Phaolô và Công Vụ, một so chiếu

“Chúa phán với ông:

"Hãy cứ đi, vì người ấy là lợi khí Ta chọn

để mang danh Ta đến trước mặt dân ngoại,

các vua chúa và con cái Israel.

Thật vậy, chính Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy

tất cả những đau khổ người ấy phải chịu,

vì danh Ta."

(Cv 9; 15-16)

 

 

THÁNH LUCA, TÁC GIẢ SÁCH CÔNG VỤ

 

Xét Tin Mừng do thánh Luca viết, xem ra thánh sử đã viết hồi cuối thập niên 80 hoặc 90 sau Công nguyên. Đây là Tin Mừng cuối trong bộ Tin Mừng Nhất Lãm được Hội thánh chính thức đưa vào Tân Ước (Boismard). Tin Mừng do thánh sử viết, được viết tại thị trấn Ê-giê, cũng có thể là Philíphê hoặc Antiôkia, Côrinthô, Êphêsô hay ở đâu đó, nhưng có điều chắc là tư tưởng ghi ở Tin Mừng có xuất xứ từ nền văn hoá Hy Lạp. Tin Mừng được viết, là viết cho người Hy Lạp nay hồi hướng trở lại và cho cả người Do thái, là hai dân tộc từng sống trong môi trường văn hoá rất Hy Lạp. Tin Mừng được viết, còn để viết cho những người trí thức có khả năng suy tư về văn hoá cơ bản của họ. Văn phong/thể loại của Tin Mừng, lại thuộc dạng thư Thêôphilô, tức nhóm người tin vào Đức Chúa Duy Nhất của Do thái, tức: những người chỉ muốn biết về Chúa của mình, thôi. Và, Tin Mừng được viết, là còn viết cho thế hệ thứ hai; hoặc nói đúng hơn, cho thế hệ thứ ba gồm các Kitô-hữu chuyên chăm vẫn kỳ vọng vào chuyện ấy. Các vị này, nay quan tâm nhiều về tháng ngày qua trong quá khứ của họ, tức những kinh nghiệm từng trải, rất phát triển. Phát triển, là kinh nghiệm các ngài vẫn có về những ngày tháng sống ở vào trạng huống đặt nặng tính chất Do thái cũng như khung cảnh sống theo văn hoá Hy Lạp -như thư Rôma từng cho biết. Họ là những người muốn chứng tỏ niềm tin xuyên suốt, trước sau như một, dù đã trải qua những chuỗi ngày dài biến thái về một văn hoá đứt đoạn, dồn cục.

 

Nếu hỏi rằng: Luca là ai? Ông thuộc trường phái nào? Thật ra, cũng khó mà trả lời cho chính xác. Tuy nhiên, điều ta có thể quả quyết một cách xác đáng để nói được rằng: ông không là bạn đồng hành của Phaolô thánh nhân, cũng chẳng là nghệ sĩ hay nghệ nhân, hoặc thày thuốc chữa bệnh cho nhiều người. Có thể nói một cách khá chắc, rằng: ông là người Hy Lạp mang cung cách Do thái; hoặc, một người Do thái chịu nhiều ảnh hưởng của nền giáo dục Hy Lạp khá vững mạnh. Mức độ hiểu biết về Kinh thánh ông có được là nhờ vào Bản Bảy Mươi tiếng Hy Lạp. Thế nên, điều chắc hơn cả để ta có thể quả quyết như thế, là ở vế đầu, tức: ông là người Hy Lạp học cao hiểu rộng, và có cuộc sống rất Do thái.

 

Từ lâu, nhiều người vẫn có quan niệm bảo rằng: tác giả Sách Tin Mừng Luca và Công vụ nói trên, là bạn đồng hành với Phaolô thánh nhân, một điều không một ai chối cãi, hoặc phản bác. Trong số các đấng bậc chủ trương như thế, thấy rõ nhất là thánh Irênê. Nhưng, yêu cầu qui chiếu các thư mục vụ từng dùng các chủ-từ như “chúng tôi” ở sách Công Vụ và chính Phaolô thánh nhân cũng đã dùng chủ từ này ở cuối thư Philêmôn, là về thánh Luca đã hành trình với Phaolô. Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ, ta thấy có nhiều điều khác lạ giữa luật Torah và chất Đạo của người Do-thái. Ở Công vụ, thánh Luca chả bao giờ nhắc nhở đến các thư-từ do thánh Phaolô viết. Thánh sử cũng không bao giờ gọi thánh Phaolô là tông đồ của Chúa hết. Các đoạn sách dùng chủ từ “chúng tôi” chỉ là văn phong/thể loại mang tính hùng biện, mà thôi. Vả lại, sách trên còn cho thấy rất nhiều nhân vật mang tên Luca chứ không chỉ một thánh sử như ta tưởng…

