Nước Mỹ dưới mắt một tổng giám mục Công Giáo Hoa Kỳ

Đức cha Charles Joseph Chaput, O.F.M. Cap., sinh năm 1944, trong một gia đình cha là dòng dõi thánh vương Louis IX của Pháp, mẹ là thổ dân Mỹ thuộc bộ lạc Potowatomi ở Concordia, Kansas, hiện là Tổng Giám Mục Philadelphia, sau khi làm Tổng Giám Mục Denver 14 năm (1997-2011). Ngài là người thổ dân Mỹ thứ hai được phong giám mục và là người đầu tiên được phong tổng giám mục. Tên của ngài, Pietasa, trong ngôn ngữ Potawatomi, có nghĩa là ngọn gió làm xào xạc lá cây. Quả là một cái tên xứng với ngài, vì dù là một tu sĩ Capuchin, ngài nổi tiếng là người ăn nói bộc trực. Ngài nói về nhiều vấn đề quan trọng và có tính gây tranh luận, đôi khi không cùng quan điểm với Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, như vụ ngài chỉ trích quan điểm thiện cảm của Hội Đồng này trong bài duyệt cuốn phim The Golden Compass. Vì lời chỉ trích đó, bài duyệt phim kia đã được lấy khỏi trang mạng của Hội Đồng.

Nhất là về sự sống, quan điểm của Đức Cha Chaput hết sức dứt khoát và nhất quán. Năm 2004, ngài dõng dạc tuyên bố rằng những ai bỏ phiếu cho John Kerry, một người công khai phò phá thai, đều đã “cộng tác với sự ác” và do đó, cần đi xưng tội. Với Obama, ngài cho rằng ông ta đang cố gắng che đậy thành tích phò phá thai bằng chiêu bài mầu hồng “đoàn kết, hy vọng và thay đổi”. Ông ta chỉ được bầu ra để giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế, chứ không để mài tái lên khuôn nền văn hóa Hoa Kỳ trong các vấn đề như hôn nhân và gia đình, tính dục, đạo đức sinh học, tôn giáo trong đời sống công cộng và phá thai.

Dĩ nhiên, Đức Cha Chaput cực lực phản đối hôn nhân đồng tính và không ủng hộ việc các cặp đồng tính nhận con nuôi. Hôn nhân phải là tình yêu chung thủy giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Con cái phải được mục kích tình yêu ấy nơi cha mẹ chúng, một tình yêu, hai người đồng tính không thể nào có được. Chính vì thế, ngài lớn tiếng ủng hộ quyết định của Trường Công Giáo Boulder không cho “con cái” của các cặp đồng tính ghi danh, trong khi nhận cho con cái các vợ chồng không có tín ngưỡng, con cái những người độc thân hay đã ly dị được phép ghi danh.

Về chính trị, trong cuốn sách của mình tựa là Render Unto Caesar: Serving the Nation by Living Our Catholic Beliefs in Political Life, Đức Cha Chaput khuyến khích người Công Giáo đảm nhiệm “một vai trò tích cực hơn, lớn tiếng hơn và nhất quán hơn về luân lý”, cho rằng không thể phân rẽ xác tín tư khỏi hành động công mà không làm thiệt hại đến cả hai thực tại này. Thay vì yêu cầu công dân để qua một bên các niềm tin tôn giáo và luân lý của họ để phục vụ chính sách công, Đức Cha Chaput cho rằng nền dân chủ Mỹ tùy thuộc hoàn toàn vào một đoàn công dân có tinh thần dấn thân, kể cả các tín hữu tôn giáo.

Một trái tim bốc lửa

Cuối tháng Ba năm nay, Đức Cha Chaput cho công bố cuốn “A Heart on Fire: Catholic Witness and the Next America” dưới hình thức Ebook. Trong một bài phỏng vấn của Hãng Tin Catholic News Agency ngày 16 tháng Tư về cuốn sách này, ngài cho rằng Hoa Kỳ đang có khuynh hướng chống lại tự do tôn giáo. Chỉ thị ngừa thai mới đây chính là khuôn mẫu cho các cuộc tấn công vào tự do tôn giáo tại Hoa Kỳ. Các cuộc tấn công này đang biến nước Mỹ thành một nước thù nghịch đối với tôn giáo nói chung và đối với Công Giáo nói riêng. “Dễ tưởng tượng thấy ngày, tại quốc gia này, các ‘quyền’ tính dục và sinh sản sẽ vượt lên trên các quyền lương tâm và tự do tôn giáo”.

Thực ra cuốn “Một Trái Tim Bốc Lửa” đã được Đức Cha Chaput hoàn thành từ hồi tháng 11 năm ngoái, lúc cuộc tranh luận về chỉ thị của Bộ Y Tế Và Dịch Vụ Nhân Bản chưa lên tới cao độ, nhưng theo ngài, các cuộc tấn công vào tự do tôn giáo vốn đã âm ỉ từ lâu. “Tôn giáo bị áp lực tại nơi công cộng vì niềm tin tôn giáo cổ truyền, và nền luân lý từ đó phát sinh ra, bị coi là trở ngại cho mô hình sinh hoạt Mỹ rất khác và có tính thế tục hung hãn”. Bởi thế, trong cuốn sách của mình, ngài tiên đoán rằng tự do tôn giáo sẽ là “một trong các vấn đề chủ chốt thách thức các Kitô hữu trong thập niên tới”. Đối với Ngài, trải nghiệm của Mỹ về tự do tôn giáo khó có thể tồn tại ngay tại Mỹ, chứ đừng nói là dùng nó làm mô hình cho các quốc gia khác trong tương lai. Lý do là vì nhiều nhà lãnh đạo Mỹ không còn coi niềm tin tôn giáo là sức mạnh lành mạnh nữa, dù các định chế và các giá trị Mỹ đều phát sinh từ quan điểm tôn giáo. Ngài kêu gọi người Công Giáo làm chứng cho niềm tin của mình ở nơi công cộng, một điều được ngài gọi là “nghĩa vụ Tin Mừng”.

Về cuốn “Một Trái Tim Bốc Lửa”, Đức Cha Chaput cho rằng khởi đầu, ngài tính dùng nó làm lời nói đầu mới cho cuốn “Render Unto Caesar” in năm 2008 của ngài. Nhưng sau đó, ngài quyết định công bố nó dưới hình thức Ebook, để đến với độc giả nhanh chóng hơn. Tựa đề của cuốn sách là một thỏa hiệp giữa ngài và nhà xuất bản. Thoạt đầu, ngài muốn có tựa đề “Lửa Ném Vào Thế Gian” như câu Luca 12:49, nhưng nhà xuất bản Image, một phân bộ của Random House, Inc. New York, cho là quá mạnh. Tuy nhiên, tựa đề kia vẫn phản ảnh ước muốn của Chúa Giêsu được thấy các môn đệ “cháy lửa tình yêu Chúa” và “nhiệt thành chinh phục các linh hồn và làm thế gian nên thánh thiện”. Theo Đức Tổng Giám Mục, niềm tin Kitô giáo sống động không bao giờ sống yên ổn với thế gian; đức tin nguội lạnh đôi khi còn tệ hơn là không có đức tin, vì nó khiến ta lầm tưởng là mình thuận hảo với Thiên Chúa.

