PHAOLÔ và CẢM NGHIỆM CHÚA SỐNG LẠI, MỘT GẶP GỠ

Gặp Chúa trên đường Đamát

Tóm lược

Thánh Phaolô từng trải nghiệm về một đổi đời khi gặp gỡ Chúa-Phục-Sinh trên đường Đamát. Gặp gỡ này, đánh động ông suốt một đời, cả về sau. Gặp Chúa rồi, thánh-nhân lại nhận ra rằng: đằng sau nỗi chết, vẫn còn đó sự sống. Như ta biết và cũng từng mơ chuyện này cho riêng mình. Mơ, là mơ điều gì đó xảy đến tiếp theo sau, có cuộc sống siêu phàm như của Đấng rất thánh. Mơ, là mơ về một thăng hoa phấn kích rất khác biệt ở cuộc sống và ở cả nỗi chết. Và, giữ lại nơi con người những giá trị ở cả hai cảm nghiệm sống động và chết chóc nữa. Khi ra đi để đến với mọi người trong cuộc sống, thánh-nhân đã gặp Chúa và mọi người đang lùi dần vào cõi chết của chính họ. Ra đi gặp gỡ, để có được sự sống có nâng nhấc, rất trỗi dậy.

Thánh Phaolô gọi đó là sự sống phục sinh. Điều này có nghĩa, là: cách sống cũng hiện tại, chứ không phải chần chờ đến mãi về sau. Thánh-nhân lại cũng nhận ra rằng: lối sống nhị-nguyên ta hằng suy-tưởng, không chỉ có mỗi nhị-nguyên sống/chết mà thôi, nhưng còn có cả nhị-nguyên tốt/xấu, thấp/cao, Do thái/dân ngoại, bây giờ/mai sau, ở đây/nơi đó, chủ/tớ cùng nhiều nhị-nguyên khác vẫn vẫn thăng-hoa nâng nhấc, vào mọi lúc. Chính vì thế, ta khởi đầu cuộc sống siêu-phàm ngay lúc này. Và như thế, là: Đức Giêsu đã mặc khải sự việc ra như thế với chính thánh-nhân, và đã ban tặng cho ông niềm xác-tín để ông thấy được rằng: qua Đức Giêsu, nhị-nguyên sống/chết có khả năng thi-thố với mỗi người và hết mọi người. Trên nguyên tắc, nhị-nguyên nâng nhấc/trỗi dậy ấy cũng đã ban cho mọi người. Đó, là tự do cởi mở vẫn rất thực. Một sự thực, như Phục sinh/trỗi dậy đang khởi phát nơi ta. Và, mỗi khi ta có cảm nghiệm về những chuyện như thế, cảm nghiệm ấy lại sẽ ngang qua ta mà đến với mỗi người, để hết mọi người được tự do thật sự. Và, sứ mạng mà thánh Phaolô kiến tạo cho cộng đoàn của thánh-nhân để họ sống như thế. Và thánh nhân, cùng với bạn đạo ở các cộng đoàn thân quen đã học được cách sống một cuộc sống có nâng nhấc/phục sinh –vượt mọi rào cản dù đầy huý kỵ/sợ sệt- để sự sống của chính mình mang ý nghĩa rất thiết thực.

Tường trình trên giấy bút

 

Vừa qua, chúng ta đã khởi sự tư-duy về hiện tượng xảy đến sau diễn biến đổi đời nơi thánh Phaolô, thì nay là dịp thuận để ta tập trung suy tư về thánh-nhân, cho kỹ hơn. Trước hết, tưởng cũng nên đề cập đến các sự kiện trọng đại từng xảy ra trong đời thánh Phaolô. Đôi lúc, nhiều người giống như tôi, vẫn đắn đo/do dự khi sử dụng cụm từ “sự kiện” để diễn tả cuộc đổi đời nơi thánh-nhân. Bởi, kinh nghiệm ấy có thể xảy đến với bất cứ ai, ở bất cứ nơi nào đều có thể đuợc. Và xảy đến, là đến với bản thân mình trong quãng dài cuộc đời như từng xảy đến với thánh Phaolô trên đường Đamát khiến ông đã có một đổi đời, rất hiện sinh.

Đề cập vấn đề này, có một số yếu tố bất chợt nảy sinh khiến ta phải tra cứu cho kỹ lưỡng. Chẳng hạn như sách Công Vụ, ta thấy tác giả đề cập đến “chuyển biến” này, những ba lần. Ở đoạn 9, 22 và 26 trong đó có cả một trình thuật rất tuần tự, khúc chiết chỉ nói về sự việc ta truy tìm. Nhưng ở đây, thiết tưởng ta cũng nên tự chế để tập trung vào những điều khả dĩ giúp ta về với nguồn văn nào khác có thể gặp. Và, như dự đoán, có thể thánh Luca cũng đã “miêu-dạng-hoá” truyện kể để thánh-sử có thể diễn tả theo lối hành văn rất thi tứ vẫn thường thấy nơi thánh sử. Xem như thế, đó không phải là Phaolô thuần khiết mà các đấng bậc trong Hội thánh đã gặp ở các chương/đoạn trong Công Vụ như quà tặng hồng ân cho-không/biếu-không để rồi nhanh chóng kết luận là: thánh Phaolô từng bách hại cộng đoàn tín hữu Đạo Chúa ở Giuđêa. Và từ đó, có lập trường cứng ngắc hoặc quan điểm không xác đáng cho lắm nhằm hỗ-trợ luận-cứ lại vẫn bảo: thánh Phaolô có phép của Thượng Tế Giêrusalem được đặc ân đi Đamát săn bắt, gom lại và cầm giữ nhiều tín hữu dân con Đạo Chúa ở đất miền Đamát, xứ Syria. Bản thân, tôi hơi ngờ ngợ tính xác thực của sự việc xảy đến không như chi tiết lịch sử đã diễn bày.

Có một chuyện cần minh định ngay ở đây, là: Thuợng Tế nói ở trên không có thẩm quyền gì ở ngoại vi xứ miền Giuđêa hết. Sự việc càng được xác chứng thực hơn, do bởi lời lẽ của thánh-nhân từng cho thấy rằng ông chẳng khi nào bị tai tiếng chính mình là tay tội-đồ chuyên bắt bớ giam cầm bất cứ một ai thuộc cộng đoàn tín hữu ở Giuđêa, hết. Ngôn ngữ, thánh Phaolô sử dụng là để nói rằng mình cũng là “kẻ bách hại” tựa hồ như lời của các tín hữu từng ăn-năn sám hối nay công nhận lỗi tội “bách hại” chính mình và tự đặt mình ngang hàng với kẻ chuyên bắt bớ/giam cầm con dân của Chúa. Ngôn ngữ khi xưa thánh-nhân sử dụng, cũng tựa hồ lời lẽ ta vẫn có mỗi khi quyết tâm cải hối quyết liệt là thế. Quả thật, đôi khi ta cũng liến thoắng cho rằng: kinh nghiệm mà thánh Phaolô từng trải, vẫn xảy đến với nhiều người/nhiều vị trên lộ-trình Đamát đi bất cứ đâu. Nhưng, ở đây nữa, việc chỉ đích danh chốn miền như thế mà không dựa vào tài liệu đích đáng nào cả, thật ra cũng không phải. Bất cứ một ai từng có cảm nghiệm đều tưởng tượng sự kiện xảy đến với thánh Phaolô khi thánh-nhân hướng về Đamát vào lúc đó khiến ông được Chúa gặp gỡ đánh cho ngã ngựa. Đọc kỹ văn bản Kinh thánh ta tuyệt nhiên không thấy chỗ nào trong Sách Công vụ hoặc trong các thư do thánh Phaolô ghi, cho thấy ông có mặt ở nơi đó, vào lúc ấy. Và cũng chẳng ai gặp thấy chương/đoạn nào lại cứ kể về chuyện thánh Phaolô lên đường đi Đamát bằng ngựa, mà trên thực tế, thì: một người như thánh Phaolô, chẳng khi nào lại có đủ khả năng lữ-hành rong ruổi đó đây trên lưng ngựa, hết. Ngựa ở đây, là ảnh hình được nghệ nhân thời sau này nghĩ ra để làm cho người chiêm ngưỡng tranh và ảnh, cảm thấy vui khi trầm tư ngưỡng mộ. Điều thú vị hơn, là: nếu ta quan sát kỹ thực chất của sự việc có ghi trong văn bản kể trên, đều không thấy nói đến nội dung thị kiến đã xuất-hiện cách nào đó, trên tranh vẽ. Điều đó, chứng tỏ tranh ảnh nghệ thuật chỉ diễn tả tâm tư người họa sĩ khi họ thực hiện bản vẽ, chứ không  hề nắm vững lịch sử xảy ra từ các thế kỷ trước.

Đoạn 9 sách Công Vụ, thánh Luca viết truyện kể theo văn phong/thể loại rất độc đáo, rất đặc biệt của thánh Phaolô theo phong cách truyện “dã sử” về thánh-nhân, thôi. Đoạn 22, tác giả lại để cho thánh Phaolô đến và nói về chuyện này ngay tại đền thờ. Đoạn 26, thánh Luca cũng đã để cho thánh Phaolô nói cho Agrippa và Bernicê biết về các vấn đề như thế. Xem như thế, thì tất cả những gì nói ở Sách Công vụ đều là vai-trò mang tính chất rất kịch thấy ở truyện kể mà thánh Luca thường trích dẫn, rất nhiều lần về sau.

Công Vụ đoạn 9, tạo cho trình-thuật thánh Luca tính chất cũng riêng tây về sự việc Chúa-Phục-Sinh can thiệp vào nội tâm bên trong thánh Phaolô. Đoạn 22, lại đã tạo cho trình-thuật kể về thánh Phaolô bằng lời lẽ qua đó thánh-nhân tự bào chữa cho chính mình ngay tại hiện trường Antônia, tức pháo-đài làm nền cho vụ/việc ở trên hầu nói lên một minh định bảo rằng: thánh Phaolô thực sự đã trung thành với thánh-ý Chúa của người Do thái và thánh-nhân bằng lòng cho người ngoại giáo được gia nhập vào với ơn cứu độ, và như thế không làm đứt-đoạn Giao ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài.          

Thánh Luca cũng để cho nhân vật Phaolô trong trình thuật của mình được nói lên một điều là: mọi người đều thấy được ánh sáng chói chang/đặc biệt như ông đã từng thấy, dù chỉ nghe được tiếng nói vào hôm ấy, thôi. Và, sau khi đã tự bảo vệ cho mình như thế, thánh Phaolô lại đã “nhập thần” đón nhận ơn gọi ngôn sứ phục vụ người Do thái, chứ không chỉ mỗi ơn gọi rất riêng tây của dân Do thái, thôi. Công Vụ đoạn 26, cũng cho thấy thánh Luca giới thiệu nhân vật Phaolô biện hộ chính mình trước Agrippa và Festus, rồi tuyên bố mình là tay Biệt Phái luôn tin tưởng rằng người Do thái hiểu rõ sự Sống lại một cách cũng rành rẽ, đâu kém ai. Một lần nữa, điều kỳ lạ chính-yếu nơi Đức Kitô là Ngài vẫn tiếp tục tuyển chọn Israel làm dân riêng của Ngài, mà thôi.