 

Khi viết Tin Mừng, thánh Luca sử dụng khá nhiều nhu-liệu rút từ Phúc Âm thánh Máccô cũng như sử liệu Qumran và chỉ đính kèm một số tài liệu là đặc trưng của riêng ông, thôi. Đây, là công trình hai tập: Tin Mừng và Công vụ. Đây, gồm cả truyện kể về bước đầu và sự việc triển khai công tác của Giêsu Đức Chúa. Và cũng là, anh-hùng-ca loại thiên-hùng-sử, một thể-loại “báo cáo/tường trình” được sắp xếp rất thứ tự. Nhưng, nói như thế không có nghĩa bảo rằng: đây là văn bản xác thực dành để nghiên cứu, mà là một thị kiến rất trùng hợp. Tựa hồ Thiên-Hùng-Sử của tín hữu Đức Kitô song song với Thiên-Hùng-Ca của Homer và/hoặc Virgil, như vẫn thấy. Đem so chiếu, ta có thể nói: qua lối viết khá độc đáo, thánh Luca vẫn có một chút gì đó như của Dante hoặc một thứ Milton, rất Đạo mình.

 

Xem thế thì, Sách Công Vụ là công trình tiếp nối Sách Tin Mừng rất độc đáo.

 

                                                                                 ---

 

SÁCH CÔNG VỤ LÀ “TIỂU THUYẾT” RẤT CHẤT SỬ

 

Lâu nay, ta vẫn thấy nhiều tranh luận về thể-loại văn chương viết trong Công Vụ. Thời quá khứ, khi đọc sách này nhiều vị vẫn thấy đây là áng văn bất hủ mang tính sử-liệu gồm các truyện kể có thật, rất thú vị. Mới đây, lại thấy có trường phái coi Công Vụ là Sách của học giả nọ mang tên Luca nào khác đã hoàn tất hầu đưa ra quan điểm thần học và ý-thức-hệ nhắm vào nguồn gốc và sự phát triển của Đạo, thời tiên khởi. Xem ra, tác giả làm công việc ấy qua phong-cách tự-do hầu sử dụng và sáng tạo các hiện tượng nổi bật. Tựa hồ điều mà dân Pháp vẫn hay nói: “Đó là truyện kể! Và đó là huyền thoại.”

 

Có tác giả còn cho rằng thánh Luca từng trụ giữa hai luồng tư tưởng lâu nay gây ảnh hưởng lớn là cung cách chép sử của người Hy Lạp và La Mã, đồng thời là phong cách của người Do Thái vẫn muốn tìm hiểu những gì xảy ra trong quá khứ, về lịch sử. Vế đầu, qui về ảnh hưởng của Hy Lạp và La Mã trên Do thái. Ở đây, ông đặc biệt quan tâm đến chuyện tầm-nguyên riêng tư, tức nghệ thuật sáng tác văn chương vốn dĩ kết hợp hài hoà những gì có lợi và thích hợp với nhiều người. Ông có tự do của người viết những muốn tạo ra một thứ giả-tưởng nào đó vào những lúc không có tư tưởng nào đến với ông trong đầu. Nhưng ông lại cứ muốn bắt chụp mọi thứ, chí ít là những thứ có liên quan đến nhân vật chủ chốt, do mình viết. Vế thứ hai, cho thấy ông muốn bảo vệ thứ tự do tha hồ chọn chủ đề để viết, do tầm quan trọng của chủ đề và ý-thức-hệ thấy có ở sự việc quyết tạo ra những gì để ta hiểu là ông muốn đọc lại và dựng lại “lịch sử”.

 

Bởi thế nên, Công Vụ là tuyển tập gồm các thư được viết ra cốt để vinh danh/tán tụng sự cao sang vẫn có ở cộng đoàn tiên khởi. Và, cũng để đảm bảo căn-cước của các ngài khi cùng một lúc, tỏ bày nguồn gốc các ngài vẫn có trong kế hoạch Chúa mang đến, được ghi rõ trong Sách Thánh thời đặc trưng, qua đó họ được cài đặt vào với thế giới người Do thái đã được minh xác. Thánh Luca thể hiện văn phong/thể-loại mà người Hy Lạp xưa gọi là “Synkrisis” tức: chủ ý cài đặt song song với sự kiện xảy ra qua sự khác biệt liên tục giữa Israel và Đức Giêsu, cũng như giữa các tông đồ và thánh Phêrô, Phaolô, vv. Đây là tấm “thảm thêu” đầy sắc mầu nổi bật cốt minh hoạ cho điều mình muốn nói… Thánh Luca có hai con mắt: một mắt, thánh sử để vào Sách Tin Mừng do mình viết; còn mắt kia, thánh nhân lại để vào Bản Bảy Mươi, rất sáng ngời.” (xem P. Bony, Review of D. Marguerat, Les Actes des Apôtres (1-12), Genève, Labor et Fides, 2007)