Tự do tôn giáo và tự do báo chí

Theo Đức TGM Chaput, tự do tôn giáo và tự do báo chí là hai cột trụ chính yếu nâng đỡ bản sắc quốc gia Hoa Kỳ. Nhưng cách nay hơn 60 năm, nhà văn George Orwell đã nhận thấy một hiện tượng lạ lẫm đang xuất hiện trong nền báo chí hiện đại: đó là việc sói mòn của chính tự do tư tưởng và tự do phát biểu, vốn là nét đặt trưng của các xã hội dân chủ (1).

Ngày nay, nhận định của Orwell càng đúng hơn nữa đối với cung cách của giới truyền thông tin tức và giải trí Hoa Kỳ. Trong thực tế, một khung bộ tư tưởng mới đang qui định ý nghĩ nào đáng chấp nhận, ý nghĩ nào không đáng chấp nhận trong sinh hoạt công cộng. Cái khung tư tưởng được coi là chính thống ấy ảnh hưởng đến cả việc lựa tin và cách trình bày chúng. Nó cho người ta hay ý kiến nào thích đáng và ý kiến nào không nên nghe. Và nó không hề khoan nhượng trong phạm vi này. Trong cốt lõi, nó bao gồm một loạt các giả định sẵn có về mục tiêu của chính phủ, ý nghĩa của hôn nhân, gia đình, và tính dục. Loạt giả định này hoàn toàn khác với các truyền thống suy nghĩ trước đây của Hoa Kỳ.

Không chỗ nào, cái khung tư tưởng ấy rõ ràng hơn là trong cung cách giới truyền thông tin tức cư xử đối với tôn giáo. Theo lịch sử, niềm tin tôn giáo vốn đóng một vai trò lớn lao và tích cực trong việc lên khuôn đời sống công của Hoa Kỳ. Nhưng ngày nay, khi đề cập tới tôn giáo, người ta thấy báo chí nghèo nàn trong cung cách tường thuật, thiếu hiểu biết đề tài trình bày, và ngầm cho thấy một niềm thù ghét các tín hữu và các xác tín của họ.

Báo chí vốn được coi là “nghề hiểu biết” và là một nghề quan trọng. Và ai cũng biết nền dân chủ Mỹ tùy thuộc các công dân có hiểu biết và thông minh. Nhưng tiếc thay, việc làm của các nhà báo hiện nay chứng tỏ họ không biết mình, không hề phê phán chính mình. Từ tờ New York Times cho tới những tờ báo nhỏ ở địa phương, tất cả đều có những khung tư tưởng định sẵn, tuy không nói ra, đều có những phù phiếm, những thiên kiến riêng và nhiều mục tiêu để khinh ghét.

Khi những đặc điểm trên không bị nhận dạng và sửa chữa, chúng sẽ phá hoại đời sống công vì chúng làm thui chột việc trình bày sự việc cách trung thực (2).

Như Thánh Kinh từng nhắc nhở, chỉ có sự thật mới giải thoát ta. Nhưng sự thật của hoàn cảnh và những gì ta thấy ngày nay trong giới truyền thông tin tức thật rất khác xa nhau. Trong tư cách công dân đi tìm sự thật, thiển nghĩ ta cần buộc giới truyền thông tin tức phải áp dụng cho chính họ cùng một tiêu chuẩn khắt khe, có tính phê phán, như họ từng đòi hỏi nơi người khác. Hiện nay, dường như ta đang quên điều đó, nhất là trong năm bầu cử này. Quả là điều nguy hiểm.

Phía chính quyền

Có người cho rằng muốn hiểu được nước Mỹ, người ta không cần phải đọc Tuyên Ngôn Độc Lập hay Hiến Pháp Hoa Kỳ, mà nên đọc The Pilgrim’s Progress của John Bunyan và The Celestial Railroad của Nathaniel Hawthorne. Sách của Bunyan nói về các loại suy tôn giáo vĩ đại của lịch sử. Theo ông, chính lòng thèm khát Thiên Chúa đã thúc đẩy những nhà khai khẩn đầu tiên của Hoa Kỳ và tạo nên gốc rễ cho xứ sở này. Sách của Hawthorne, trái lại, là một trong những tác phẩm châm biếm vào hàng đầu của nền văn chương Hoa Kỳ. Ông cũng dựa vào các loại suy của Bunyan nhưng thuật lại cuộc hành trình hướng thượng của con người dưới lăng kính giả hình Mỹ, tức các thèm khát tiện nghi, các giải đáp dễ dãi, các điều chỉnh vội vàng, thành quả vật chất, và lòng đạo giả hiệu.

Bunyan và Hawthorne sống ở hai lục địa khác nhau, lại cách nhau hơn hai trăm năm. Nhưng họ có chung một điểm: tuy một người là tín hữu một người là kẻ hoài nghi, nhưng cả hai cùng sống trong một thế giới chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư duy, niềm tin và ngôn ngữ Kitô Giáo, một không gian tinh thần từng thai nghén ra Hiệp Chúng Quốc. Hợp lại, họ quả đã nắm bắt được sự phân lập sâu thẳm (deep split) trong nhân cách Mỹ, một dân tộc trong đó niềm tin và chủ nghĩa hoài nghi, nhiệm nhặt và buông thả cùng sống vui vẻ trong một quảng trường.

Giới lãnh đạo quốc gia trong năm 2012 tỏ ra câm điếc đối với các vấn đề tự do tôn giáo ở ngoại quốc và không chịu tiếp nhận, đúng hơn phải nói là thù nghịch, đối với sự dấn thân của các tôn giáo vào việc công tại quốc nội. Điều này đi ngược lại lịch sử Hoa Kỳ. Những năm sau này, tình thế chắc chắn cũng sẽ không có gì thay đổi. Điều oái oăm là: bất chấp các lý tưởng đã được công bố, tự do tôn giáo sẽ là một trong các vấn đề chính mà Kitô Hữu sẽ phải đương đầu trong thập niên tới, không phải trên thế giới mà là ngay tại chính quê nhà này.

Đức GH Bênêđíctô XVI từng lớn tiếng bày tỏ quan tâm đối với việc “bách hại, kỳ thị, các hành vi bạo lực khủng khiếp và bất khoan dung tôn giáo” (3) đang xẩy ra khắp nơi trên thế giới. Qủa ta đang giáp mặt với cuộc khủng hoảng hoàn cầu về tự do tôn giáo. Các nhóm thiểu số Kitô Giáo tại Phi Châu và Á Châu hiện đang phải chịu phần lớn cơn bạo lực tôn giáo. Nhưng Kitô hữu không phải là các nạn nhân duy nhất. Gần 70 phần trăm dân số thế giới đang sống trong các chế độ hà khắc đối với tôn giáo (4). Và ngay tại các nước dân chủ phát triển, tự do tôn giáo cũng đang càng ngày càng bị đe dọa hơn.

Các nguyên tắc mà người Mỹ thấy hiển nhiên, tức phẩm giá của nhân vị, sự thánh thiêng của lương tâm, sự tách biệt giữa thẩm quyền chính trị và tôn giáo, sự phân biệt giữa luật đời và luật đạo, ý niệm coi xã hội dân sự có trước và tách biệt với nhà nước, không được ai khác chia sẻ. Oái oăm thay, nước Mỹ hiện nay cũng đang xa lìa các nguyên tắc ấy. Không ai dám bảo đảm rằng chúng sẽ sống còn ở nước Mỹ, chứ đừng nói tới việc dùng nó làm mẫu mực cho các quốc gia khác trong tương lai. Hiến Pháp Hoa Kỳ là một thành quả vĩ đại đối với nền tự do có trật tự (ordered liberty). Nhưng nó cũng chỉ là một mảnh giấy kiêu sa nếu người ta không duy trì nó bằng xác tín và chứng tá sống động của chính mình.