Ở đây, quả là tôi cũng lệ thuộc khá nhiều vào chương 1 của thư Galát và đôi lúc cũng dựa trên thư Corinthô là thư có những chỗ ghi chú lời tuyên bố rất riêng tây của thánh Phaolô về sự việc này. Luận-cứ chính ở đây lại muốn nói, rằng: thánh Phaolô từng gặp gỡ Đức Kitô ngang qua thị kiến sống động. Và Đức Giêsu, Ngài vẫn sống sót. Chứ, Ngài đâu đã chết và cái chết trên thập giá đâu đã kết thúc đời Ngài bằng một sự kiện tương tự thế. Và, Ngài cũng được chôn cất cẩn thận rồi đã ra đi biền biệt về chốn miền khó biết bằng đầu óc tưởng tượng của con người. Thật sự thì Chúa đang sống rất sinh động –điều này có nghĩa là: Ngài đã “trỗi dậy.” Hoặc, nói theo ngôn ngữ của Đạo Chúa thời đó, thì rõ ràng Đức Giêsu Kitô đã Phục Sinh. Nói thế có nghĩa: với thánh Phaolô là người Do thái, thì việc Chúa sống lại đã bắt đầu, rất thường tình. Chính sự kiện này cũng đã thay đổi toàn bộ thế giới.

“Thật thế, thưa anh em, tôi xin nói để anh em biết: Tin Mừng tôi loan báo không phải do loài người. Vì không ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giêsu Kitô đã mặc khải. Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do-thái: tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa. Trong việc giữ đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông.


Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã kêu gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, cũng chẳng lên Giê-ru-sa-lem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đa-mát. Ba năm sau tôi mới lên Giê-ru-sa-lem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày. Tôi đã không gặp Tông Đồ nào khác ngoài ông Gia-cô-bê, người anh em của Chúa.” 
(Gal 1: 11-19)  

 

Trước đây, thánh Phaolô có nghe nói về Đức Giêsu. Có lẽ thánh-nhân cũng không nghe nhiều về Ngài. Thánh-nhân chưa từng gặp Chúa lần nào, lại chưa bao giờ thấy Ngài bằng mắt thịt phàm trần, cũng chẳng ở loanh quanh đâu đó vào lúc Chúa hoạt động hoặc ông có mặt ở đó hay không, vào những nơi Chúa đặt chân đến giảng rao. Tôi thiết nghĩ, thánh Phaolô từng nghe nhiều về Chúa, nhất thứ là khi Ngài nói về Nước Trời gần kề; và khi đó, hầu hết những người theo chân Chúa đều nghĩ rằng: việc sống lại cùng trỗi dậy đã khởi sự với Chúa-Phục-Sinh. Đáng lý ra, thánh Phaolô cũng nói: “Điều này rõ thật phi lý!” Tức, ta hãy để chuyện ấy qua một bên, cũng chẳng cần suy nghĩ về việc ấy, mà làm gì, lúc này. Theo tôi thì, chính ở giai đoạn này, nhiều người lại cứ nghĩ: thánh Phaolô vẫn là như thế. Nói khác đi, thì sự việc dù có xảy đến trên đường Đamát hoặc nơi nào khác, thánh-nhân vẫn cứ nghe nói có vị nào đó đang làm chuyện lạ kỳ như chấp nhận để cho người ngoại giáo gia nhập cộng đoàn Do thái vì chuyện lạ về Chúa-Sống-lại, ra như thế. Và ông tìm cách không để đấng bậc trưởng thượng ngăn chặn sự việc ấy, ngay tức thì dù phải dùng đến bạo lực, cũng vẫn làm.

Giờ đây, cũng nên xem xét sự thể xảy đến với thánh Phaolô trên đường đi Đamát và coi xem hậu quả của việc ấy thế nào, về sau. Có điều ai cũng hiểu, là: chuyện gì đó đang thực sự xảy đến với thánh Phaolô.

                                                           -------------------

 

Lập trường thánh Phaolô

Những gì xảy đến với thánh Phaolô lâu nay vẫn được mọi người coi đó là mặc khải. Là, hồi hướng trở lại, hoặc ơn gọi, hay sứ vụ. Nhưng, nói thế có ý gì? Nay thì, các cụm từ như thế vẫn đan kết nhau khá chặt, khiến ta có thể dùng cụm từ nào bao hàm cùng một ý nghĩa với sự kiện “hiện ra” nếu chúng mang trọn kinh nghiệm ý nghĩa đánh động mọi người. Thông thường thì, cụm từ “hiện ra” được cộng thêm chất liệu mang tính chủ quan của người dính dự vào đó. “Mặc khải”, là ngôn từ được thánh Phaolô thường hay sử dụng để diễn tả những gì đã xảy đến.

Bên tiếng Hy Lạp, “mặc khải” là cụm từ xuất từ chữ “apocalypsis” có nghĩa: “cánh chung” hay “khải huyền”, để chỉ về thị kiến nói đến những gì xảy ra, vào lúc cuối. Cụm từ “mặc khải” đây là có từ tiểu phẩm bằng tiếng Hy Lạp trong đó thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa đã mặc khải một cách huyền nhiệm về Con của Ngài, cho tôi”. Đây là tuyên ngôn đặc biệt. Tuyên ngôn này, không có nghĩa: thánh-nhân đã “thấy” được việc gì đó bằng mắt thịt phàm trần ở đâu đó. Nhưng ông “thấy” được chuyện đó, xảy đến bên trong ông. Đó là sự thể sâu sắc. Và sự thể này, dẫn về những điều mà một số người gọi bằng cụm từ văn hoa như “hồi hướng trở lại”. Nhưng, chuyện này lại không có nghĩa bảo rằng người nào đó từ phía Do-thái-giáo đã hồi hướng trở về với Đạo Chúa. Đó, cũng không phải là cuộc “trở lại” từ đạo này sang đạo khác, mà đích thực là “Hồi hướng trở lại” nếu ta buộc phải dùng từ ngữ này theo quan niệm thế nào đó có tự bên trong Israel bằng lập trường khác cũng từ bên trong Israel, mà ra.

Thánh Phaolô từng ở vị thế đó cho đến giây phút ông thở hơi cuối cùng; hoặc, cho đến khi ông trỗi dậy theo cung cách rất Phục sinh, để thành người Do thái đích thực, rất hoàn toàn. Thành thử, nói cho cùng thì: “Hồi hướng trở lại” cũng mang ý nghĩa khá lờ mờ, tối um. Bản thân tôi, chẳng khi nào lại muốn sử dụng cụm từ này một cách tùy tiện hết. Và, điều đó còn dẫn chứng từ “ơn gọi”, hoặc lời kêu mời trực tiếp từ Thiên Chúa, để rồi ta sẽ làm được những việc gồm tóm kết quả của một kinh nghiệm về mặc khải, cũng rất mực.

Thánh Phaolô cũng không được nhóm hội/cộng đoàn nào mời gọi “hồi hướng trở lại” hết. Thánh nhân cũng chẳng được cộng đoàn nào ở Antiôkia gia dĩ muốn mời chào. Thánh-nhân lại không được các vị có thẩm quyền từ các giáo hội cho phép làm như thế. Đôi khi thánh-nhân cũng bị cộng đoàn giáo hội ở nhiều nơi xem xét theo dõi nữa. Thành thử, ta có dùng cụm từ “sự kiện” này cũng chẳng sao. Nhưng ơn gọi và sáng kiến này, là lời mời trực tiếp từ Thiên Chúa, Đấng đã nâng nhấc Đức Giêsu để Ngài trỗi dậy từ cõi chết –và chính Thiên Chúa của mọi sự kiện phục-sinh rất thường tình cũng đã làm thế với Đức Giêsu- và nhờ cụm từ mang ý nghĩa rõ như thế, thánh Phaolô đã hiểu rõ sứ mạng của ông, suốt đời, khiến ông phải làm việc gì đó như kết quả kiến tạo ở bên trong lại đã xuất phát từ cảm nghiệm lớn lao kia.

Để diễn tả kinh nghiệm mà thánh-nhân từng trải, đôi lúc ta cũng đọc ở đâu đó đại ý có nói: thánh-nhân bị đánh gục đến độ ông trở nên mù loà. Sách Công Vụ quả cũng nói những câu đại loại mang ý nghĩa như thế. Không chỉ mỗi thế mà thôi, một số vị còn đi xa hơn nữa, vẫn cho rằng: thánh-nhân còn bị điếc đặc nữa là đằng khác. Trong khi đó, thánh-nhân lại nói khác. Ở thư thứ nhất Corinthô đoạn 9 câu 1, thánh nhân ghi:“Tôi đã chẳng thấy Đức Giêsu, là Chúa chúng ta sao?” Thật ra, mắt thánh nhân không bị mù/loà hay khiếm thị gì hết, nhưng trái lại, ông vẫn “thấy” Chúa. Cũng trong thư Côrinthô nói trên, thánh-nhân lại nói: “Người đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào trẻ sinh non.” (1Cr 15: 8). Mù loà và “sinh non” ở đây, có thể và không thể xảy đến ngay lúc đó được hết. Nhưng, ở đây đúng là thị kiến. Có lẽ không phải thị kiến theo kiểu mắt thịt phàm trần vẫn nhìn thấy; nhưng đích thực là thị kiến theo nghĩa chữ, rất rõ. Chính thánh Phaolô có nói ở một đoạn khác, rằng: “Có được đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là được nghe công bố lời của Đức Ki-tô.”(Rm 10: 17). Bằng vào những lời như thế, tôi đoan chắc một điều, là: thánh Phaolô cũng đã qui chiếu những điều mà Đức Kitô mặc-khải cho ông, như đã trích dẫn ở sách Công Vụ.

Nếu thế thì, thánh Phaolô thực sự đã “thấy” và đã “nghe” ai đó nói với ông. “Ai Đó” ở đây đã mặc khải chính Mình Ngài cho thánh-nhân để ông nhận thức cho rõ. “Ai Đó” đây, chính là Đức Kitô-sống-lại. Và thánh Phaolô, bằng vào lý lịch cùng quá khứ của người Do thái từng thông hiểu thần học và sự Sống-Lại theo đúng cách, vẫn thấy thoáng hiện trước mắt ông những điều đã được mặc khải như thế. Thánh Phaolô nhìn vào sự kiện “sống lại/trỗi dậy” rất thường tình ở Đức Giêsu và khi ấy thánh-nhân đã kêu lên: “Chà! Rõ ràng là thế này đây!” Và, đó là thời khắc đặc biệt gặp thấy trong toàn bộ cuộc đời của thánh-nhân.