 

Các nhà chú giải hôm nay đặt mốc thời gian cho sách Công Vụ coi như Sách này được viết vào đầu thế kỷ thứ 2. Tuy nhiên, tác giả Richard Pervo lại cho rằng: niên biểu mà Sách được viết phải là năm 115 sau công nguyên như thế mới chính xác và như thế, cũng đã gần nửa thế kỷ kể từ ngày thánh Phaolô qua đời.

 

Ở đây cũng thế, chuyện này chẳng có gì là chắc chắn hết. Thế nhưng, nhiều vị lại cứ cho rằng: Công Vụ được viết vào niên biểu từ 100 đến 150, sau Công nguyên. Còn, đối với tác giả Eusêbiô, thì Sách này do chính Justin và Papias viết ra, cũng rất lâu. Nếu thế, thì Phaolô thánh nhân chẳng bao giờ hiện hữu với thế giới Do thái, hết. Và có thể là: các vị đều có nhu cầu, vào lúc nào đó, phải khẳng định một lần nữa về thánh Phaolô, hầu đưa những chuyện viết trong Sách phù hợp với “thánh truyền” của Đạo bằng cách tạo ảnh-hình rất chính thống để rồi sau đó gán cho ông là tác giả, hơn là bảo rằng: chuyện của ông chỉ như thế. Điều này còn có nghĩa, là: các vị vẫn muốn coi Phaolô thánh-nhân như người tông đồ dễ bảo từng được Nhóm Mười Hai công nhận, để rồi ông sẽ làm chứng cho quyền bính của Nhóm này ngay lúc đó. Thế nghĩa là: thánh Phaolô vẫn ở vào vị thế “dưới trướng” tức vẫn ngoan ngoãn sinh hoạt đều đều, bao giờ cũng tuân theo sự điều hành của Nhóm. Nói tóm lại, các vị làm thế là để biến Phaolô thánh-nhân thành người của Nhóm, có thế thôi. Và, cũng theo các vị này, thì Sách Công Vụ được viết, là để viết về những chuyện đại loại như thế.      

 

Thật ra, thánh Luca không hề có trong tay các thư do Phaolô thánh-nhân viết và cũng chẳng đặt chúng trước mặt để viết sách Công Vụ. Cũng chẳng có gì làm chắc để ta có thể đoan quyết rằng: thánh Luca từng thu thập các tài liệu và thư-từ do Phaolô thánh-nhân tạo ra, ngõ hầu giúp mình viết ra sách Công Vụ. Cũng tựa như các tiểu thuyết dã sử, trong đó có nhiều chi tiết được nghiên cứu kỹ và khá chính xác về địa dư, chính trị qua việc khai thác địa danh cũng như tên tuổi từ các chỗ khác. Cả đến sự kiện lịch sử, xem ra cũng đều như thế.

 

Điều quan trọng, chỉ cốt để ta sử dụng Công Vụ như một nguồn tài liệu thứ yếu chứ không có gì là chính xác về Phaolô thánh nhân, hết. Tác giả Fitzmeyer lại cũng viết: thánh Phaolô đã sử dụng “thì” hiện tại để nói về chất liệu được lấy từ sách Công Vụ cho nó ra vẻ kịch-tính một chút; và, “thì” quá khứ là để các dữ kiện được lấy từ thư của Phaolô thánh-nhân, là để nhằm mục tiêu diễn bày tính cách lịch sử cho sách, thế thôi.

 

Giá trị của Công Vụ về Phaolô thánh-nhân là giá trị của một công trình nhằm để lại chút gì cho hậu thế, chứ không phải về một Phaolô đích thực lịch sử. Nói cách khác, các ngài làm thế là để tiếp tục xây dựng một “hồi ức” về Phaolô thánh-nhân, của thời tiên khởi. Điều đáng nói ở đây, là những chuyện như thế chỉ mang tính cách “làm giùm“ cho Phaolô tựa như thói quen mà người Pháp thường làm. Chuyện như thế, cũng tương tự như chuyện “ơn gọi” sử gia chuyên nghiệp hồi thời cổ. Vào lúc ấy, đã có nhu cầu khẩn thiết quyết bao gộp hiện tượng “Phaolô” vào với ký ức của Hội thánh, như một quà tặng rất hiện thực. (Xem Odile Flichy, Conference at École Biblique, Jerusalem, tháng 5 năm 2007)