Trong chính quyền, trong giới truyền thông, trong giới học thuật, trong giới kinh doanh và trong nền văn hóa nói chung, nhiều nhà lãnh đạo không còn coi niềm tin tôn giáo như một sức mạnh lành mạnh nữa. Người ta thấy rõ điều đó trong thái độ của chính phủ hiện nay của Mỹ qua việc họ đáp ứng một cách tẻ nhạt đối với các vi phạm tự do tôn giáo trên khắp thế giới. Người ta cũng thấy rõ điều đó trong thái độ thiếu thoả đáng và ơ hờ của truyền thông tin tức khi phúc trình các vấn đề thuộc tự do tôn giáo. Và người ta còn thấy rõ điều đó trong sự dửng dưng của quá nhiều công dân bình thường của Mỹ.

Thế giới quan tôn giáo

Nhưng ta sẽ không thể hiểu nổi khuôn khổ của các định chế Hoa Kỳ, hay các giá trị mà các định chế này muốn cổ vũ và bảo vệ, nếu ta không nhìn nhận rằng chúng phát sinh từ một thế giới quan chủ yếu có tính tôn giáo.

Jacques Maritain, nhà triết học Pháp từng giúp soạn ra bản Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc, có lần viết rằng: “Các Cha Ông Sáng Lập ra nước Mỹ không phải là các nhà siêu hình học hay thần học gia, nhưng triết lý sống của họ, và cả triết lý chính trị của họ, quan niệm về luật tự nhiên và nhân quyền của họ nữa, đều thấm nhuần các ý niệm do lý trí Kitô Giáo tạo ra và được một cảm quan tôn giáo không lay chuyển hỗ trợ” (5).

Đúng như thế, trong tầm nhìn của các vị sáng lập ra nước Mỹ, các quyền của ta phát sinh từ Thiên Chúa, chứ không phải từ nhà nước. Chính phủ chỉ được biện minh bao lâu nó chịu bảo đảm các quyền tự nhiên ấy, cổ vũ chúng và bảo vệ chúng. Gần như tất cả các vị soạn thảo ra các văn kiện lập quốc đều có chung niềm tin ấy. Trong cuốn “Memorial and Remonstrance against Religious Assessments” công bố năm 1785, James Madison lý luận rằng “[bổn phận con người phải tôn kính Thiên Chúa] đi trước cả trật tự thời gian cũng như mức độ trói buộc đối với các đòi hỏi của xã hội dân sự. Trước khi bất cứ ai có thể coi mình như thành viên của xã hội dân sự, thì họ phải coi họ là bày tôi của Đấng Cai Quản vũ trụ trước đã”.

Đó là lý do tại sao tự do tôn giáo là tự do đầu hết và quan trọng nhất của nhân loại. Đấng Cai Quản đầu hết của ta là Thiên Chúa, Đấng Hóa Công, Đấng Cai Quản vũ trụ. Ta được tạo ra vì một mục đích tôn giáo. Ta có một đích điểm tôn giáo. Quyền theo đuổi đích điểm này có trước nhà nước. Bất cứ âm mưu nào nhằm giới hạn quyền thờ phượng, quyền rao giảng, quyền dạy dỗ, quyền thực hành, quyền tổ chức và quyền tham dự vào xã hội một cách hòa bình vì niềm tin của ta vào Thiên Chúa đều tấn công không những nền tảng của nhân phẩm mà cả bản sắc của kinh nghiệm Hoa Kỳ nữa.

Mặt khác, khi nói tới tôn giáo, các vị lập quốc có ý nói tới một điều gì đó có tính đòi hỏi nghiêm ngặt hơn ý niệm “linh đạo” đầy mơ hồ hiện nay nhiều. Harold Berman cho hay: các vị lập quốc hiểu tôn giáo một cách chân thành theo nghĩa Kitô Giáo. Nghĩa ấy hiểu tôn giáo “vừa là niềm tin vào Thiên Chúa vừa là niềm tin vào một đời sau trong đó đức hạnh được tưởng thưởng, tội lỗi bị trừng phạt” (6). Nói cách khác, tôn giáo quan trọng cả cho bản thân lẫn cho xã hội. Nó không phải là ý thích tư riêng. Nó khiến người ta sống cách khác. Đức tin của họ giả thiết phải có nhiều hệ luận bao quát, trong đó có hệ luận chính trị.

Lịch sử Mỹ

Ngay từ đầu, các tín hữu, trong tư cách cá nhân hay cộng đồng, đã tạo hình cho lịch sử Mỹ một cách đơn giản bằng việc cố gắng sống niềm tin của mình giữa trần gian. Như Nathaniel Hawthorne từng miêu tả, rất nhiều người trong số họ đã sống niềm tin rất tồi, ngu dốt và giả hình. Nhưng trong mọi thế hệ, vẫn có đủ số tín hữu sống đức tin ấy cách xứng đáng, và trì chí đủ để duy trì kinh nghiệm tự do có trật tự của Mỹ sống còn.

Nói cách khác, kinh nghiệm Mỹ về tự do bản thân và hòa bình dân sự sẽ không thể có được nếu không có nền tảng tôn giáo vững chắc và sự linh hứng của Kitô Giáo.

Theo chính lời Madison, nước Mỹ được sinh ra để trở thành “nơi trú ẩn cho người bị bách hại và bị áp bức của mọi dân tộc và mọi tôn giáo” (7). Nhưng tại Mỹ hiện nay, ta không hành động như thể tôn kính hay muốn chia sẻ di sản ấy, hoặc ngay cả thực sự hiểu nó.

Bẩy mươi năm trước đây, tức năm 1940, Cha John Courtney Murray đã chọn tựa đề tài “ý niệm văn hóa Công Giáo” cho loạt bài nói truyện của ngài. Sau khi ngài qua đời, các anh em Dòng Tên đã gom góp các bài nói truyện đó thành một khảo luận duy nhất và đặt tên là “Xây dựng một Nền Văn Hóa Công Giáo” (8). Tên gọi mới này quả đáng cho ta lưu ý.

Phần lớn độc giả biết các đóng góp của Cha Murray đối với Sắc Lệnh về Tự Do Tôn Giáo của Công Đồng Vatican II. Trong cuốn “We Hold These Truths”, xuất bản năm 1960, và từ đó, liên tiếp được tái bản, cha cho rằng tính hợp pháp của nền dân chủ Mỹ là do Công Giáo mà có. Nhưng thực ra, nét thiên tài của Cha Murray đã ẩn hiện trong các tác phẩm có trước từ năm 1940, trong đó, ngài cho hay “một chân lý tôn giáo sâu sắc vốn làm nền tảng cho lý thuyết và thực hành dân chủ, đó là phẩm giá nội tại của bản nhiên con người; là sự tự do thiêng liêng của linh hồn; là sự bình đẳng trong tư cách linh hồn với người khác cùng chủng loại; và là sự trổi vượt của nó đối với những vật thể không có cùng một tính thiêng liêng”. Ngài lý luận rằng “nhiệm vụ xây dựng một nền văn hóa, trong yếu tính, vốn có tính thiêng liêng, vì cơ sở của văn hóa là ở trong linh hồn”. Thành thử, “mọi cố gắng văn hóa của con người, xét cho cùng, là một cố gắng nhằm qui phục chân, thiện, mỹ vốn nằm bên ngoài họ, hiện hữu trong một hòa điệu có trật tự, một hòa điệu mà họ phải tạo ra một mẫu mực ngay trong linh hồn mình bằng cách sống phù hợp với chúng”.