Có thể nói, thánh Phaolô không mấy thích thú với cái nhìn bằng mắt thịt phàm trần về Đức Chúa-Sống-Lại, hoặc cứ tìm xem nơi xác thể của Chúa-Sống-lại xem sự thể xảy ra như thế nào. Thánh-nhân không thể quan tâm ít đi –để rồi sau đó sẽ lại chẳng biết gì hơn thêm. Khi có người ở Côrinthô hỏi thánh-nhân là: ông có “thấy” thân xác sống lại nó giống thứ gì không? thì ông đáp: “Kìa! Tôi đâu rõ về chuyện đó!” Thánh-nhân có lần cũng nói: “Bạn biết đấy! Khi bạn gieo hạt giống vào lòng đất, nó sẽ trỗi dậy rồi nở rộ thành vụ mùa rất đạt. Cũng thế, những gì tôi biết được, là thế này: khi ta đi vào lòng đất rồi chết đi, như thế là ta cũng trỗi dậy để thành một thứ gì đó khác hẳn. Thứ gì đó, tôi thật không rõ. Đừng hỏi tôi những điều như thế. Đó không là điều khiến ta cần để ý lắm đâu…”

Có gọi đó là “Phục sinh” hay không, thánh Phaolô không xác định ý nghĩa của sự việc ấy như một “phục hồi sinh lực” của xác thể phàm trần –như trọn vẹn một tổng hợp bao gồm nhiều hơn thế. Và, nó hoàn toàn khác trước rất nhiều. Thế nên, việc đối đầu/chạm mặt với Đức Chúa-Sống-Lại quả là đã đem đến cho thánh-nhân một nhận thức rất rõ và một sứ điệp rất hiện thực. Và, ông “thấy” được điều đó cũng như đã từng “nghe” chuyện đó rất thâm sâu. Ông định ra quan điểm lập trường rất riêng tư về sự việc phục-sinh/trỗi dậy là thế đấy.

Quả thật thánh-nhân không “thấy” hình hài/xác thể rất xác phàm của Đức Chúa-Sống-Lại. Ông không thể diễn tả bề mặt thể chất rất bên ngoài, nếu như việc đó không có thật. Ông cảm nghiệm được về một hiện diện mà ông chưa từng biết. Theo cách nào đó, ông biết rất rõ đó chính là Đức Chúa, rất Giêsu.

 

Ở đây nữa, ta nên nhớ: thánh Phaolô chưa từng giáp mặt gặp Đức Giêsu một lần nào và ông cũng chẳng hình tượng được Ngài trông giống ai.

Đây là sự thể về kinh nghiệm quý báu, rất khó đoán. Duy, có điều chắc chắn, là: ông “biết” được rằng Đức Kitô –Đấng đã chết đi, rồi bị treo trên thập giá cho đến chết- Ngài vẫn sống sót. Và, Ngài đang có ở đó với ông. Ta gọi đó là “Phục sinh/trỗi dậy”, nhưng thánh Phaolô không định nghĩa sự việc như cuộc “phục hồi sinh lực” rất thể xác, phàm trần. Đó là tổng thể dồi dào ý nhị hơn thế nhiều. Bằng vào giáp mặt Đức Kitô sinh động, việc ấy đem đến cho ông một sứ điệp. Và, sứ điệp ông đây, là những gì ông được “nghe” và được biết, rất sâu sắc. Và, ông có được quan điểm/lập trường về sự việc này, thật vững chắc.

---------------------

SỰ SỐNG SIÊU PHÀM

Quan điểm này, là thế nào? Đây không là cung cách ta thường nói. Cũng không là những gì từng xác chứng rằng: con người của Đức Giêsu rất có lý và giáo huấn của Chúa, rất đúng thực. Điều đó không chỉ dạy ta mỗi điều, là: những người từng dấn thân theo chân Đức Giêsu cũng rất đúng đắn và thánh Phaolô sẽ sai sót nếu ông chỉ muốn nói về những xác tín của ông vào dạo đó, mà thôi. Điều này không phải để bảo rằng Đức Giêsu nay lại “sống sót”, thêm lần nữa. Chắc chắn là như thế. Và, Ngài chưa từng “chết” đi! Đúng hơn, thánh Phaolô biết rằng: ở nơi Đức Giêsu mà ông gặp, vẫn có Sự Sống (viết Hoa) rất lớn. Lớn lao hơn cả loại hình sinh-động mà ta từng biết đến. Lớn hơn cả sự chết đã khiến Ngài biến mất dạng. Đó là Sự Sống Siêu Phàm gồm tất cả những gì tích cực ở cả hai thứ: ở sự sống theo loại hình của ta đang sống và ở cả sự chết theo cung cách ta sẽ trải nghiệm. Đức Giêsu là Sự Sống Còn rất Siêu Phàm. Và, Ngài đang sống cuộc Sống Siêu Phàm này, cũng đúng nghĩa. Bằng vào sự Sống gồm tóm cả “sự sống động” theo nghĩa thường tình và “cái chết” theo nghĩa cũng rất thường, như mọi lúc.

Như thế có ý nghĩa như thế nào? Có nghĩa là, ta đang nói về cái chết theo nghĩa “giá trị”, chứ không theo nghĩa xác thể, phàm trần. Ý thánh Phaolô nói ở đây, không đề cập đến sự chết theo nghĩa xác thể, phàm trần. Đức Giêsu đã không tỏ cho thánh Phaolô “thấy” được thân xác có hình hài thể chất như thi hài có dấu ấn nơi tay, chân và nương long Ngài, như ta vẫn biết và vẫn tưởng. Đúng hơn, thánh Phaolô trở thành người hiểu và biết Đức Giêsu là Đấng ông từng gặp. Hiểu về cái chết theo nghĩa rất “giá trị”. Những giá trị tỏ cho thấy: người đang chết dần mòn lại viết về người nào đó có đặc tính và sắc thái nhân vị để quyết được rằng người ấy có thể không “có” thật, trừ phi họ đang hiện diện ở bên trong và “có” thật qua kinh nghiệm mình từng trải về sự chết. Tôi gọi đây là “giá trị”. Các giá trị như thế đã “có” nơi Đức Giêsu, khi thánh Phaolô gặp Ngài. Giá trị ấy, được viết tận bên trong và sẽ lưu lại như đã bao gồm Sự Sống Siêu Phàm mới của Ngài, mãi mãi.

Điều này dẫn đến ý niệm hoàn toàn khác biệt về khổ đau.  Nó thay đổi ý tưởng thâm sâu thánh Phaolô từng đề cập về vấn đề “Trời”. “Trời” đây, không là chốn miền ở đó mọi người kết thúc cuộc sống bằng vào những thứ mà họ muốn mang theo; để rồi, cũng quên mất chuyện đó và chẳng buồn nhớ đến nó. “Trời” đây, không là bệnh lú lẫn/mất trí nhớ rất miên trường, thứ bệnh mà tất cả chúng ta đây chưa từng kinh qua, nên không rõ. “Trời” đây, thực sự mang ý nghĩa rất trái ngược. “Trời” vẫn lưu lại ở sự việc tràn đầy ý nghĩa cũng rất thực của mọi sự, khiến ta chịu đựng được khổ đau trong toàn bộ ý nghĩa của sự chết dần chết mòn. Đó là tư tưởng lớn, rất vĩ đại.

Ta thừa hiểu cung cách mà người Công giáo chúng ta lâu nay vẫn quan niệm và nhận thức về sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể. Điều, mà người Công giáo chúng ta thực sự muốn bày tỏ, là: ta không quen tin rằng: Đức Giêsu vẫn hiện diện rất thực ở nơi khác. Vâng. Đây không là cung cách tư duy của riêng thánh Phaolô, mà thôi. Điều, mà thánh-nhân muốn nói lên, đó là: hiện diện đích thực của Đức-Chúa-sống-lại ở khắp nơi và cả nơi nào hiện hữu mọi khổ đau, sầu buồn trong vũ trụ. Đức Giêsu hoạt động theo cung cách mà Đấng thánh sống động gồm tóm mọi sự đặt để trong hiện diện rất trỗi dậy, nơi Ngài. Theo tôi, ta sẽ hiểu được sự việc xảy đến rất rõ, nếu thánh Phaolô từng có ngựa để cỡi, thì có lẽ ông cũng đã ngã ngửa khỏi đó, vào lúc ấy. Và, như thế sẽ đảo ngược tất cả những gì trước đây ông thiết lập.

-----------

Đấng chết đi trên thập giá,

đã trỗi dậy.

 

Sự Sống Siêu Phàm của Đức Chúa Sống Lại đã tổng hợp mọi giá trị như thế. Và, các giá trị này thuộc về sự Sống Siêu Phàm. Tất cả đan kết với nhau, để nên một. Một, trong Đức Giêsu Sống lại rất đích thực.

Đó là lý do khiến thánh Phaolô diễn tả hai cụm-từ thành một, nơi Đức Giêsu. Thánh-nhân gọi Ngài là thế, bằng tiếng Hy Lạp qua cụm từ “Christos estauromenos”. Mỗi khi thánh Phaolô sử dụng cụm từ “Christos” này, thánh-nhân đều muốn nói đến Đức-Chúa-Sống-lại. Cụm từ “Estauromenos” tiếng Hy Lạp, là phân-từ có vĩ ngữ “stauros” theo sát bên mình mang ý nghĩa của một thập giá. Theo văn phạm, đó là phân-từ hiện-tại đang diễn tiến. Điều này có ý diễn tả Đức-Chúa-Phục-Sinh đang ở vào trạng thái tiếp tục sự Sống gồm các giá trị đặt nơi Ngài bằng kinh nghiệm chết trên thập giá. Có lẽ, cũng nên đặt gạch nối (-) cho cụm từ dài giòng này bằng danh xưng Đấng-Sống-Lại-đã-từng-chết-trên-thập-giá. Ngài đích thực là Đấng đã gặp gỡ thánh Phaolô trên đường Đamát. Cuộc gặp ấy rất thoáng chốc, khiến thánh Phaolô thay đổi tất cả những gì ông suy nghĩ về sự sống vào dạo trước; và cả đến những gì ông suy nghĩ về cái chết từng thể hiện.                                       

Tôi còn nhớ có lần từng giảng một bài trong thánh lễ nọ. Hình như hôm đó là ngày lễ Mẹ Về Trời. Lúc ấy tôi cứ suy nghĩ: nếu Đức Mẹ đi vào cuộc phục sinh/trỗi dậy, như tín điều ta vẫn quyết, thì bà con ta có nghĩ là: các nếp nhăn mà Đức Mẹ đã có trong cuộc sống thế trần vẫn còn đó trong thân xác của Mẹ trỗi dậy từ cõi chết không? Câu trả lời mà ai cũng nên có, là: “Có”. Đúng thế. Các nếp nhăn nơi Đức Mẹ, là do Mẹ vốn lo âu chăm sóc cho Con của Mẹ có thể cũng sẽ là một thứ để san sẻ việc Chúa chịu đóng đinh vào thập giá, có đúng không? Và các nếp nhăn ấy, sẽ không mờ nhạt được. Các vết nhăn, theo cung cách nào đó, vẫn còn lưu lại nơi giá trị đặt trong con người cụ thể của Đức Mẹ. Con người đây, tôi không có ý nói về xác thể, hình hài, hoặc ảnh tượng –điều này cũng rất dễ làm cho mọi người cười khẩy- nhưng nơi những gì được viết vẫn có đặc trưng lưu lại mãi mãi và nhất định là thế. Và, như mọi người đều biết, đó là ý niệm rất đặc trưng, cũng không là những gì nằm trong óc tưởng tượng của người Công giáo chúng ta, bởi khi nói chữ “phục sinh/trỗi dậy” thì người đi Đạo thường hay nghĩ đến các siêu sao hoặc nhân vật siêu phàm, toàn thiện, rất đẹp đẽ như khi ta kể về các “Hoa khôi Vũ trụ”, hoặc những gì tuyệt vời đến độ thế.