 

                                                                        --------------

 

 

NỘI DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA CÔNG VỤ

 

Sách Công Vụ bắt đầu bằng một truyện kể về sự kiện Chúa Về Trời. Trong A.N.E., có sự thể bảo rằng: những ai trụ được thiên đàng thì sẽ quản trị trái đất và quản cai cả đến đế quốc ngoài Đạo nữa. Nhưng, Hoàng đế Augustus lại nghĩ khác. Ông suy tính thế này: do bởi ông đã diện kiến Julius Xêda, nên khi chết, chắc chắn ông sẽ được cất nhắc về Trời cao. Và như thế, ông sẽ được coi là thần thiêng thánh hoá, thật cũng đúng thôi. Riêng Titus lại áp dụng cùng một lập trường như thế cho riêng mình và ông tự định đoạt vị thế của mình nơi “vòm cung” trên cao ấy, tức hiện diện tại quảng trường La Mã, rất nổi tiếng. Giả như, tín hữu Đạo Chúa thời tiên khởi lại cứ bảo: Đức Giêsu đã “thăng thiên về Trời”, theo cung cách rất như thế. Như thế tức như thể các ngài từng thách thức chống đối vua quan lãnh chúa, ở thời đó. “Thăng Thiên Về Trời”, không là cuộc lữ hành ở không gian hoặc nơi trung khu thần linh rất thánh nào đó, tách lìa khỏi mặt đất. Mà, là một khẳng định mang tính chất rất chính trị khá to tát, tức một thách thức chống đối cả với quyền bính của La Mã nữa.

 

 

Công Vụ, một sử liệu gồm hai phần:  

 

Phần đầu, từ chương 1 đến chương 12, viết về việc tuyên dương “Đức Giêsu là Chúa”, rất sớm sủa. Ở đây nữa, Công Vụ lại đã khẳng định: Đức Giêsu là Đấng thay thế Hoàng đế Xêda, nghĩa là: Xêda chỉ là phàm nhân tục tử, thôi. Đức Giêsu mới là Đức Chúa Đấng ngự đến với gian trần là để giúp mọi người được gặp Đức-Giêsu-là-Chúa, chứ không phải để đến với hoàng đế La Mã, vốn dĩ chỉ là phàm nhân. Lời lẽ của Sách, là để tín hữu tiên khởi nói ra được điều đó, bất chấp mọi hậu quả có thể có. Phản ứng chống lại tuyên dương này, về phía La Mã, thật ra cũng rất nghiêm trọng. Và, phản ứng của các lãnh tụ Do thái cũng nghiêm túc không kém. Riêng Bè Xađuxê lại rất lo cho những chuyện như thế, không vì lý do tôn giáo mà vì nhiều lý do khác. Riêng Hêrôđê Agríppa, là người lẽ đáng phải làm vua Do thái dưới sự bảo trợ của quan quyền ở La Mã. Thế nên, ông đã hạ lệnh giết chết thánh Giacôbê và còn muốn giết cả thánh Phêrô là người mà ông từng ra lệnh tống vào ngục thất. Nhưng thánh Phêrô cuối cùng rồi cũng thoát chết, rất kịp thời. Kết cục, là: Hêrôđê Agrippa cũng chết thảm. Rất thê thảm, và cũng không kém những người mà ông ra lệnh giết chết, như tác giả Josephus lâu nay từng nhấn mạnh. Và, lời đồn đại ở trên cứ thế lan rộng ra khắp chốn. Lan rộng, cốt để tuyên dương Đức Giêsu đích thực là Đức Chúa, muôn dân đang ngóng chờ.

 