Quả là các ý tưởng đẹp đẽ và hết sức đúng. Chỉ có điều nền văn hóa hiện thực của Mỹ vào năm 2012 ít có điểm nào giống như thế. Thời Murray, hạn từ “gay” được liên kết với vui vẻ hân hoan, chứ đâu có liên hệ với bản sắc tính dục; còn hạn từ chân lý hay sự thật đâu bị sử dụng một cách mơ hồ hay châm biếm như ngày nay. Thời gian quả đã đổi thay.

Người ta sẽ mau chóng mỏi mệt khi nghe nhắc đến hàng loạt các lệch lạc hiện nay của Mỹ. Chúng thuộc đủ thứ từ chủ nghĩa tiêu thụ và nạn mù tịt luân lý tới điều được Eric Voegelin gọi là “chủ nghĩa khủng bố trí thức của các định chế [như] truyền thông đại chúng, phân khoa đại học, các quĩ và các nhà xuất bản có tính thương mãi” (9).

Xây dựng một nền văn hóa Kitô Giáo

Nhưng theo Đức Tổng Giám Mục Chaput, liệt kê các lệch lạc để rồi than thở vì chúng đâu có ích chi. Vả lại, như Murray từng nói, điều đó đâu phải là cách đáp ứng của Kitô Giáo. Nếu Chúa Giêsu bảo ta phải trở thành men cho thế gian, và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, và quả tình Người có bảo ta thế thật, thì quả ta có nhiệm vụ phải truyền giáo. Và một trong các trách vụ truyền giáo của người Mỹ là phục hưng các lý tưởng tốt đẹp nhất của đất nước họ.

Các vị lập quốc Hoa Kỳ muốn tạo ra một novus ordo saeclorum, một trật tự mới cho nhiều thế hệ. Nhưng không giống các nhà cách mạng Pháp, họ có một cảm nhận mạnh mẽ về tội nguyên tổ. Họ biết lịch sử rất quan trọng. Không thể tái tạo con người từ hư vô. Con người cũng không thể tự làm cho mình hoàn hảo. Cho nên, họ đã vay mượn từ nhiều nguồn đáng tin cậy khác: nhất là từ các hình thức cộng hoà, luật lệ, định chế, kiến trúc, và đức hạnh của Rôma. Khi bằng hữu gọi Charles Carroll, người Công Giáo duy nhất ký vào Tuyên Ngôn Độc Lập, là “Cicero Hoa Kỳ”, thì đó quả là lời tán dương cao nhất (10).

Trong Kinh Thành Thiên Chúa, Thánh Augustinô cho hay: sự thành công của Rôma không chỉ được xây dựng trên lòng tham, lòng tự hào, và bạo lực mà thôi. Nó còn phát sinh từ các đức hạnh Rôma có trước đó, như hiếu thảo, khổ hạnh, can đảm, công bình, và tự chủ nữa. Đối với Thánh Augustinô, các đức hạnh đó thẩy đều lành mạnh một cách sâu sắc bao lâu được người Rôma đem ra thực hành thực sự. Và tất cả các đức hạnh đó đều được các vị lập quốc Hoa Kỳ tôn trọng trong suy nghĩ của họ.

Ấy thế nhưng cột chặt trong đầu óc người Hoa Kỳ hiện nay còn có một đất nước khác hẳn, một đất nước được Murray mô tả như sau: “Nền văn hóa đang hiện hữu ngày nay của Mỹ thực sự là kết tinh của tất cả những gì thoái hóa trong nền văn hóa của thế giới Kitô Giáo Tây Phương. Xem ra, nó được dựng trên ba điều bác bỏ từng làm ung thối tận gốc nền văn hóa Tây Phương ấy, đó là bác bỏ thực tại siêu hình, bác bỏ tính ưu việt của linh thể đối với vật thể, và của tính xã hội đối với tính cá nhân… Đặc điểm nổi bật nhất của nó là chủ nghĩa duy vật cao độ;… Nó đem lại cho người dân mọi điều để sống vì, nhưng không có gì để chết cho. Và thành tựu của nó có thể tóm tắt như sau: nó đã chiếm được một lục địa nhưng đã đánh mất chính linh hồn mình” (11).

Trong cùng bản văn ấy, Murray còn viết: “Căn cứ vào sự kiện nền văn hóa Mỹ được xây dựng trên việc bác bỏ tất cả những gì Kitô Giáo vốn đại diện cho, xem ra bước đầu của chúng ta trong việc xây dựng một nền văn hóa Kitô Giáo phải là phá sập nền văn hóa hiện nay. Trước một Frankenstein, ta không với tay lấy nước rửa tội mà là chiếc dùi cui”.

Cha Murray viết các dòng não nề ấy 7 thập niên trước đây. Nếu còn sống đến bây giờ, ngài sẽ còn phải não nề đến đâu. Tuy nhiên, theo cha Murray, sẽ không có “chủ nghĩa nhân bản thực sự” nếu không có thập giá của Chúa Giêsu Kitô; nên muốn tháo bỏ điều bất nhân bản mà ta vốn gọi là “nền văn hóa hiện đại Hoa Kỳ”, thì không thể khởi đầu bằng bạo lực mà là bằng việc hoán cải tâm hồn.

Cha viết: “Chỉ khi nào nhà ta ở trên trời ta mới hy vọng hoàn tất được ơn gọi của ta trên mặt đất… Nếu ta không hiểu thế giới và tại sao nó đã được dựng nên, ta có quyền gì pha mình vào việc của nó? Nếu ta không biết rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, thì làm sao ta dám… mưu toan lên khuôn đời sống họ?” (12).

Muốn xây dựng một nền văn hóa Kitô Giáo, phải bắt đầu bằng việc nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa, không cần kế sách hay dè dặt gì cả, và để Người khởi sự công việc. Nghe ra có vẻ dễ dàng. Mà dễ dàng thật. Nhưng như Kitô hữu từng hiểu hơn ai hết, các thế giới và các đế quốc, và ngay sự cứu rỗi của ta, cũng tùy thuộc lời xin vâng nhỏ nhoi nhất.

Ngọn lửa đang tàn

Đến đây, Đức Tổng Giám Mục Chaput thuật lại câu truyện của Rôma cổ xưa. Nhà nước này có một biểu tượng thánh thiêng nhất, đó chính là bàn thờ dâng kính Nữ Thần Chiến Thắng. Bàn thờ này đặt tại Thượng Viện Rôma suốt hơn 400 năm. Nhưng năm 382, vị hoàng đế theo Kitô Giáo cho tháo gỡ bàn thờ này vì cho là thờ ngẫu tượng. Hai năm sau khi ông chết, thị trưởng ngoại đạo của Rôma là Quintus Aurelius Symmachus viết một lá thư đáng chú ý nhất thời hậu cổ đại (13) gửi lên hoàng đế tân lập cũng theo Kitô Giáo, yêu cầu dựng lại đền thờ trên. Nhưng không hẳn chỉ có thế, trong lá thư ông đưa ra lý chứng biện hộ cho một lối sống hoàn toàn khác. Ông cho rằng tháo gỡ bàn thờ là điều thiếu khôn ngoan và bất công. Ông ca tụng các vị hoàng đế trước đó về lòng khoan dung đối với việc duy trì tôn giáo cổ xưa và tài trợ các buổi cử hành ngoại giáo. Ông lý luận rằng việc thờ phượng các thần ngoại giáo của Rôma đã bảo vệ được kinh thành, khuất phục được thế giới và do đó xứng đáng được đối xử một cách tôn kính.