Ở đây, tôi chỉ muốn nói rằng: ta nên tách bạch khỏi lề thói phản ảnh sự tha-hoá như chàng Narcisse trong truyện thần thoại, mà theo tôi, đó không là niềm tin thực sự mà chỉ là những chứng loạn thần kinh, thôi. Thật tình thì, tôi cũng tìm cách thử tạo ra cái-gọi-là cơn “sốc” mà thánh Phaolô hẳn đã gặp phải khi sự việc “phục sinh/trỗi dậy” quay về phía ông và ông nhận ra được sự việc ấy. Dù, thánh-nhân có nghĩ đến chuyện “không thể thực hiện được”, ta cũng đừng nên hiểu là ông đã chuẩn bị để Đức-Chúa-Phục-sinh đã “hiện ra” với ông đi chăng nữa, thì ông cũng không kỳ vọng là Ngài sẽ làm như thế. Có lẽ, ông kỳ vọng vào chuyện ngược lại. Đây, có thể coi như phương pháp trị liệu tính tự-mãn-nguyện với hình hài/xác thể đại loại như Narcisse vẫn có thể xảy đến với những ai muốn làm thế. Và, điều này lại đã lay chuyển tính khí có thể có như kiểu Narcisse ở thánh-nhân, tức rời khỏi hiện hữu. Đây, còn là khí-phách thể-hiện một tình tiết rất hệ trọng.

Vậy thì, những gì xảy đến vào dịp Phục Sinh rõ ràng là Đức Kitô đã trỗi-dậy. Ở đây, tôi dùng danh xưng “Đức Kitô” theo nghĩa khác hẳn bản dịch Do thái có cụm từ “Mêsia”, tức Đấng Thiên Sai. Theo tôi, thánh Phaolô cũng đã làm thế. Tức, ông cũng nghĩ rằng: Đức Giêsu ngưng không còn là Đấng Mêsia trong một thời gian rất ngắn trước khi Ngài chết đi và sống lại. Tôi sử dụng danh xưng “Đức Kitô” như “mật khẩu” thấy có trong truyền thống của người Đạo Chúa vẫn tin vào Đức Giêsu. Tin rằng: một khi đã phục-sinh/trỗi dậy rồi, Đức Giêsu lại trở thành nơi chốn hoặc khu vực liên hệ với tất cả chúng ta không như hồi-ức hoặc cảm-hứng. Nhưng Ngài đã trở thành đất miền cho người Đạo Chúa ngụ cư, thật thoải mái. Ngài là Đấng vẫn cư ngụ ở nơi ta. Và, trong ta. Ngài vẫn là con người như tự bao giờ, nhưng rồi ra sẽ không còn là cá thể/nhân vật như trước đây Ngài từng là. Ngài thực thi nhân cách của riêng Ngài trong thần hồn và xác thể của mọi người, và trong cả cuộc sống có sẻ san với ta, như tín hữu rất tin vào Ngài.

Phục sinh/trỗi dậy đã làm Ngài tăng trưởng trong ta và làm cho tất cả chúng ta được tăng trưởng ở nơi Ngài là Đấng đã phục sinh/trỗi dậy mà hướng về Cha. Không hề có xác-thể chết chóc rất khô cứng dùng để ấn định một tưởng nhớ về người nào đó đã đi vào quá khứ. Mộ phần người chết, chỉ là nơi tạm cư được thuê mướn có đá tảng dùng làm nắp đậy. Chỉ có sự sống là khác biệt, không xác định được và cũng không hạn chế lằn ranh để ta có thể “liên hệ” với Ngài trong Đức Kitô. Đức “Kitô” đây luôn có ý nghĩa đầy đặn và hiện đại nhất. Ngài tuỳ thuộc bất cứ hiện tại nào đang hiện hữu. Do có thiếu hụt vì sự chết, ta không thể “thấy” được sự việc này sẽ ra sao: nên ta cần đến cung-cách mới để hiểu biết, và có thể là: sau khi chết đi, ta mới “thấy” được thế. Chuyện này, không hoàn tất sự hội tụ/kết hợp, nhưng khiến cho việc ấy có thể “thấy” được. Chỉ khi nào điều ấy được “thấy” thì mục đích Thiên Chúa tạo dựng mọi vật, mới diễn bày cách trọn vẹn và đi vào hiện thực.

Trong khoảnh khắc rất đặc biệt, việc Đức Giêsu biến đổi hình thể thành Đức Kitô, toàn bộ việc “thấy được” như thế mới hiện hữu nơi Đức Giêsu. Từ khoảnh khắc đó, Ngài mới là Đức Kitô sống động; và, theo đúng nghĩa, mới thành hiện thực trong toàn bộ vũ trụ, khiến cho sự việc phục sinh/trỗi dậy được “thấy” nhiều hơn. Nhưng nước mắt và cơn hấp hối cũng như mồ hôi máu của Ngài, đã để lại những dấu vết khó tẩy xoá nơi Ngài và trên hình hài “đất-miền Kitô” ấy. Cuộc sống rất mới của Ngài được đánh dấu bằng sự sống Ngài cho đi. Đó là lý do khiến Ngài có thể và rất thực tế để đến với ta và hỗ trợ ta.

Trong cuộc sống rất mới của Ngài, việc Chúa chịu đóng đinh vào thập giá cách mãn đời, để lại dấu ấn trên ta –để ta vào được sự Phục sinh của chính ta.

Bao gồm và bao gộp

Thánh Phaolô cũng từng nghĩ về vấn đề này, và nay ta hãy tìm hiểu xem tiêu đề ấy có nghĩa gì? Theo tôi nghĩ, thánh nhân cũng đã để ra một số năm trời, nếu không muốn nói là: suốt quãng đời còn lại, để tư-duy.

  1. Nói thế có nghĩa: sự chết không còn là giới hạn hoặc lằn ranh phân cách giữa các quan điểm khác nhau nữa. Chuyện đó, đã gạt bỏ sang một bên dấu chấm hết/đứt đoạn khỏi mọi chấm-hết-của-sự-chết. Và tôi nghĩ, nó cũng loại bỏ nỗi niềm hãi sợ mà ta thường e ngại. Bởi, ta thường nghĩ: nó là dấu chấm hết/dứt đoạn mọi sự. Nhận định như thế rồi, ta sẽ thấy thánh Phaolô nhận ra rằng: sự Sống Siêu Phàm của Chúa đã làm thế đối với sự chết. Sự Sống Siêu Phàm, còn làm thế với các lằn ranh hạn chế khác nữa.

Xem thế thì, từ nay, nhờ Đức Chúa-chịu-đóng-đinh-vào-thập-giá-và-đã-sống-lại, sẽ không còn luận điểm nào mâu thuẫn hoặc đối nghịch mọi sự tựa các nhị-nguyên đối chọi, như: trắng/đen, nô lệ/tự do, dân ngoại/Do thái, nam/nữ. Mọi đối chọi theo kiểu nhị-nguyên nay không còn mang tính quyết định nữa. Bởi, có thứ gì đó vượt hẳn ở bên trên hết mọi thứ. Nhưng, vượt như thế không có nghĩa là: có nhượng bộ nào đó ở giữa chúng. Tất cả, đều mở ngỏ. Mọi thứ và mọi nguời đều gộp chung vào làm một. Và dĩ nhiên, đây là lời mời gọi hãy mặc lấy cho mình một kiểu sống chính trị, rất khác biệt.

  1. Thánh Phaolô tiếp tục nhận ra rằng: không gian và thời gian chỉ là mốc điểm hạn chế, thế thôi. Và cuối cùng, thánh nhân cũng đã hiểu, rằng: Đấng-chịu-đóng-đinh-trên-thập-giá-và-đã-sống-lại không hề bị ràng buộc bởi không-gian và thời gian theo cung cách giống như ta và tất cả mọi loài đều theo hướng nhượng bộ sự chết. Chúa có mặt trong mọi cảnh huống trong đó có thời gian và không gian là yếu tố luôn bao gộp, nhưng Ngài chẳng bao giờ bị yếu tố đó hạn-chế hoặc ràng-buộc, mà chỉ là sự bao gộp trong Sự Sống Siêu Phàm rất mới của Ngài thôi. Và, Ngài có mặt nơi không gian và thời gian bằng một hiện diện mới và theo cung cách giống mọi thứ và mọi người. Chúa không chỉ hiện diện trên mỗi đường Đa Mát hoặc con đường nào khác. Mà, Ngài sống bao gộp trong vũ trụ/vạn vật và Ngài biến đổi tất cả để nó trở thành cảnh huống mới, tạo dựng mới. Đồng thời, Ngài cũng biến tất cả mọi thứ thành vũ trụ/vạn vật có tâm điểm tập trung nơi Ngài.
  1. Thánh Phaolô còn tiến xa hơn và cuối cùng đạt nhận thức rất rõ, là: có thứ năng lượng chủ lực nằm ở sự hiện diện của Đức Chúa Phục Sinh ngõ hầu Ngài phá bỏ mọi khó khăn ta vẫn gặp, để ta coi đó như kết cuộc của một đối chọi nhị-nguyên hầu giúp ta được sống chung và sống cùng với nó. Thánh Phaolô gọi đó là “uy lực” của sự trỗi dậy, ở trong đó và ngang qua đó, ta có khả năng thăng-hoa mọi hạn chế, bất kể nó có là đối nghịch hoặc đối chọi nào không, ta vẫn sống hùng, sống mạnh theo cung cách rất “trỗi dậy”. Mọi tính cách bao gồm và bao gộp ở mức độ cao, đã dứt bỏ tất cả những gì không gồm tóm hoặc bao gộp những thành phần ở dưới thấp.

Xem thế thì, những gì làm mốc điểm để ta có thể tập trung nhấn mạnh về sự khác biệt vẫn có nơi ta và cả nơi cao sang/quyền quí hoặc bất cứ nơi nào khác. Sự thể này, cũng không hẳn là tuyệt đối. Thế nên, thánh Phaolô lại tiến đến một động thái khác biệt, là: chỉ trích dân con Israel mình vì họ cũng làm những chuyện ngược ngạo tựa hồ như thế.   