Phần hai sách Công vụ, từ chương 13 đến 28, tác giả viết về cung cách tuyên dương Đức Giêsu thực sự là Đức Chúa, một cung cách đang lan rộng khắp thế giới. Được thế, là nhờ có sự tiếp tay của thánh Phaolô. Thật ra thì: thánh Phaolô, cũng gặp nhiều rắc rối khi sinh hoạt mục vụ ở nhiều nơi. Sở dĩ có chuyện đó, là vì lý do chính trị nhiều hơn chứ không phải chỉ mỗi tôn giáo. Khi Phaolô thánh-nhân xua trừ ma quỉ xuất khỏi nữ phụ nọ từng là nô lệ ở Êphêsô, thật sự thì ông đã lấy đi nguồn lợi tức của những người thuận nghiêng về phía người La Mã. Đằng khác, những người tạo thần tượng ở Êphêsô lúc bấy giờ đã nổi nóng khi nhận ra sự việc này. Và, Xêda lúc đó, đáng lẽ phải bộc lộ ý kiến của ông về chuyện này mới đúng, nhưng ông lại không làm thế. Bởi lẽ đó, nên khi thánh Phaolô nói chuyện trước chúng dân ở Athens, thì người địa phương nơi đó đã có nhận xét cũng rất đúng là: ai hợp tác với ông rồi cũng sẽ bị rắc rối, chí ít là khi họ tin việc Chúa sống lại, rất đúng thật. Bởi thế nên, khi đó đã có nhiều phản ứng không thuận lợi cho thánh Phaolô. Cũng may là cuối cùng thì, Nêrô đã phải tự vẫn, ngay vào thời hoàng đế thứ tư trị vì. Và từ đó, rối loạn thực sự xảy đến khắp nơi. liên tục. Chính vì thế, thánh Phaolô bèn quyết định ra đi về chốn tận cùng của trái đất, rất La Mã, để chính ông sẽ lại thách thức Xêda. Và, ông cũng đã công khai tuyên xưng Đức Giêsu là Đức Chúa của muôn dân, ông ngang nhiên làm thế trước mũi bá quan thiên hạ, mà chẳng ai dám ra tay ngăn cản. Ngăn và cản, theo đúng nghĩa của cụm từ “akolytos” tiếng Hy Lạp. Và, đây là ý/từ cuối cùng cũng mang ý nghĩa và bối cảnh lịch sử mà Công Vụ muốn viết.

 

Cuộc đời thánh Phaolô, là thứ hành trình “trên đường Emmaus” đi về chốn miền cao sang, quyền quí nhưng trong đó sự xấu lại đã ở vào tình trạng tồi tệ nhất. Hễ nơi nào ông đặt chân đến, cũng đều xảy đến nhiều rắc rối đến náo loạn. Ở Êphêsô, lại cũng xảy ra nhiều cảnh náo loạn đến cùng cực khiến ông bị các ngôn sứ cảnh giác liên tục. Ông bị đánh đập nhiều lần, ở đền thờ. Rồi còn bị dẫn độ ra trước quan toà ở Sanhêdrin, nữa. Ở đâu, nơi nào, ông cũng thấy có người lập mưu hãm hại ông. Ông còn bị đưa ra công nghị trước mặt cả Felix nữa. Bị gông cùm suốt hai năm trời ròng rã, đến độ ông đã phải nghĩ đến chuyện ra đi về với Rôma, thôi. Xem ra, địa ngục trần gian thực sự đã đến hồi bùng nổ, tựa núi lửa. Chừng như, ai cũng nghĩ: Phaolô thánh-nhân rồi ra cũng sẽ bị cảnh chết treo trên thập giá như Đức Chúa. Nhưng, may cho ông, hành trình trên biển lại là giải pháp tốt đẹp để ông có thể tiếp tục tiến bước, theo nguyện ước. Tuy nhiên, biển cả là biểu tượng của mọi hiểm nguy cũng như của ác thần/sự dữ thật khó mà chế ngự. Ngay như người Do thái lúc trước vẫn cứ tưởng tượng rằng: biển cả là chốn sóng dồn vùi dập, chuyên đem đến cho con người những là hỗn loạn cả vào lúc trời đất chưa được tạo dựng. Tựa như Biển Đỏ vào thời loạn ly, và như Giôna quái đản ở biển xanh như sách Đaniên từng diễn tả; và phong ba bão táp cứ thế dồn dập ùa vào Biển Hồ Galilê, nhất nhất đều là chứng từ còn nằm im trong đầu mọi người dân. Cả đến hành trình rong ruổi trên biển cả cũng đã khiến ông bị đắm tàu rất nhiều lần, chứ nào được chết treo trên thập tự, giống Đức Chúa. Thành thử, rồi ra cũng sẽ có người hỏi rằng: cuộc lữ hành đường biển có làm ông bị chết chìm, lần nào không? Hoặc, thuyền gỗ bé nhỏ lại cứ va vào hốc đá, cũng là những hiện tượng khó đoán. Hoặc, cũng bị đám lính tráng của vua quan lãnh chúa từng bách hại, cũng không chừng. Bị rắn độc Malta cắn cũng có thể làm ông chết dọc đường, chứ nào được chết trên thập giá, như Chúa của ông. Không phải thế. Tất cả chỉ là sự thể khả thi, nhưng không hẳn là như thế. Bởi, ông và các bạn đồng hành đều đã cập bến rất an toàn, và đã đặt chân lên đất miền La Mã, khá rộn ràng. Và khi đó, Phaolô thánh-nhân đã có thể đem thông điệp của Đức Chúa để gửi đến những nơi mà đế quốc phàm trần từng hành xử với dân con nhà Đạo một cách xấu xa tồi tệ bậc nhất, ngay lúc đó. Và, hành trình được gọi tên “trên đường Emmaus” đã là hành trình không sao ngăn cản được bước chân tông đồ của Phaolô. Và trong tình huống như thế, ông đã tới được Rôma, như lòng mong ước. Và, đó cũng là những bước thăng trầm, đời mục vụ của ông, Phaolô rất thánh-nhân.