Ông nhấn mạnh rằng bàn thờ trên chắc chắn mang lại sự phù hộ của thần minh đối với thẩm quyền dân sự. Ông tha thiết viết như sau: “Bởi thế, chúng tôi yêu cầu để yên cho các thần minh của cha ông chúng tôi cũng như của xứ sở chúng tôi. Điều chính đáng là coi mọi việc thờ phượng như một. Chúng ta hết thẩy đều ngắm nhìn cùng các vì sao; bầu trời là của chung; quanh ta là một thế giới như nhau. Có gì khác đâu từ cố gắng của từng người đi tìm chân lý? Ta không thể đạt tới bí quyết ấy chỉ bằng một con đường… [cho nên] ta nên dâng lời cầu nguyện, đừng chống đối nhau”.

Ngày nay, đọc lại lời lẽ của Symmachus, ta không khỏi cảm thông với ông ta. Nhưng lúc ấy, không ai nghe lời lẽ của ông. Kitô hữu lúc đó đã vượt xa người ngoại đạo về số lượng, ngay tại Rôma. Thánh Ambrose của Milan, một trong các giáo phụ La Tinh vĩ đại của Giáo Hội, đã viết một bản trả lời hết sức mạnh mẽ, đánh bại lý lẽ của Symmachus. Do đó, bàn thờ kia không bao giờ được dựng lại. Chủ nghĩa ngoại đạo dần dần lui vào dĩ vãng.

Lý lẽ của Symmachus khá vững. Nhưng ông lý luận từ tư thế yếu, cái yếu của lòng hoài cổ muốn lập lại những gì xưa cũ đang sắp sửa qua đi, cái yếu của các nghi lễ tôn giáo lúc đó đã không còn năng lực, cái yếu của van xin để tiếng nói mình được nghe, thay vì đòi hỏi hay chinh phục một chỗ đứng trong tâm hồn con người, nhờ lòng nhiệt tâm của hành động tôn giáo và sức mạnh của chứng tá tôn giáo.

Ngọn lửa bừng cháy

Không ai nghe Symmachus vì không ai lưu tâm đến ngọn lửa đang tàn. Trái lại ai cũng phải chú ý tới ngọn lửa đang bừng cháy, nhất là đang bừng cháy trong tâm hồn người khác. Và điều này đem ta tới trọng điểm của điều Đức TGM Chaput muốn nói. Chúa Giêsu từng phán rằng: “Ta đến đem lửa ném vào trần gian, và Ta mong lửa ấy bừng cháy lên!” (Lc 12:49).

Theo Đức TGM Chaput, lời của Chúa Kitô trên đây được phần lớn người Mỹ trong lịch sử Hoa Kỳ biết tới và hiện vẫn còn ý nghĩa đối với cung cách họ tổ chức cuộc sống. Hoa Kỳ chưa bao giờ là một quốc gia Kitô Giáo, nhưng điều đó không cần thiết, vì đời sống công và các định chế dân sự của nó vốn được thông tri một cách sâu sắc bởi tư tưởng và ngôn ngữ cũng như luân lý Thánh Kinh. Điều còn quan trọng hơn nữa là đa số người dân Hoa Kỳ là Kitô hữu; phần đông coi trọng đức tin của mình; và rất nhiều người cố gắng sống đức tin ấy, đến độ khiến Alexis de Tocqueville phải thán phục khi thuật lại việc thờ phượng của họ trong ngày Chúa Nhật (14).

Nhưng đó là chuyện của ngày qua, lúc Kitô hữu cảm thấy nước Mỹ như nhà mình, nơi đã được các Kitô hữu định cư trước nhất và chủ yếu do họ xây dựng trong ba thế kỷ đầu. Còn những năm gần đây, giống Bàn Thờ Nữ Thần Chiến Thắng, Thiên Chúa càng ngày càng ít được chào đón giữa lòng sinh hoạt chung. Bởi thế, chẳng bao lâu nữa, Kitô hữu sẽ thấy mình rơi vào thân phận Symmachus, phải lý luận từ bên lề.

Trong vài thập niên tới, nước Mỹ sẽ trở nên ít thân thiện đối với đức tin Kitô Giáo hơn bất cứ thời nào trong lịch sử của nó. Và điều đó sẽ đặt ra một thách thức thật lớn đối với người Công Giáo. Hiện nay, lời tiên đoán này vẫn còn bị coi là quá mạnh, không thuyết phục được ai. Vì gốc rễ của kinh nghiệm Mỹ vốn bám sâu vào Thệ Phản. Niềm tin vào Thiên Chúa vẫn còn giúp người ta lên khuôn các điều họ tin về con người. Và chính điều họ tin về con người đã tạo khung cho sinh hoạt quốc gia. Theo truyền thống, đức tin Kitô Giáo vốn là nền tảng cho sự nhất trí cao của người Mỹ về luân lý. Sự nhất trí ấy hướng dẫn chính sách xã hội và luật pháp của Hoa Kỳ.

Đã đành, Thiên Chúa không được Hiến Pháp nhắc tới, nhưng không phải vì Người không được hoan nghinh. Thực vậy, Người thẩm thấu toàn bộ diễn trình lập hiến. Gần hết các nhà lập quốc là tín hữu tôn giáo, đa phần là Kitô hữu, và một số hết sức sùng đạo. Các công trình của họ chịu ảnh hưởng không những của Phong Trào Ánh Sáng mà còn của di sản Thánh Kinh Do Thái và Kitô Giáo.

Trên thực tế, nói theo Daniel Boorstin, John Adams và các đồng nghiệp lập quốc của ông đều là những người có tâm trí hợp tuyển và bảo tàng (a miscellany and a meseum), tức những người có khả năng tổng hợp cũ và mới, đức tin của Kitô giáo và các lý tưởng của Ánh Sáng, mà không phá hủy điều gì (15). Các nhà lập quốc này coi đức tin tôn giáo như một điều tách biệt đối với chính quyền nhưng có tính sinh tử đối với lẽ sống còn của đất nước. Trong Diễn Văn Từ Giã, Washington nhấn mạnh rằng “tôn giáo và luân lý là hai hỗ trợ không thể thiếu” đối với sự thịnh trị. Ông nói thêm: “lý trí và kinh nghiệm đều ngăn cấm ta không được nghĩ rằng loại bỏ nguyên lý tôn giáo, nền luân lý quốc gia vẫn có thể bền vững”. Đối với John Jay, James Wilson, Alexander Hamilton, Charles Carroll, John Adams, George Washington, và hầu hết các nhà lập quốc khác, kể cả Thomas Jefferson và Benjamin Franklin, tôn giáo tạo ra các công dân đức hạnh. Và chỉ có các công dân đức hạnh mới duy trì được đất nước để nó cân bằng trong định chế, trong nhậy cảm luân lý, và trong luật pháp.

