nhân đạo như của Linh mục Nguyễn Văn Hùng ở Đài Loan đã tìm cách bảo vệ và giúp đỡ các nạn nhân này, nhưng cho đến nay tình hình cũng chưa được cải thiện bao nhiêu.
Về con số nạn nhân thuộc lọai "cô dâu" này, thì có nguồn tin cho biết là hiện có đến trên 200 ngàn người chỉ tính riêng tại Đài loan, Đại hàn và Trung quốc. Thống kê của Sở Di Trú Nam Hàn cho biết, tính đến cuối năm 2010, số cô dâu Việt nam tại Đại hàn đứng đầu về số lượng so với số cô dâu từ các nước khác.
Nói tóm lại, vì có sự đồng lõa thông đồng của các cán bộ có thế có quyền trong guồng máy nhà nước, thường hay bao che cho các cơ sở dịch vụ môi giới trong việc lạm dụng khai thác giới lao động, cũng như giới cô dâu đi nước ngoài, mà thường do sự ít hiểu biết về văn hóa, luật pháp tại nước sở tại, cho nên nạn buôn người vẫn còn tồn tại dưới nhiều hình thức tròng tréo phức tạp. Vì thế mà các nạn nhân của tình trạng "nô lệ thời đại mới" (modern-day slavery) hiện vẫn còn gặp nhiều sự khốn đốn nhục nhằn vì bị xâm phạm nặng nề về nhân phẩm, cũng như bị thiệt thòi về quyền lợi vật chất kinh tế và văn hóa nữa..
Từ nhiều năm gần đây, phúc trình thường niên mới nhất của Bộ Ngoại giao Mỹ về Nạn Buôn Người trên thế giới ( 2010 Report on Human Trafficking) vẫn xếp loại Việt nam vào trong " Tầng Loại thứ Hai " ( Tier 2), tức là quốc gia chưa tuân hành đày đủ các tiêu chuẩn tối thiểu trong lãnh vực ngăn ngừa nạn Buôn Người./
California, tháng Ba 2011
LS.Đoàn Thanh Liêm