 

Thông điệp của Đức Chúa mà thánh Phaolô muốn đem đến cho mọi người, là thế này: dù mọi sự xem ra như thể vũ trụ vạn vật đang nghiêng về phía Xêda đi chăng nữa, thì anh em cũng đừng ái ngại. Đừng để mất đi niềm tự tin đáng quý, rất khó kiếm. Và, anh em hãy cố gắng ra khỏi chốn miền đầy phong ba/bão táp để rao giảng Tin Vui/Tin Mừng của Đức Chúa, theo lòng mong ước mà không ai có thể cản ngăn. Và, như thế thì: truyện kể về Phaolô thánh-nhân với đầy đủ chi tiết và qui cách như đã kể về tâm trạng của tác giả sách Công Vụ, tuyệt nhiên không mang tầm kích quan trọng, hoặc có giá trị lịch sử rất đích thực tựa hồ như giòng chảy chính của thông điệp mang tính chính trị. Giới đọc sách ở Hy Lạp lúc ấy, lại cứ thích loại hình kể lể về cuộc lữ hành có cảnh quan đẹp như truyện tiểu thuyết. Đi vào cụ thể, tưởng cũng nên đọc thêm tác phẩm củaChariton’s mang đầu đề “Chaires and Kallirhoe”, và “Xenophon of Ephesus’ Habrokomas and Anthia”. Ở sách Công Vụ, thánh Phaolô đã thật sự đặt chân đến vùng xôi đậu tựa như các anh hùng trong truyện huyền thoại. (Xem L. Alexander, Acts in its ancient literary context: a classicist looks at the Acts of Apostles, New York, Continuum, 2007.

 

“Sau lần tỏ tình đến cao độ kèm theo cơn chấn động mang tính chất rất ghen tuông, Chaereas thành Syracuse đã đánh vợ là Callirhoe đến chết và ông đã để vợ nằm đó sõng xoài trên vũng máu tưởng chừng đã chết. Xác của bà tưởng chừng như đã thối rữa, nhưng may được đám trộm cướp ở nghĩa trang kịp thời phát hiện. Và, bà được chúng hồi sinh để rồi bị chúng bán cho làm nô lệ, nhiều ngày sau đó. Nhân chuyến phiêu lưu mạo hiểm cũng khá cực, Chaereas dẫn đoàn quân viễn chinh người Ai Cập đi khắp chốn cuối cùng cũng chiến thắng đánh bạt dân quân người Ba Tư. Bất chợt Chaereas gặp Callhirhoe vợ mình trong đám tù nhân/nô lệ lố nhố ấy, ông bèn đưa bà lên thuyền trở về nhà; và sau đó, cả hai lại đã trở về sống hạnh phúc lứa đôi, như khi trước.”

 

Nhiều cảnh trí được thêm thắt giống hệt truyện tiểu thuyết để rồi truyện kể ấy lại được đưa vào trình thuật, rất Công Vụ. Nhưng điều đó không có nghĩa bảo rằng: thánh Luca đã dựng truyện theo cổ tích dân gian rồi cài vào đó một giá trị lịch sử này khác, như: cảnh vượt ngục, hoặc cảnh con người được vinh danh/coi trọng như thần thánh, hoặc các trận cuồng phong, bão táp ào ào thổi đến, vv.. từng được diễn lại ở nhiều đoạn, trong các sách viết cùng thời. Trường hợp dễ thấy, ta có thể lấy đó làm ví dụ cụ thể để dẫn chứng cho các màn tấu hài trong đó người Laođixê đã giết bò tót/bò mộng làm của lễ để vinh danh mừng chúc thánh Phaolô và Barnabas khiến các ngài cứ ngỡ rằng mình đã thực sự trở thành ngẫu thần Hermes hoặc thần Zeus, từ lúc nào cũng không biết.