Địa bàn đang thay đổi

Kinh nghiệm Mỹ, một xã hội dân chủ, không bè phái, được một thế giới quan và một ngôn ngữ luân lý ngấm ngầm Kitô Giáo nâng đỡ, đã thành công trong suốt gần 200 năm. Bất chấp cái phả hệ Thệ Phản và các thiên kiến đi đôi với nó, nước Mỹ vẫn mềm dẻo đủ để dành đất đứng cho người Công Giáo; và người Công Giáo ở đây quả đã có thể và thực sự phát triển rực rỡ. Thực vậy, họ hiện lập thành cộng đồng tôn giáo lớn nhất Hiệp Chúng Quốc. Họ đang phục vụ đông đảo tại Quốc Hội. Họ chiếm đa số tại Tối Cao Pháp Viện. Họ giữ các địa vị chỉ huy trong doanh nghiệp và chuyên nghiệp.

Nghe thì quả đáng nể. Vần đề là: việc ấy càng ngày càng không có ý nghĩa bao nhiêu nữa. Gần 80 phần trăm người Mỹ vẫn tự nhận là Kitô hữu. So với tiêu chuẩn Âu Châu, thực hành tôn giáo tại Mỹ vẫn còn cao. Nhưng địa bàn tôn giáo của Mỹ đang thay đổi. Một phần tư người Mỹ tuổi từ 18 tới 29 hiện không còn thuộc bất cứ tôn giáo nào nữa. Theo Nhóm Barna và nhiều cuộc nghiên cứu khác, những người Mỹ này còn cho thấy “một mức chỉ trích gay gắt đối với Kitô Giáo hơn hẳn các thế hệ trước cùng cỡ tuổi với họ. Quả thực, chỉ trong một thập niên… hình ảnh Kitô hữu đã đi xuống một cách đáng kể, một phần vì giới trẻ tỏ ra chán nản, muốn rút chân ra” (16).

Thế hệ trẻ đó đang sắp sửa thừa hưởng quyền lãnh đạo quốc gia trong thập niên tới. Vậy mà, như Christian Smith và các đồng nghiệp của ông từng cho thấy, thế hệ đang lên đó không hề bao giờ lo lắng thảo luận các nan đề về luân lý; nhiều người trong số họ còn không biết gì tới các nguyên lý tôn giáo, từng giúp người ta đưa ra các quyết định luân lý khó khăn; phần lớn những người này không được đào luyện thích đáng về luân lý (17).

Sự mất mát của Công Giáo được che đậy phần nào nhờ di dân Châu Mỹ La Tinh. Nhưng dù 31 phần trăm người Mỹ cho rằng mình được dưỡng dục trong đức tin Công Giáo, nhưng không tới 24 phần trăm người Mỹ tự mô tả mình là người Công Giáo.

Việc mất đi một khối quần chúng Kitô hữu chủ yếu như trên khỏi đời sống Mỹ đã đem lại nhiều hiệu quả. Chỉ xin kể một trường hợp hiển nhiên: các nhóm thiểu số về tính dục hiện đang thường xuyên sử dụng quyền lực nhà nước và các phương tiện truyền thông để đánh đổ các định nghĩa truyền thống về hôn nhân và gia đình. Và họ thường chỉ gặp một phản kháng tẻ nhạt hay vô tổ chức; mà phản kháng này lại bị giới truyền thông tường thuật một cách phiến diện, đầy tiêu cực nữa.

Trong những năm tới, càng ngày ta càng thấy khuynh hướng trên nhiều hơn, song song với mưu toan của nhà cầm quyền dân sự muốn can thiệp vào đời sống của cộng đồng tín hữu nhân danh quyền lợi cá nhân. Ta cũng sẽ thấy càng ngày các định chế tôn giáo càng có ít không gian tự do hơn để thi hành các công trình của mình nơi công cộng. Hiện đang xẩy ra nhiều vụ nhà nước gây áp lực nặng nề lên các bệnh viện và cơ sở nhận con nuôi của Công Giáo, nhiều vụ kiện nhằm tấn công vào phạm vi của tự do tôn giáo, nhiều hạn chế của liên bang đối với quyền lương tâm, nhiều cuộc tấn công đối với các khoản trừ thuế cũng như tư cách miễn thuế dành cho tôn giáo, và trực tiếp can thiệp vào việc thuê các dịch vụ của các cơ quan như Cơ Quan Bác Ái Công Giáo. Thành thử không phải là vô cớ khi các vị giám mục Hoa Kỳ thiết lập ra ủy ban đặc biệt về tự do tôn giáo vào năm ngoái. Tự do tôn giáo xưa nay vốn là điều người Mỹ lo lắng cho các nước khác. Nhưng nay, nó trở thành mối lo của chính họ.

Vấn đề là: tại sao một nước Mỹ của Tocqueville, nơi “sinh hoạt thương mại và kỹ nghệ dường như ngưng lại [và] mọi ồn ào đều lắng dịu” vào ngày Chúa Nhật lại rơi xuống hàng một nước Mỹ, nơi, nói theo lời Pascal Bruckner, người ta trở thành những tên nô lệ cho con thuyền khoái lạc, một nước Mỹ của tiêu thụ điên cuồng và của tính dục bừa bãi, nơi “ý định là đem lại tự do mà kết kết quả chỉ là quảng cáo; nơi điều được giải thoát không hẳn là thèm khát tính dục cho bằng thèm khát được mua bán không hạn chế”? (18). Nên nhớ Bruckner không phải là một nhà giảng thuyết nhiệt tình, ông chỉ là một người hoài nghi Pháp hoàn toàn thế tục, ông chỉ nói những gì ông thấy tận mắt.

Nhưng thực ra, các vấn để của nước Mỹ phát sinh và sống song song với các đức hạnh của nó. Theo một nghĩa nào đó, các vấn đề và đức hạnh này phát sinh từ cùng một hạt giống. Nền thần học Thệ Phản và tư tưởng Ánh Sáng vốn đề cao tầm quan trọng của cá nhân. Chính hai nhân tố ấy đã nuôi dưỡng một chủ nghĩa cá nhân đầy tác hại và một lòng thù ghét đối với bất cứ thẩm quyền tôn giáo nào bên ngoài quyền tối thượng của lương tâm bản thân.

Kết quả là: không có sự kiềm chế của một đồng thuận luân lý do một cộng đồng tôn giáo sống động lên sinh khí và lo bảo vệ, tự do cá nhân sẽ dễ dàng trở thành giấy phép để người ta sống vị kỷ. Ý nghĩa đúng sai sẽ được tư hữu hóa, xã hội chỉ còn là một tập hợp các cá nhân lẻ tẻ mà các thèm khát và nhu cầu được điều hòa bởi một dự án duy nhất họ có chung đó là nhà nước.

Tocqueville coi công luận là nhân tố dễ gây tác hại cho dân chủ. Thực thế, theo lý thuyết, trong một nền dân chủ, mỗi cá nhân là thẩm quyền luân lý tối hậu cho chính mình. Nhưng thực tế không đúng như vậy. Các cá nhân này nhanh chóng nhận thấy mình cô lập và thiếu hiểu biết trong tư cách cá nhân. Thiếu một cộng đồng tôn giáo vững mạnh yểm trợ, họ có khuynh hướng muốn trao phó tư duy bản thân cho công luận. Và vì công luận rất dễ bị thao túng, nên sinh hoạt dân chủ bị khuynh đảo.

Đó là lý do khiến các nhà lập quốc Hoa Kỳ coi tôn giáo là điều quan trọng đối với sự lành mạnh của đời sống công. Vì đức tin tôn giáo tạo nên một khuôn khổ luân lý vững bền cho cuộc tranh luận chính trị và đào tạo ra các công dân có giáo dục về luân lý để điều hành guồng máy quốc gia. Có điều, tôn giáo không sống còn nhờ tính hữu dụng xã hội. Người ta không sống theo một sứ điệp chỉ vì sứ điệp này hữu dụng. Họ sống sứ điệp ấy vì họ tin nó đúng và do đó đem lại sự sống cho họ.