Bằng vào Giao ước ký kết với dân Ngài, Chúa từng đòi hỏi con dân Do thái phải sống mẫu mực như dân con được chọn, để rồi Ngài sẽ cho mọi người biết là Ngài muốn họ sống ra sao? Hành xử thế nào? Tuy nhiên, họ đã khoá trái cửa lại cốt để sở hữu các đặc trưng/đặc lợi cho riêng mình, rồi sẽ loại bỏ người ngoại đạo ra khỏi cảnh tình bao gồm và bao gộp ta vẫn quan niệm. Thánh Phaolô lại cũng quan niệm rằng: luật Torah của Do thái, như tục “cắt bì” và thói lệ ăn uống hoặc các tập tục khác cũng tốt lành ngõ hầu duy trì thứ ánh sáng le lói của nến đèn cả vào khi mặt trời đã bừng rạng. Trút bỏ tiền tài/của cải hoặc tài sản tư riêng để rồi dồn hết cho tục lệ sùng bái các ngẫu tượng, rốt cục chỉ là động thái của người thua cuộc/bại trận hoặc mất mát này khác họ vẫn làm.

Trên thực tế, thánh Phaolô gọi sự việc như thế là “hành thiện” và thánh nhân còn thêm: chỉ có niềm tin vào Chúa-Sống-Lại mới giúp ta đến với mọi sự và mọi người. Ở mọi nơi. “Tin” ở đây, không có nghĩa bảo rằng: mình có khả năng chứng tỏ là: Đức Chúa Phục Sinh đang đi vào hiện hữu để bao gộp bản chất của thế trần theo cung cách tư riêng, mật thiết của Ngài. Nói thế, tức bảo rằng: thánh nhân đã nhận ra là: Đức Kitô không chỉ thể hiện có mỗi thế, mà Ngài còn làm nhiều hơn thế, nữa. Nói cách khác, tin là đặt hết niềm tin tưởng vào sự thể như thế hơn bất cứ thứ gì khác.

Thánh Phaolô lại đã quyết tâm giúp cộng đoàn mình hiểu rằng: là con Chúa, ta phải sống bao gộp hết mọi sự vào với mình, theo cung cách trỗi dậy, tức: ở trong và ở với Đức Kitô. Ở trong, không là sống kinh nghiệm thăng-hoa linh-đạo thôi, nhưng là theo loại hình như doanh thương/giao dịch tựa hồ Đức Chúa Phục Sinh từng làm thế. Làm thế, tức theo thể thức có năng lực phàm trần để trở thành đặc trưng/đặc lợi khác biệt, cho mọi người. Từ đó, ta vượt xa mọi sự và tặng cho đám đối lập một lời cuối để họ có thể đi vào với hiệp thông, trong Chúa Phục Sinh. Thánh Phaolô lại vẫn nghĩ: bản thân ông cũng nên minh định lại thế giới phàm trần, tức thế giới có chính trị mới, thay cho nền chính trị cũ/xưa, nay lỗi thời.

Đến đây, cũng nên nói thêm đôi chút về cộng đoàn thời đó đã và đang đích thực tin vào chuyện này, tức cộng đoàn thời tiên khởi không còn chỗ cho người bảo trợ, cho thân chủ hoặc giới trung gian giùm giúp. Bởi, ai cũng có khả năng tiếp cận Đức Chúa Phục Sinh để có được mọi thứ, hầu tiến vào cuộc sống của chính mình. Cộng đoàn dân Chúa không cần đến các vị trung gian mới gặp được Chúa. Bởi, các vị thật ra chẳng giúp được gì, là bao lăm. Thật ra thì, cả đến việc quan niệm rằng: các vị nhiều lúc cũng gây cản trở khiến cộng đoàn hội thánh khó mà đạt được ý nghĩa phục sinh/trỗi dậy, là đằng khác. Các vị tuy là cộng đoàn cởi mở, dễ tiếp cận, nhưng các thánh nay phải trở nên bao gộp hết mọi người mới đi đúng đường lối do thánh nhân thành lập. Theo tôi nghĩ, thánh Phaolô chưa bao giờ suy nghĩ như thế. Và, cả người La Mã và Do thái cũng không suy nghĩ như vậy. Chính vì thế, thánh-nhân mới nhận ra là “bao gồm và bao gộp” là tên gọi mới của sự việc tựa hồ trò chơi lý thú ở trong Đạo.

Thật ra, theo thiển ý, thánh Phaolô cũng đã trải qua kinh nghiệm lớn lao là thế. Và tôi nghĩ: nếu mình tự thúc bách để tiến xa hơn, sẽ thấy rằng: rõ ràng là đã có sự bao gồm và bao gộp nơi kinh nghiệm của thánh Phaolô qua đường hướng và hệ thống cổ xưa như thắp sáng nến/đèn le lói cả vào khi mặt trời đã ló rạng. Dĩ nhiên, các ngài làm thế cũng có cái lợi là: khi hữu sự, sẽ thấy mình không còn rơi vào tăm tối, nhưng đã có ánh sáng của mặt trời, trỗi dậy rồi. Vả lại, nếu cứ duy trì động thái như cũ, rồi lại bảo: tương lai mai ngày, mình cũng làm thế, tức: sẽ lại gia tăng khuynh hướng chốc chốc lại quay về với ngẫu tượng, do bởi niềm tin của mình cuối cùng cũng bị thứ gì đó lôi kéo vào chốn miền ở dưới thấp. Nói cách khác, việc này nào khác gì động thái của người ngoại. Và, cũng không khác hành xử của người Do thái khi xưa vẫn làm ở hội đường, tức: có hành xử vẫn khư khư với tục nguyện cầu cũ kỹ/lỗi thời khác nào động thái của Hoàng đế Augustus quyết để cung cách phàm trần tiến sâu vào đường lối phụng tự ở đền thờ nơi có ảnh tượng của thần-hoàng đế vẫn trụ trì ở nơi đó. Xem thế, thì: mọi thứ chừng như cũng đã sụp đổ. Và, mọi sự nay lại trở về với chốn thân quen, như mọi người từng kinh nghiệm.

Đành rằng, thánh Phaolô chẳng bỏ nhiều thời gian mới nhận ra được rằng: điều hệ trọng đối với thánh-nhân quyết tỏ cho mọi người thấy vấn đề ở đây, chính là tên gọi mới của loại trò chơi có niềm tin dính líu ở trong đó. Ở đây, tôi dùng động từ “tỏ cho thấy” thay vì “nói cho nghe”, là bởi: ta có thể nói cho các vị ấy biết và coi đó như thành phần của sự việc giảng rao/truyền đạt, mà là tỏ cho mọi người thấy rằng: như thế mới có tác dụng nhiều hơn là chỉ nói suông. Và, thánh Phaolô sẽ lại cho các vị thấy được điều đó bằng việc thiết lập các cộng đoàn mới, ở các nơi. Cộng đoàn mới, bao gồm mỗi người và bao gộp hết mọi người. Bao gồm và bao gộp tất cả các cộng đoàn khác, không đặt nặng lên chữ “nếu” nhưng vẫn tuân theo qui định của cuộc chơi, để mọi người có thể lưu lại quanh quẩn ở trong đó, bằng không sẽ bị gạt ra ngoài. Đặc biệt có điều là: nếu ta muốn dân con Israel trở nên thành phần của “trò chơi” mới này, thì việc ấy tùy thuộc cũng khá nhiều vào việc chuẩn bị để nó xảy đến, cho tốt đẹp.

Thánh Phaolô hồi hướng trở về

 

Nếu đây, là ngôn từ thích hợp với tâm trạng của thánh nhân lúc đó, thì nó vẫn không bao gộp ngôn ngữ tâm tình của cá nhân ai, mà chỉ là ngôn từ hỗ trợ cho cơ cấu xã hội, thôi. Các văn hoá khác nhau đều có đường lối khác biệt hầu dựng xây chính con người mình.

Thánh Phaolô không là thành quả của một nền văn hoá chuyên chiếu về nội tâm như bà con bên trời Tây thường vẫn nghĩ –và thánh-nhân cũng chẳng là mẫu mã của những gì tựa như thế. Với thế giới cổ xưa, người thụ hưởng quà tặng ngôn ngữ nội tại lại phải trao trả cho chủ, quà tặng nào có giá trị ngang ngửa hoặc hơn hẳn, trong khi người hưởng bảo trợ/giùm giúp từ các quan thày lại không có khả năng làm được việc ấy, nên đổi lại, họ mới phải đáp ứng bằng tình thuỷ chung và lòng danh dự vốn dĩ vẫn dành cho họ.

Thần-linh thánh-hoá, là quan-thày chủ-quản của đạo và là việc đền đáp ân huệ mà dân con trong đạo tỏ lòng với vị thần của mình ở trên cao, vẫn được gọi bằng tên thông thường là “tôn giáo”. Thần-linh chủ quản tuyển mộ dân con của các ngài. Và, ứng đáp của dân con trong tôn giáo, là lời nguyện cầu, tụng ca, tung hô, cốt để gia nhập vào nơi đó. Thánh Phaolô nhận đón thị kiến vĩ đại như việc tốt lành/lành thánh. Và, con dân cộng đoàn do thánh-nhân lập, lại đã ứng đáp theo cung cách “sứ vụ đến với dân ngoại”. Thánh-nhân được coi như vị tổng quản tài sản của Chúa. Và, đường lối mà thánh-nhân thực hiện chỉ cốt làm vinh danh/chúc tụng Chúa; việc này đòi mọi người trong cộng đoàn của thánh-nhân phải biết sửa sang bằng chính ánh sáng do Đức Kitô mặc-khải. Có thế, thánh-nhân mới hiểu được quan hệ mật thiết giữa Thiên Chúa và những người không là Do thái. Quan thày của thánh-nhân vẫn đòi hỏi một sự gì đó rất mới và cũng khác. Thế nên, theo tôi nghĩ, ta cũng ngay thẳng đủ để có thể sử dụng cụm từ “hồi hướng trở về” theo nghĩa được đề cập ở đây. Thật ra, theo tôi thì đây chỉ là cung cách chống chọi người theo Do-thái-giáo một cách chầm chậm/tiệm tiến, nên mới để cho ta được phép sử dụng cụm từ “hồi hướng trở về”; bởi, chừng như người trong cộng-đoàn Đạo Chúa của ta không ưa thích các vị theo Do-thái-giáo nên mới khiến thánh-nhân “hồi hướng” bỏ Do thái-giáo mà trở về với Đạo Chúa. Thánh nhân luôn luôn là người của Do-thái-giáo; và, là người theo Do-thái-giáo rất tốt lành, thánh thiện.