Phần hai sách Công Vụ hầu như chỉ nói về thánh Phaolô, mà thôi. Thánh nhân được coi là dân con La Mã, nhờ vào bẩm sinh. Dù có thế, nhiều người vẫn nghi ngờ quốc tịch La Mã của ông, không phải như thế. Sách Công Vụ, có đoạn nói: Phaolô thánh-nhân từng khiếu kiện đòi Xêda phải đích thân mở phiên toà do chính ông xét xử vụ việc của thánh nhân, một lần cho rõ. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là hỏi rằng: phải chăng mỗi người và tất cả mọi người dân La Mã có quyền được Xêda xét lại các vụ xử trước đó không? Đã từ lâu, thắc mắc này được giải mã bằng một khẳng định lại bảo rằng: sự việc ở đây không hẳn là như vậy. Chẳng ai dám kháng cáo hoặc khiếu kiện kiểu như thế. Có kiện hay cáo cho lắm, thực tế cũng chẳng có gì xảy ra, tiếp theo sau. Tuy là thế, ở đây có người lại vẫn thắc mắc cứ hỏi rằng: sự việc liên quan đến chuyện Phaolô thánh-nhân khiếu kiện lên Xêda đòi xử lại vụ án của mình có là sự thực lịch sử hay không?

 

Thật sự mà nói, Phaolô thánh-nhân vẫn tự coi mình là người học được nhiều điều trong suốt thời gian ông gần gũi đấng bậc Gamaliel ở Giêrusalem. Vả lại, thánh nhân là người Biệt Phái rất nhiệt thành, điều này ai cũng biết. Nhưng, là diễn giả thông suốt tiếng Hy Lạp, ông lại có tài ăn nói lưu loát, ứng biến và hùng biện ở bất cứ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào, với quần chúng. Tài ứng khẩu rất thu hút của ông, được diễn tả cả bằng tiếng Aram rất cổ, dù ngôn ngữ ấy không là tiếng mẹ đẻ mà ông từng thành thạo, vẫn là điểm son chỉ riêng Phaolô mới có.

 

Đi đến đâu, ông cũng muốn mọi người hiểu là ông dư biết cảnh tượng giới chức có thẩm quyền đã hành hạ, ức hiếp và ném đá Phó tế Stêphanô cho đến chết. Điều này có nghĩa là: sự việc xảy ra ở Giêrusalem vào thập niên 30, sau Công nguyên, dù đó là thời điểm chứng tỏ ông không có mặt ở đó, tại chỗ, nên chẳng có gì cần phải xét lại.

 

Vào lúc ấy, vị Thượng tế ở đây đã truyền cho Phaolô thánh-nhân phải có hành động chống đối bè rối từng trà trộn ở giữa cộng đoàn tín hữu Do thái sống ở Giuđêa. Vị Thượng Tế, còn cử người đến tận nơi cốt để loại bỏ cộng đoàn ở Đa mát, hầu tẩy trừ những người dám cấu kết với nhóm đạo rối, vừa mới nổi. Điều này, xét về mặt lịch sử, cũng chẳng có gì là chính xác, hết. Bởi khi đó, Đa-mát đã thuộc quyền cai trị không phải từ Giuđêa, mà là dưới quyền của vua Nabatêa. Một chi tiết khác nữa, là: ở Giêrusalem khi xưa, vai trò của Thượng tế cũng chẳng khi nào lại có được quyền bính lớn như thế.

 

Còn về thánh Phaolô, thì: trên đường đi Đa-mát, thánh nhân đã trải nghiệm sự kiện có tầm vóc rất lớn, khả dĩ đã biến đối toàn bộ cuộc sống rất năng động của ông.

 

Ở Công Vụ, cảnh tượng xảy đến với thánh-nhân trên đường Đamát xem ra chỉ là phó bản của truyện kể rút từ Tin Mừng thánh Máccô viết ở Chương 2. Cách riêng, ở đoạn 3 câu 24-25 trong đó tác giả kể về chuyện đổi đời của Hêliôđôrus. Chuyện kể nhân vật này bị hai thiên sứ nhà trời đánh cho gục mặt, đến độ nạn nhân bị tối tăm mặt mũi, toàn thân ông chìm ngập trong bóng tối lặng câm, nhưng sau đó ông lại cũng được khiêng đi nơi khác, đến mất dạng. Tiếp đó, lại có sự kiện một nhân vật khác mang tên Onias (còn gọi là Ananias) cũng từng ứng xuất động-tác hy sinh hết mình để ông được toại nguyện. Kể từ đó, ông quyết định hồi hướng trở về, ngõ hầu cải tà qui chánh, rất đúng lúc…

 