Chính người Kitô Giáo

Điểm được Đức TGM Chaput nhấn mạnh là: cái nước Mỹ đang xuất hiện, tức nước Mỹ ngu dốt hay có thái độ ngờ vực đối với tôn giáo nói chung và đối với Kitô Giáo nói riêng kia, không nên làm ta ngạc nhiên. Vì tuy là nước Mỹ mới, nó vẫn là sản phẩm của Mỹ. Ta thường hay đổ lỗi, cho rằng chính truyền thông đại chúng, hay giới học thuật, giới khoa học, hoặc các nhóm đặc quyền đã tạo ra môi trường hiện nay. Nhưng thực ra, các Kitô hữu, trong đó, có người Công Giáo, cũng đã góp tay vào đó bằng chính sự thèm khát muốn được có mặt trong đó, bằng những sao lãng, những quá tự phụ và bằng đức tin lạnh nhạt của mình.

Quá nhiều người tự nhận là Kitô hữu nhưng không hề biết Chúa Giêsu Kitô. Họ thực sự không tin vào Tin Mừng. Họ thấy bối rối, xấu hổ vì tôn giáo của mình. Có giữ đạo chăng nữa, họ cũng cho là để yên chuyện. Hoặc sẵn sàng điều chỉnh đạo theo mức hoài nghi của mình. Những điều đó không thay đổi đời họ, vì chúng không có thực. Và vì không có thực, chúng không đem lại hiệu quả biến đổi nào đối với tác phong bản thân, không đem lại bất cứ sức mạnh xã hội nào, bất cứ hậu quả công cộng nào. Một đức tin như thế giống hệt tôn giáo từng được Symmanhus tiếc nhớ. Dù tôn giáo ấy trước đây có như thế nào, nay nó cũng đã chết thật rồi.

Như vậy thì tín hữu, và nhất là tín hữu Công Giáo, phải làm gì trước tình thế trên? Theo Đức TGM, nếu còn sống, chắc chắn Cha John Murray sẽ cho rằng người Công Giáo có thể đem lại cho nước Mỹ sức mạnh luân lý và sự sâu sắc trí thức mà Chủ Nghĩa Thệ Phản từng đánh mất. Đúng vậy. Cha Murray chưa bao giờ quên các thiếu sót trong hệ thống chính trị hay trong nhân cách phân lập (split personality) lúc lập quốc. Nhưng niềm hy vọng của ngài đối với các tiềm năng của kinh nghiệm Mỹ là niềm hy vọng chính đáng.

Vì ta là người tạo ra tương lai, chứ không ngược lại. Không có gì trên trần thế này là tất yếu, ngoại trừ chiến thắng của Chúa Giêsu Kitô; điều này đúng cho cả những gì lịch sử sẽ nói về đặc điểm của đất nước mang tên Hoa Kỳ. Suốt những năm tháng phục vụ trong tư cách giám mục, Đức Cha Chaput từng gặp hàng nghìn, nghĩa là nhiều lắm, các thanh thiếu niên rực lửa yêu mến Chúa Giêsu Kitô và hoàn toàn dấn thân cho niềm tin Công Giáo. Họ tụ tập nhau trong các phong trào hay dự án nhằm đem lại cho lòng khát khao Chúa của họ một sức mạnh thực sự: đó là Hiệp Hội Sinh Viên Đại Học, đó là Hiệp Thông và Giải Phóng, đó là Đường Tân Dự Tòng, đó là Phong Trào Sinh Hoạt Kitô Giáo, và rất nhiều hình thức tông đồ mới của Công Giáo.

Những người trẻ Công Giáo trên không đơn độc. Người ta thấy họ hàng trăm hàng nghìn trên mọi nẻo đường đất nước. Nhưng họ cần một thứ lãnh đạo và một thứ giáo dục có thể tỏa sáng sự vững tin vào Lời Chúa, lòng trung thành với đức tin Công Giáo, và lòng nhiệt tâm truyền giáo nhằm làm mới mọi sự trong Chúa Giêsu Kitô, kể cả nơi công cộng.

Tuy nhiên, hình như Cha Murray không đọc được cái nôn nóng của người Công Giáo muốn có chỗ đứng trong cái giòng chẩy chính của Mỹ vì cảm thấy đau lòng trước mặc cảm tự ti về xã hội của mình. Và cha đã không sống tới lúc thấy những vấn đề ấy sẽ dẫn tới đâu.

Ngày nay, thay vì người Công Giáo cải đạo văn hóa, thường là văn hóa tẩy hết cái nhiệt tâm tông đồ nơi người Công Giáo trong khi chỉ để lại nơi họ cái nhãn hiệu đơn thuần mà thôi. Dĩ nhiên có những luật trừ, nhưng cho đến nay, những luật trừ này không đủ nhiều để thay đổi tình thế. Chính vì thế, số lượng đông đảo người Công Giáo trong giới lãnh đạo kinh tế và chính trị tại Mỹ vẫn chỉ tạo được rất ít tác dụng đối với hướng đi của đất nước. Điều này cũng thấy rõ trong ngành giáo dục cao đẳng Công Giáo, là ngành lãnh trách nhiệm giáo dục và đào tạo thế hệ lãnh đạo Công Giáo sắp đến.

Nền giáo dục cao đẳng Công Giáo

Người ta không thể đọc lại Tuyên Ngôn Land O’Lakes năm 1967 về bản chất đại học Công Giáo hiện đại mà không chú ý tới việc từ ngữ Đức Tin đã hoàn toàn biến mất khỏi tài liệu này. Thực vậy, tài liệu này là một bản tuyên ngôn độc lập, tự tách mình ra khỏi mọi quyền bính nào không phải là cộng đồng đại học (19). Điều này không có gì đáng nói đối với một định chế thế tục. Nhưng quả là lạ khi một cộng đồng học thuật vốn cam kết phục vụ cả đức tin lẫn lý trí, mà thực sự lại không muốn làm thành phần của truyền thống Công Giáo sống động.

Việc họ xa rời căn tính Công Giáo, lẽ dĩ nhiên, có nhiều nguyên do. Một trong những nguyên do đó là việc suy giảm nhân viên Công Giáo trong hàng ngũ giảng dạy. Nguyên do khác là sự sống còn về kinh tế. Nhưng nguyên do đáng buồn nhất là nhiều giới chức đại học bất mãn với một truyền thống học thuật bị họ coi là cũ mèm và thô sơ trong một thời đại khoa học tân tiến (20).