Tác giả Murphy O’Connor thì khác, ông vẫn không nghĩ rằng: thánh Phaolô đã thấy vui khi mang trong người các ý niệm triết lý. Thánh-nhân đã bỏ lại mọi thứ rác-rưởi này nọ, bỏ lại cho Apôlô, là đồ đệ. Thánh-nhân là người duy nhất theo lối mòn sỏi đá giống như thế, nhưng theo cách khác. Lối mòn sỏi đá, đã chứng tỏ rằng: thánh-nhân là nhà tổ-chức sắp đặt mọi thứ cho cộng đoàn. Thánh-nhân có lần từng nói: “Hãy đi mà sống như thế!” Và, ông là người thực hiện điều mình từng khích lệ những người chưa biết chuyện như thế. Nhưng về lý thuyết, ông không bỏ nhiều thì giờ cho việc đó, hoặc nếu có, thì cũng chỉ là trục trặc, ngoại lệ. Ngôn từ rời khỏi miệng, lại cũng trượt sẩy và có thể là: thánh-nhân cũng không cùng một quyết tâm chỉ 10 phút sau đó. Thế nên, ta vẫn bị bế tắc khi tìm hiểu về ý-lực đúng đắn của thánh-nhân, như các nhà chú giải từng mắc phải. Và, ta thường nhớ lời của thánh nhân nói cũng nhiều, nên cuối cùng ta sử dụng ông như một hệ thống khả dĩ hỗ trợ cho yếu đuối của mình, khi gặp đòi hỏi phải sống hiền lành/thánh thiện và vẫn dùng ông làm mẫu mực. Ngược lại, thánh-nhân chẳng bao giờ có được tính chất ấy. Bởi, ông luôn chống đối những sự việc như thế.

Thật ra, nhiều người Do thái lại coi thánh Phaolô như người “bội giáo” đến từ Do-thái-giáo. Tôi thì không nghĩ thế. Tác giả Max Scheler có lần nói: người “bội giáo” không chấp nhận xác tín nào mới, đến với họ và cho họ. Nhưng, lại có hành xử như một trả thù/trả đũa cho hành-vi linh-đạo của thánh-nhân. Thật ra, thánh-nhân không giống những người như thế.

Đó là đặc trưng/đặc điểm thấy được nơi thánh Phaolô. Và, đó cũng là kết quả của cảm nghiệm phát tiết nơi ông, trên đường Đamát. Thánh Phaolô thừa biết rằng: Đức Chúa-chịu-chết-trên-thập-giá-và-đã-sống-lại là giải đáp cho tất cả các điều này. Thánh-nhân còn dư biết, là: Sự Sống vượt quá mọi thứ méo-mó của sự thật. Thánh-nhân lại cũng biết: có một thực tại năng nổ ở vũ trụ khả dĩ làm biến chất mọi đế quốc và các quan thày của họ. Điều này mang lại một loại hình khác của sự công-chính và an-lạc, cũng rất khác, miễn là chúng dân hiểu được chuyện đó. Thành thử, thánh Phaolô đã nhận ra: đó là ơn gọi. Là, sứ vụ ra đi để nói cho mọi người biết sự thật về Chúa đang hiện diện ở mọi nơi và mọi lúc. Và, sở dĩ thánh-nhân tập họp dân con mọi người thành nhóm nhỏ, là muốn cho họ sống theo lề lối chính-trị khác hẳn, ngõ hầu có thể bao gộp và làm biến chất tính phổ-cập của đế quốc.

Thành thử, việc này thực sự đã đến ngang qua thánh-nhân. Và, theo tôi, sự việc đến như đỉnh cao không ngờ trước. Đến, để cho thấy sự việc về Do-thái-giáo có nghĩa gì? Hành xử ra sao? Và, thánh-nhân lại vẫn nghĩ: sống đích thực điều này, thành-viên cộng-đoàn sẽ là người Do-thái rất đích thực. Đó là cung cách giúp thánh-nhân “thấy” được Đức Kitô sống lại. Và, danh hiệu “Christos estauromenos” như thế nghĩa là: Do-thái đích thực. Đức Giêsu không để mất tính-chất rất “Do thái” mà Ngài vẫn có, như chủ nghĩa dân ngoại mang tính sắc tộc đã chủ trương. Và từ đó, ta lại sẽ bị đẩy đưa vào chung cuộc. Đây, chính là ý nghĩa cánh chung của Israel, qua sự thể là: ta đã gia nhập vào sự sống lại của Đức Giêsu Kitô, rất Do thái. Và, thánh Phaolô cũng không hề để mất tính chất Do thái, như thế. Chính chúng ta chả bao giờ mang tính chất Do-thái của thời trước, cũng không là người ngoại giáo mang tính sắc tộc, nhưng bằng cách nào đó, ta cũng bị đẩy đưa để rồi được dẫn vào với chung cuộc, theo nghĩa cánh chung của Do thái, bằng cách tham dự vào sự sống lại của Đức Giêsu, rất Do thái.

Đúng thế. Có lẽ ở đây tôi nói hơi nhanh và hơi nhiều, nhưng như thế cũng chỉ mới nói một phần nào như dự tính, bởi theo tôi, thì thánh Phaolô cũng bị đánh gục quá nhanh và quá mạnh trên đường thánh-nhân trực chỉ Đamát. Và tôi nghĩ, thánh-nhân đã để hết thời gian còn lại của đời mình mà tìm cách đánh bật ý nghĩa của sự bao gồm và bao gộp, nói ở trên. Tôi không nghĩ là thánh-nhân đã nói nhiều về quan niệm thần học của mình ở nơi nào khác, hơn ở đây. Đây là điểm khởi đầu, nhưng lại gồm tóm hầu như trọn vẹn mọi ý nghĩa trong đó. Thánh-nhân từng tỏ cho thấy ý nghĩa của sự bao gồm và bao gộp cũng như tuyến song hành từng mang đến cùng một ý nghĩa. Và, thánh-nhân cũng đã nói lên điều này bằng nhiều cách, ở nhiều nơi. Bằng cách này hay cách khác, thánh Phaolô đều đánh bật ý niệm cho thấy điều đó rất có nghĩa. Nhưng ở đây, tôi không nghĩ: thánh-nhân lại có ý tưởng mới nào khác như thế. Có thể, đó cũng chỉ là một hoặc hai ý tưởng gọn nhỏ, cuối đời ông, những tựu trung thì thực chất tư tưởng của ông vẫn ở đó. Điều này đặt ông ở vào vị thế có lập trường riêng tư, vào môi trường cũng tư riêng, chỉ có một. Tức, lập trường mà ông không hy vọng rằng mình sẽ đạt được. Thánh nhân không trở thành loại người như trước, rất cũ xưa.

-----------------

Chuyện bên lề  

Phải chăng đây là nỗi niềm khổ đau của thánh-nhân? Có lẽ cũng thế thật. Và, có lẽ đây là hình thức khổ đau/âu sầu, cũng rất mới. Nói âu sầu/khổ đau là bởi: cung cách bao gộp cả sự sống lại đã cùng với thánh-nhân đi vào hiện hữu; và điều này còn có nghĩa: mọi âu sầu/khổ đau ở thánh-nhân cũng đều “ác tính” cũng không kém, nhưng không hề trở thành chuyện không thể giải quyết được. Bởi, sự việc này luôn bao gộp tính chất rất phục sinh/ trỗi dậy. Đó là kinh nghiệm mới của việc bao gồm và bao gộp rất đích thực. Theo tôi, thì khía cạnh chính-trị của nó mới quan trọng. Giá trị của chính kiến rất ngự-trị của niềm tin vào cuộc sống đích thực, vẫn là những gì mà hệ thống chính-trị của đế quốc La Mã từng làm cho những người bé nhỏ như thể đá vào người họ, loại trừ họ, làm cho họ thêm khổ đau, âu sầu, buồn bực. Và, ta có thể túm bắt bất cứ khổ đau/âu sầu nào giống như thế, rồi thăng-hoa/bao gộp chúng vào với tính chất tích cực mà người La Mã khi xưa từng cất bỏ.

Cuối cùng thì, đó là thất bại ê chề của hệ thống độc tài toàn trị mà chẳng cần tốn viên đạn nào. Đây chính là ấn bản mới của chính trị, nếu ta còn có thể gọi đó là hệ thống chính trị được. Đó, là “chính trị” mở, tức ta có thể đến được với nhau. Là, tính công dân trong sự thể rất trỗi dậy mà mọi người vẫn bị cơ chế độc tài bức bách, đến phẫn uất. Và, giá trị chính trị của nó lại cũng như sự việc khởi đầu từ khởi thủy, vẫn xảy đến với thánh Phaolô vào buổi rạng đông cuộc đời. Tôi không nghĩ rằng: thánh Phaolô từng muốn viết lên bộ thần học nào về Chúa Sống Lại, hết. Nhưng, thánh-nhân vẫn muốn ra khỏi nơi đó để thực hiện việc sống lại như mình chủ trương. Tôi mừng vì thánh-nhân là loại người như thế. Nhưng đấy lại là sự việc khác, từng tạo ra tính chất rất nhân-bản làm đặc trưng/đặc biệt, của riêng ông.

Điều mà thánh-nhân nhận thức về sự việc sống lại hoặc trỗi dậy, không là khoảnh khắc, chỉ có thế. Sống lại và trỗi dậy, không là thời điểm xảy đến vào đúng ngày Chúa Nhật rất Phục Sinh. Mà là, tiến trình dài cả một thời. Và, thánh-nhân không tái tạo thời ấy theo cung cách của vũ trụ/vạn vật, mà chỉ tác tạo lại đặc tính chính trị rất mới, mà thôi. Chính-trị mới của thánh-nhân, có liên quan đến việc trỗi dậy/phục sinh bao gộp hết mọi thứ, cứ chống đối mọi sự và chỉ mỗi chữa trị hình thức bạo lực, bất công và các kiểu “ăn trên ngồi chốc”, bằng mọi cách thôi. Thế nên, không còn khí thế của người bị lép vế, dưới trướng vẫn cứ xảy đến. Và, nếu điều này thực sự xảy đến cách đích thật, thì thánh-nhân tin chắc rằng sự việc buộc phải xảy đến. Xảy đến, đúng như thật khiến thánh-nhân tin như thế một cách rất thực, như thể nó diễn ra ngay trước mắt, đang quay hướng về thánh-nhân, nói với thánh-nhân một đôi điều, và đó là thời khắc rất con người, trong lịch sử loài người. Bởi, trong giòng lịch sử của loài người, trước đây không ai lại làm thế. Chính vì thế, mà sau này thánh-nhân gọi đó là “tạo dựng mới”. Giống như thế, Thiên Chúa từng tạo dựng nên trời đất một lần nữa và qui định hành xử lại rất khác. Cũng như thế, có ai đó nói rằng hôm nay đây khi thức dậy ta lại đã có sự vật rất thể lý và qui định sống cũng rất mới. Thế nhưng, đó đích thực là loại hình của một sự thể. Là, toàn bộ ý niệm về sự tử tế trong quan hệ và hiện diện thâm nhập vào khắp chốn. Và, không còn là mảnh đời tâm lý rất mơ hồ, tuy vẫn đẹp. Nhưng là sự thể để ta đi xuống với vật thể và con người hữu hình, thực tế ở bên dưới từng bị đá vào người, rồi lấy đi các khác biệt nhè nhẹ của  sự sống và nỗi chết. Và một khi ta nhẹ nhàng lấy bỏ đi sự tử tế trong khác biệt, là ta cũng lấy đi mọi khác biệt nhẹ nhàng và tử tế như thế; để rồi, sau đó chẳng còn bất kỳ khác biệt nào nghiêm chỉnh như thế nữa.