Không gì sai lầm bằng, vì nguyên do đó đang cướp đi kho tàng khôn ngoan, đầy sáng tạo và hy vọng khỏi tầm tay các nhà lãnh đạo Công Giáo sắp tới. Nét thiên tài của nền giáo dục cao đẳng Công Giáo là một cái học xây dựng trên sự liên lập giữa đức tin và lý trí. Chí ít, nó cũng nhất quyết không tách việc đào tạo trí thức khỏi việc đào tạo luân lý vì hai việc đào tạo này liên kết chặt chẽ với nhau, không thể tách biệt được. Nó đặt ưu tiên trên các môn học nhằm hướng dẫn việc tạo ra một cái nhìn toàn diện về thực tại, cả triết học lẫn thần học. Nó giúp tạo ra một nền văn hóa Kitô Giáo và giải thích rõ nền văn hóa này phải như thế nào trong việc làm triển nở con người. Nó đưa lại một nền nhân học gắn bó coi con người như một toàn bộ và thực sự đem ý nghĩa lại cho thuật ngữ “nhân phẩm” thay vì biến thuật ngữ này thành khẩu hiệu trống rỗng cho dịch bản cuối cùng của chủ nghĩa cá nhân. Nó giúp con người tắm gội trong đức hạnh và biết trân quí cả thực tại vật chất lẫn thực tại tinh thần của nhân loại, tức thế giới hữu hình và thế giới vô hình, những thế giới chỉ có sự sống khi tin vào Chúa Giêsu Kitô.

Nói cách khác, nền giáo dục cao đẳng Công Giáo là người thừa kế gia tài trí thức, luân lý, và văn hóa vĩ đại nhất trong lịch sử con người. Nó giải đáp thoả đáng cho câu hỏi con người là ai và tại sao. Nó đẹp vì nó đúng. Nó không có gì để ta phải bối rối, trái lại, nó có đủ lý do để ta bừng cháy lòng tin tưởng và nhiệt thành tông đồ. Ta chỉ tự đánh bại mình, và chắc chắn không phụng sự Thiên Chúa chút nào, nếu ta cho phép mình nghĩ cách khác.

Kinh Thành Con Người và Kinh Thành Thiên Chúa

Thánh Augustinô nhắc ta nhớ rằng Kinh Thành Con Người và Kinh Thành Thiên Chúa hòa lẫn với nhau. Ta có trách nhiệm với cả hai. Tuy nhiên, quê hương sau cùng và tư cách công dân thực sự của ta không ở đời này. Chính trị là điều quan trọng, nhưng không bao giờ là tập chú chính hay mục tiêu chính của đời sống người Kitô hữu. Nếu ta không biết và yêu mến Chúa Giêsu Kitô, và cam kết đời ta với Người, và hành động theo niềm tin của ta, mọi sự chỉ là trống rỗng. Nhưng nếu ta thực hiện các điều trên, thì mọi sự khác đều có thể, kể cả việc cải đạo thế giới chung quanh. Câu hỏi duy nhất đáng lưu ý với tất cả chúng ta là câu hỏi Chúa Giêsu đã hỏi các tông đồ của Người: “Các con bảo Thầy là ai?” (Mc 8:29). Mọi sự đều phụ thuộc câu trả lời cho câu hỏi này. Đức tin dẫn ta theo một hướng, thiếu đức tin sẽ dẫn ta đi hướng khác. Vấn đề là đức tin, lúc nào và ở đâu cũng thế, bất kể bạn là học giả, là bác sĩ, là linh mục, là luật sư hay thợ máy. Ta có thực sự tin Chúa Giêsu Kitô hay không? Nếu tin, ta sẽ làm gì với đức tin ấy?

Một đời sống thực sự Công Giáo phải nuôi dưỡng được cả linh hồn và tâm trí; phải đem lại một tầm nhìn biết coi con người như được tình yêu Thiên Chúa làm nên hoàn hảo, hiểu biết tạo thế và các thực tại vô hình; phải giúp ta thấy được vẻ đẹp của thế giới dưới ánh sáng vĩnh cửu; và phải giúp ta nắm bắt lại nét thanh cao của lịch sử nhân bản và phẩm giá con người.

Đó chính là thứ chứng tá sẽ làm bừng cháy trái tim con người. Chỉ có nó mới khởi diễn được cuộc cách mạng duy nhất có thể thay đổi mọi sự: đó là cuộc cách mạng của tình yêu. Chúa Giêsu từng phán rằng “Ta đến để ném lửa vào trần gian và Ta mong lửa ấy bừng cháy lên”. Nhiệm vụ của ta là đốt lên ngọn lửa ấy và giữ cho nó mãi bừng cháy.

Chú Thích

(1) George Orwell, “The Freedom of the Press” (Animal Farm” trong Essays, John Carey hiệu đính (New York: Alfred A. Knopf, 2002), các tr. 888-897).

(2) Vào trang mạng www.getreligion xem cách đưa tin về các tôn giáo chính dòng. Về khung tư tưởng định sẵn của báo chí, xin xem William McGowan, Coloring the News: How Political Correctness Has Corrupted American Journalism (San Francisco: Encounter Books, 2002) và Gray Lady Down: What the Decline and fall of the New York Times Means for America (New York: Encounter Books, 2010).

(3) Đức Bênêđíctô XVI, “Religious Freedom: The Path to Peace”, World Day of Peace Message, Jan. 2011.

(4) “Global Restrictions on Religion”, Pew Forum on Religion and Public Life, Tháng 12 năm 2009.

(5) Jacques Maritain, Reflections on America (New York: Charles Scribner’s Sons, 1958) các tr.182-183.

(6) Harold Berman, “Religion and Liberty under Law at the Founding of America” Regent University Law Review 20 (207): 32.

(7) James Madison, “Memorial and Remonstrance” 9.

(8) John Courtney Murray, S.J., “The Construction of a Christian Culture” 1940, Works by John Courtney Murray, Woodstock Theological Library, http://woodstock.georgetown.edu/library/Murray/1940.htm.

(9) Eric Voegelin, “Why Philosophize? To Recapture Reality!” The Collected Works of Eric Voegelin, vol. 34, Autobiographical Reflections (Columbia, MO: University of Missouri Press, 2006), tr.119.

(10)Xem Bradley J. Birzer, American Cicero: The Life of Charles Carroll (Wilmington, DE: Intercollegiate Studies Institute, 2010).

(11)Murray, “Construction”.

(12) Ibid.

(13) “The Memorial of Symmachus, Prefect of the City” trích từ Letter of St. Ambrose,dựa theo H. De Romestin, dịch trong Library of Nicence and Post Nicene Fathers, 2nd series, vol. 10 (New York: 1896), Internet Medieval Source Book, http://www.fordham/edu/halsall/source/ambrose-sym-asp.

(14) Alexis de Tocqueville, Democracy in America, dịch và hiệu đính bởi Harvey C. Mansfield and Delba Winthrop (Chicago: University of Chicago Press, 2000), tr. 517.

(15) Daniel j. Boorstin, America and Image of Europe: Reflections on American Thought (Gloucester, MA: Peter Smith, 1976) tr.70.

(16) Xem hậu cảnh của Barna Group tại http://www.barna.org/teens-next-gen-articles/94-a-new-generation-expresses-its-skepticism-and-frustration-with-Christianity và dữ liệu của Pew Research Center tại http://www.pewresearch.org

(17) Christian Smith và nhiều người khác, Lost in Transition: The Dark Side of Emerging Adulthhod (New York: Oxford University Press, 2011)

(18) Pascal Bruckner, Perpetual Euphoria: On the Duty to Be Happy (Princeton, NJ: Princeton University Press, 2010) các tr.47 và 66.

(19) Trích trong Neil G. McCluskey, S.J., The Catholic University (Notre Dame, IN: University of Notre Dame Press, 1970).

(20) Xem James Tunstead Burtchaell, C.S.C., The Dying of the Light: The Disengagement of Colleges and Universities from Their Christian Churches (Gran Rapids, MI: Wm.B. Eerdmans, 1998); và Philip Gleason, Contending with Modernity: Catholic Higher Education in he Twentieth Century (New York: Oxford University Press, 1995).