Nói như thế, nhưng hẳn mọi người cũng hiểu rằng những người nhỏ bé ở bên dưới rồi ra cũng qua được mọi thứ, mà chỉ cần thời gian là được. Thật ra, thực tế cho thấy: những người bé nhỏ như thế lại chẳng bao giờ vượt qua được sự thể ấy, và vẫn cần đến thời gian để có thể đối đầu với sự thể rất như thế. Sách Công Vụ lại đã đặt thánh Phaolô vào vị trí ra đi về với xứ miền Ananias và có một lúc thánh-nhân cũng đã lạc bước âm thầm trong sa mạc –và đây cũng có thể là ý tưởng khá tốt- cho đến khi ông có được sự trùng hợp để nói đôi điều về sự việc ấy, nhưng với văn bản hiểu theo nghĩa chữ, thì sự việc trên cũng bị át hẳn.

----------------

Về đế quốc       

Thế còn quan hệ giữa ông và đế quốc thì sao? Ở xứ miền gần thủ phủ Philíphê, nơi thung lũng khá bình lặng, đã xảy ra hai cuộc chiến khá lớn vào trước thời thánh Phaolô xuất hiện, cũng không lâu. Thật ra thì, cuộc chiến ấy đã quyết định phần nào bản chất văn minh của thế giới trời Tây và đế quốc La Mã. Và cuối cùng, thì Octavian đã trở thành thần-nhân Augustus rồi cứ thế kéo dài chuyện của đế quốc. Tôi nghĩ, đường đi Đamát là chốn miền quan trọng trong lịch sử của nền văn minh/văn hoá, chứ không chỉ là lịch sử thánh thiêng hoặc Giáo hội, Đạo Chúa, mà là lịch sử của Israel và thế giới. Ta cũng thấy là thánh Phaolô nhận ra rằng tên gọi của trò chơi ở đây, không phải là có được hoà bình ngang qua chiến tranh. Đó, chính là hoà bình ngang qua đường lối của Thiên Chúa bao gồm tất cả mọi sự gộp chung lại. Và, thể thức mà thánh-nhân tạo được- rút từ thánh vịnh, bởi đó chính là sự công chính của Chúa.

Sự công chính của Thiên Chúa, không là sự công bằng mà con người từng hiểu. Điều mà thánh Phaolô từng định nghĩa về sự công chính của Thiên Chúa, là những gì Chúa hằng quan tâm như Ngài vẫn có loại hình công chính của chính Ngài. Điều, mà Chúa quan tâm lại là Thiên Chúa để tâm đến những gì đẹp đẽ, phong phú. Chúa quan tâm đến sự phong phú mà chính Chúa bao gộp mọi người –từ sự chết đến sự sống và tất cả mọi sự này khác đều mang tính tích cực. An bình qua những gì Chúa quan tâm, là ý niệm còn đẹp hơn cả ý niệm mà người La Mã vẫn nghĩ tưởng.

Xem thế, thì đó mới là ý nghĩa của Giao ước. Đó, là lý do tại sao bất-bạo-lực là ngôn từ khá yếu kém. Đó là sự loại trừ mọi hình thức bạo lực để dẫn ta về với sự tử tế, và dẫn vào với tình thương-yêu vẫn hiện diện cũng cởi mở. Là, sự quân bằng/đồng đều trong tôn kính và thương yêu mọi sự và mọi người. Cả đến cụm từ “an bình” cũng không là từ ngữ rất đúng nghĩa, nhưng thật tình thì tôi nghĩ, nó cũng có thể chuyên chở ý nghĩa hệt như thế. Trong chiều hướng ấy, đáng lẽ ra tôi phải nhắn bảo rằng người La Mã đã ra đi và đã phá bỏ từ ngữ “an bình” và sử dụng nó một cách sai trái. Thánh Phaolô sử dụng cụm từ này rất chính xác, đầy ý nghĩa. Nhưng ở đây, từ ngữ ấy lại hoàn toàn mang ý nghĩa bao gộp rất khác. Thánh-nhân còn nói: Hãy cho tôi biết toàn bộ hệ thống và lối hành xử đầy thống trị của vũ trụ đi, tôi sẽ loại trừ được một số..” Cũng thế, có lẽ thánh-nhân lại sẽ bảo: Cho tôi biết về các thần linh ở đâu đó, và Thiên Chúa của tôi đã cho tôi thấy Ngài làm cho Đức Giêsu phục sinh tức là Ngài không giống thần linh nào như thế. Ngài thuộc về một trật tự khác.

Phải chăng như thế có là “đánh” vào thuyết nhị-nguyên của Hy Lạp không? Đúng. Nhưng thay vì “đánh” vào nó ta lại lấy đi những cái hay/cái đẹp của Hy Lạp để thiết lập cộng đoàn chính trị cho mọi người như họ từng làm thế quanh các thị trấn Hy Lạp. Và thánh Phaolô chắc đã phải có ý tưởng đúng đắn nhưng lại không biết hoàn tất những việc như thế. Và chỉ một Đấng duy nhất biết được việc ấy chính là Thiên Chúa, và Ngài đã làm thế ngang qua Phục sinh vực dậy Đức Giêsu, và đó là khởi đầu tiến trình phục sinh nơi mọi người. Và, nơi chúng ta.

Và, thánh Phaolô khi đó lại cũng nói: “Đó là điều đang xảy đến, ngay lúc này. Và sự việc ấy đang loại trừ đế quốc La Mã, ngay bây giờ.” Theo tôi thì, thánh-nhân có lẽ đã nói: nếu anh em không loại trừ hệ thống chính trị rất thống trị như Đế quốc La Mã, thì anh em không thực sự là người Đạo Chúa. Mà, anh em chỉ mơ tưởng chuyện ấy ở nhà mình và chỉ có ý nghĩ đẹp rất thoáng qua, thôi. Điều này nghe ra cũng hơi “dị giáo”, khá rối như thể bảo rằng: Tôi cũng không rõ là tôi thuộc hữu khuynh hoặc tả khuynh, nhưng tôi đang vui chơi nơi chuồng ngựa. Và, tôi đang chơi trò to lớn hơn, và đội ngũ mà tôi đang cùng chơi lại là trò chơi theo tình đồng đội.

-----------------

Phục sinh nơi cửa hàng

Để cho dễ hiểu, tôi xin phép có được một chút tưởng tượng mà nghĩ rằng: nhiều người sẽ nói với thánh Phaolô –có lẽ vào cuối đời của thánh-nhân khi ông được nhiều người biết đến- là: chúng tôi sẽ đưa ông về lại Côrinthô. Vâng. Một số nguời ở Côrinthô thuộc loại cứng đầu cứng cổ, đã quyết định sẽ không mua bán thứ gì hết vì thánh-nhân từng khuyên bảo họ như thế, và họ sẽ nói với thánh-nhân rằng: “Này ông Phaolô, thế đâu là chứng cớ cho thấy chuyện ông nói đã thực sự xảy ra?” Và khi đó, thánh-nhân từ chốn hành nghề thuộc da đã ngước lên cao nhìn và nói: “Đúng ra phải nói là ở đây có cửa hàng cá mòi ở đầu phố và họ mở cửa rất sớm, vào mỗi sáng. Nhưng, trước khi mở cửa đã thấy nhiều người trong chúng ta đã tụ tập ở trước cửa, có lẽ để nguyện cầu. Có điều là, cụm từ “nguyện cầu” mang ý nghĩa nào khác hơn là cho người nghe. Tức, tụ và họp chỉ để ở cạnh nhau và mở lòng ra với nhau. Và mỗi tuần, ta cũng tụ và họp ở nhà thờ để gặp nhau cho dài lâu. Và, trong các buổi tụ họp như thế, ta mang đến phân nửa những gì mình kiếm được vào tuần trước, rồi cho đi. Cho, hết mọi người, không trừ ai. Ta mang thức ăn từ nhà đến và cùng nhau san sẻ những gì còn sót lại như ta thường làm. Ta lại sẽ mang xuống phố cho người khác, những người mà ta vẫn thấy cứ ngồi đó suốt ngày mà chẳng có gì để ăn. Ta làm thế không theo cung cách các đấng bậc vị vọng tụ họp nhau lại, nơi Đế quốc. Và, ta làm thế là bởi: vẫn tin rằng mọi tạo vật đều bị đánh động từ sự việc Phục sinh và là hoa quả của những gì ta làm ra, rồi nhờ đó có ảnh hưởng. Có thể nói, mọi thực phẩm ta ăn vào cũng đánh động ta theo kiểu cách hệt như thế. Và, tất cả thuộc về Đấng đã và đang trỗi dậy. Và, ta còn chuyển giao cho mọi người, vì tất cả được bao gộp trong động lực ấy. Trên thế giới, luôn có động lực năng nổ tại nơi ta làm việc, để mình có thể phân phát mọi sự theo cách Chúa làm, là: dội ngược về với sự công chính của Đức Chúa. Và, đó là những gì vẫn đối nghịch lại đế quốc. Và, ở nơi đó, có rất nhiều của hàng cá mòi cũng dội ngược như thế. Và, trên nguyên tắc, nó có mặt khắp nơi. Và, điều đó có nghĩa là đế quốc La Mã nay đã chấm dứt. Cũng thế, các quan thày, hoặc đại gia cùng thân chủ này khác, cũng đều làm như vậy.”

 

Thánh Phaolô là người rất giỏi trong việc đưa ra chứng cớ nhãn tiền, tựa như thế. Cũng tựa như cung cách sống niềm tin mãnh liệt. Chuyện rắc rối/khó xử thời hôm nay, là: lúc này, ta vẫn thấy Giáo hội chỉ nói và mừng kính Phục Sinh bằng các nghi thức phụng vụ có lễ lạy đình đám, chứ chẳng làm điều gì chứng tỏ là có phục sinh, trên thực tế, bằng phương cách chính trị. Theo tôi, đó là việc cũng khó thực hiện. Có thể, nhiều người từng thấy được cách sống thực dụng mà thánh Phaolô muốn, không khiến cho các quan thày, đại gia cũng như thân chủ của mình từ bên trên đoái hoài nhìn xuống; và nếu gặp may, cũng sẽ bỏ đi. Thực tế, cũng không lay động được những người từng thất bại, cố tiến lên từ chốn miền thấp bé để thăng hoa. Mọi người đều có cơ hội đồng đều, và lần đầu trong lịch sử hiện hữu, ta có được cơ may ở mức độ có thể gia-nhập vào “cuộc chơi” này. Và, mức độ ấy, mọi người đều có khả năng đồng đều. Thế nên, vấn đề là hỏi rằng: ta có thị kiến về Đấng Bậc đó không? Nếu có, sẽ được bảo: ta sẽ thấy điều gì đó như thánh-nhân từng thấy trên đường Đamát, chứ?

Thánh Phaolô nay tỏ bày             

 

Ai là người được thánh Aphaolô kể cho nghe những điều như thế? Phải chăng thánh nhân đặt vấn đề như thế với người Do thái? Nếu thế, chắc rằng họ cũng kêu lên: “O kìa ông Phaolô! Phục sinh thông thường vẫn xảy đến đấy chứ! Dù chúng tôi có tin vào một chuyện và hy vọng một chuyện và cũng cầu một chuyện, nhưng chuyện đó vẫn chưa thấy xảy đến.” Thánh-nhân có đem điều ấy đến với người La Mã dính dự vào chuyện thờ cúng thần hoàng đế không? Nghe hỏi, chắc rồi họ cũng bảo: “Ơ kià! Augustus và các hoàng đế kế nghiệp ông vẫn ở đây đến suốt đời, mà.” Có thể, họ cũng không coi đó là chuyện hệ trọng nữa.

Trong một số sách tôi đọc được, có một số lý thuyết đòi phải đến với người Do thái trước nhất, tức: họ cũng chẳng muốn nghe thánh-nhân nói, nên mới đến với người ngoại giáo. Nhưng, tôi thì không nghĩ chuyện này đúng thật. Nói rõ hơn, cũng có một số người ngoài đạo cuối cùng cũng tin vào Thiên Chúa của Israel mà không cần phải mang thẻ “chứng minh nhân dân” gì hết. Nói khác đi, tức: bảo rằng họ chẳng cần phải ngang qua thủ tục “cắt bì”, một chút nào. Họ chỉ việc cứ quanh quẩn gần hội đường, như thể mình cũng tin tất cả những gì người Do thái tin, là được. Theo dữ liệu rút từ ngành khảo cổ, ta cũng có danh tánh của một số vị như thế.

Ở một số nơi, họ rất đông. Và, họ có địa vị vững chãi trong xã hội và cuộc sống dân sự. Họ thuộc nhóm người khá quan yếu. Đôi lúc người ta gọi họ là những người thờ Đức Chúa. Đôi khi họ cũng được gọi là những kẻ kính sợ Thiên Chúa, tức: nếu phiên dịch theo ngôn ngữ thi ca thời đại, thì họ là những người “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”. Trong khi người Do thái muốn họ trở thành Do thái thực thụ, chứ đừng “quẩn quanh” như thế mãi. Người La mã lại muốn những người này thôi đừng luẩn quẩn ở các hội đường Do thái nữa, nhưng hãy quay về mà sùng bái thần hoàng đế. Trong khi đó, thánh Phaolô lại bảo họ: cũng chẳng cần gì phải theo cả hai đường lối ấy. Hãy cứ như những người đến tiệm cá mòi, là xong. Và theo tôi, thì họ chính là cử tọa đặc biệt của thánh Phaolô, cũng không chừng. Và tôi còn nghĩ rằng: họ là những người được thánh Phaolô đến gặp trước tiên, và những người khác cũng chẳng bị thánh-nhân “đuổi đi chỗ khác chơi.” Bởi, thánh nhân chẳng muốn loại trừ bất cứ ai. Và tôi cũng nghĩ: thánh nhân chẳng tội vạ gì mà đến các hội đường tìm xem có ai muốn hồi hướng trở về, hay không. Theo tôi, thì: sở dĩ thánh nhân có đến hội đường đi chăng nữa, cũng chỉ vì nhiều người cứ loanh quanh, luẩn quẩn ở đâu đó, chốn hội đường, mà thôi. Và thánh-nhân cũng chẳng đem các kinh nghiệm chính của mình khiến người Do thái hoặc người ngoại giáo trở về với Đạo Chúa. Nhưng, thánh-nhân đã nhận ra rằng: hay nhất là: cứ ra đi mà đến với người thờ kính Chúa. Bởi, họ là những người ở lưng chừng trong quan hệ đồng đều. Và, họ là những người hiểu rõ thánh-nhân và đã mua chuộc thánh-nhân. Và dĩ nhiên, còn có nhiều người khác thếnữa. Và theo tôi, thì đó là những người mà thánh Phaolô đặt mục tiêu vào họ, trước nhất.

Khi nói: thánh Phaolo ra đi, là bảo rằng: thánh-nhân đi với ý nghĩa của ơn gọi và sứ vụ. Vâng. Ơn gọi là từ ngữ rất đáng ngờ. Ngày hôm nay, ta dùng từ ngữ này trong nhiều bối cảnh khác nhau. Ta thường hỏi rằng: dân chúng có tỏ ra thích hợp và có ý hướng chính đáng về với “sứ vụ thừa sai” hay không. Vâng. riêng thánh Phaolô dứt khoát chẳng thích hợp với công cuộc thừa-sai này chút nào hết, nếu xét lý lịch rất lạ của thánh-nhân. Tôi còn nghi cả về chuyện thánh-nhân có ý hướng tốt lành trước khi có cảm nghiệm về chuyện “Phục sinh”, nữa không. Thành thử, nói “ơn gọi” thật ra cũng không ích gì. Thật ra thì: chính động lực phục sinh của Thiên Chúa mới gửi thánh-nhân ra đi mà phục vụ. Chứ chẳng có ai, hoặc nhân vật nào sai phái thánh nhân đi làm công việc ấy hết. Cũng chẳng có nhóm hội/đoàn thể nào thuộc Đạo Chúa gửi ông đi. Cũng không phải thánh Phêrô hoặc Giacôbê sai phái. Chẳng một tông đồ nào trong nhóm Mười Hai gửi ông cả, dù các ngài rất thích thú khi thấy thánh Phaolô mọi khi chẳng mấy thích thú những chuyện như thế, vậy mà vẫn quyết tâm. Và, các ngài vẫn trông chừng thánh-nhân để xem thánh-nhân có sử dụng ngôn từ này, hay không. Nhưng tuyệt nhiên các ngài không là nguồn gốc sai phái thánh Phaolô thực hiện công cuộc thừa sai đặc biệt này, hết. Nói chữ “đặc biệt”, là bởi sứ vụ mà thánh-nhân đảm nhiệm là đi thẳng và lập tức ngang qua việc Chúa thực hiện sự “cánh chung” ngay ở việc Phục sinh của Đức Giêsu có trong thánh-nhân. Và, đó vẫn là điều mà thánh-nhân từng chủ trương. Và, đó cũng là lý do khiến thánh-nhân được miễn trừ không bị các ngài theo dõi hoặc khống chế. Và, các ngài cũng chẳng bao giờ chấp nhận mặc cho mình quan niệm ấy. Các tông đồ chỉ muốn tinh giản thánh Phaolô xuống thành một trong những người do các ngài thuê mướn, trong hệ thống mà các ngài thiết lập. Lời kêu gọi này nơi thánh Phaolô đích thật là “Christo estauromenous”, có nguồn gốc rất rõ ràng. Chính Thiên Chúa, là Đấng bao gồm và bao gộp trong sự chết và sống lại làm một, sau khi sự việc như thế đã xảy đến nơi Ngài.

Có một số vị tự hỏi: làm sao thánh Phaolô lại biết rõ Đức Giêsu lịch sử được? Tôi lại nghĩ, thánh Phaolô cũng chẳng có nhiều kiến thức về Đức Giêsu hết. Tôi không nghĩ là thánh-nhân lại có nhiều chi tiết về sự sống của Đức Giêsu lịch sử. Theo cung cách cũng khá lạ, dù lúc đó cũng chưa có gì là lạ cả, tôi không nghĩ là thánh-nhân lại ưu tư quan ngại nhiều để phát giác ra chuyện này, hết. Tôi cũng không nghĩ là thánh-nhân đã phải bỏ ra ba năm trời để học khoá đặc biệt về Đức Giêsu lịch sử, trước khi thánh-nhân ra đi thực hiện sứ vụ thừa sai của mình. Cho đến khi Đức Giêsu chịu nạn và chịu chết trên thập giá và trở lại với cuộc sống có trỗi dậy, thì thánh Phaolô cũng chẳng quan tâm nhiều đến Đức Giêsu hết. Đó là chuyện ưu tư hơi sớm đối với thánh-nhân. Điều đã “đánh vào người” thánh Phaolô trên đường Đamát, chỉ là sự việc loại trừ mọi khổ đau/âu sầu và khía cạnh chịu khổ hình trên thập tự của Đức Giêsu, để Chúa đi vào cuộc sống bao gồm và bao gộp hết mọi người, và rồi làm đẹp cũng như biến tất cả trở thành tử tế, hiền hoà. Theo tôi nghĩ, việc này cũng khiến thánh Phaolô phải để hết phần còn lại của đời mình, dù lúc ấy có khi ông cũng chẳng thức tỉnh một cách đúng đắn, nghiêm chỉnh để nghiệm ra điều gì mình cần phải sống cho đúng nghĩa. Tôi nghĩ, mầm mống của thị kiến và việc tóm bắt được nhận thức mới nảy sinh, từ đó thôi. Kể từ đó, tức vào khoảng thời gian thánh-nhân được ba mươi tuổi, vào lúc đó. Bởi, thánh Phaolô có lẽ sinh ra vào khoảng năm thứ 6 trước Công nguyên. Và có lẽ cũng phải 3 năm sau khi biết Chúa chịu đóng đinh vào thập giá, tức năm thứ 33 sau Công nguyên; hoặc, ít năm sau đó, cũng không chừng. Có lẽ, lúc ấy thánh-nhân cũng đang ở vào thời khủng khoảng giữa đời. Nhưng có lẽ cũng trễ hơn người khác.

Riêng tôi lại thấy có hơi tréo nghịch là trên đường đi Đamát, sự kiện ấy đã xảy đến. Đamát là thủ phủ cũ/xưa nhất trên thế giới, theo nghĩa tuổi đời thành phố. Có lẽ phải trở về với thiên niên kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Thánh Phaolô là nhà lữ hành, luôn di chuyển do bản chất và bản năng nữa. Thánh-nhân khác hẳn Đức Giêsu vì Chúa ít khi đi đâu xa hơn 15 dặm cách nơi Chúa sinh ra. Đamát là tụ điểm con đường mậu dịch, từ Ấn Độ, ngang qua Yêmen đến Địa Trung Hải và Thổ Nhĩ Kỳ, tất cả đều phải ngang qua Đamát. Vậy thì, theo nghĩa nào đó, thế giới đã tập trung ở nơi này và lúc này đây. Và đó cũng là điểm đặc trưng để thấy rằng thánh Phaolô có cái gì đó rất đặc biệt, khác thường. Và, thế giới sau thời của thánh-nhân rày cũng thế.

Thư mục đọc thêm:

John Dominic Crossan & Jonathan L. Reed,“Bodily resurrection, in “In Search of Paul”,   

tr. 133-135;

We belong to the Day”, sđd tr. 172-174.

(còn tiếp)

-----------------------

Lm Kevin O’Shea CSsR

Mai Tá lược dịch.