Tiếp đó, là sự kiện Phaolô tân-tòng hành xử một cách năng nổ khiến người Do thái lúc đó nổi cơn “điên tiết” vì ông dám cả gan luận bàn về lối sống rất mới của Đức Chúa. Chính vì lý do này, mà ông đã phải lặng lẽ bỏ đi Giêrusalem để mọi chuyện được êm đẹp. Cũng ở nơi này, thánh nhân được đồng môn Barnaba giới thiệu đến với tông đồ gần gũi Chúa. Sau sự kiện hồi hướng trở về rộn rã là thế, Phaolô lại đã thực hiện một số sự việc cụ thể khiến người Do thái một lần nữa, lại phẫn nộ khiến ông đành bỏ nơi đó mà về với Tarsus, chốn quê nhà bé nhỏ của ông. Thật ra thì, Phaolô thánh-nhân không bỏ được cái cố tật là đi đến đâu, sống ở nơi nào ông cũng đều dính dự vào các xung đột đủ mọi loại, rồi còn tranh chấp, đấu tranh với nhiều người khác, nữa. Thông thường, thánh nhân có thói quen hay đến chỗ đông người như hội đường Do thái để giảng giải về Đức-Chúa-Sống-Lại cách hăng say, nhiệt nồng đến độ kéo theo xung đột cả với giới có thẩm quyền ở hội đường. Rốt cuộc, thánh nhân bị các bậc thủ lãnh ở đó tống giam vào ngục thất, rồi truyền cho gia nhân dùng roi đánh cho 39 trượng, những 5 lần. Có lần, thánh nhân bị đám người này tìm đến định ném đá cho đến chết, nhưng cũng may là chuyện ấy không thành. Hồi còn ở Phillípphê, thánh nhân cũng bị một số quan chức người Hy Lạp truy lùng rất gắt đến khi bắt gặp đã tống giam ông vào ngục thất. Cũng may là, lúc ấy mọi người lại cứ nghĩ ông là công dân La Mã rất chánh hiệu, nên đã công khai xin lỗi, rồi phóng thích ông ngay lập tức, cho xong chuyện.

 

Rồi, Công nghị ở Giêrusalem cũng là biến cố có tầm vóc rất lớn khả dĩ phát triển tài năng riêng tư của thánh nhân. Tầm vóc, to lớn đến độ nhiều người còn coi đây là sự kiện nổi cộm khiến ta có thể nối kết sự việc này vào với công cuộc tông-đồ mục-vụ ông từng thực hiện ở Antiôkia có liên quan đến cộng đoàn tín hữu vốn ao ước sống theo đường lối Chúa định đặt ra cho mọi người.

 

 

Phaolô và Hành trình Giảng rao,

ở Công Vụ

 

Ở Công Vụ, ta hội ra được một số mấu chốt nhằm chứng thực chi tiết năm tháng ngày giờ khả dĩ giúp ta hiểu rõ thân thế và sự nghiệp của thánh nhân hơn. Chẳng hạn như, thánh Phaolô từng trải nghiệm thị kiến vĩ đại về Chúa-Sống-Lại xảy đến với ông dạo năm 39, sau Công nguyên. Theo Công Vụ, thì Phó tế Stêphanô bị hành quyết vào niên biểu 36, tức thời kỳ Philatô bị rút ra khỏi Giuđêa, nên đã chỉ định người kế nghiệp, nhưng do bởi vị này chưa đến kịp, nên thánh Phaolô mới bị làm khó dễ đến như thế. Trong khi đó, Pôlliô là em của Achaia lại được bổ làm tổng trấn xứ này chỉ trong giai đoạn nhất thời, tức: từ mùa Xuân đến mùa Hạ, là sẽ có người đến thay thế.

 

Vào lúc ấy, thánh Phaolô lại đã thực hiện những 3 hành trình giảng rao chuyên nghiệp: một, ở đảo Sýp; hành trình kia, ở Tiểu Á; và hành trình cuối, là Hy Lạp. Ở đây nữa, thánh nhân đã thiết lập một số cộng đoàn thân thương như: Cộng đoàn Thessalônikê, Phillíphê và Côrinthô. Thánh nhân từng đặt chân đến Athêna là nơi ông tiếp tục công tác mục vụ, nhưng không thành. Thật ra, thì việc sắp xếp hành trình theo mốc thời gian trước/sau thành 3 giai đoạn như vừa kể cũng chỉ mang tính giả định, thôi. Đây, là phương cách sắp xếp khá cổ điển; nghĩa là: Giáo hội ta cũng đã làm như vậy. Và làm thế, cũng để các đấng bậc được biết về thánh-nhân, là nhờ vào sách Công Vụ.

 

Giả như, có ai đó bất chợt gặp thánh-nhân ở góc phố thuộc xứ miền Êphêsô một ngày đẹp trời nào đó lại cứ cất tiếng lanh lảnh hỏi thánh-nhân xem ông đã thực hiện công trình rao giảng Tin Mừng của Đức-Chúa-Sống-Lại như thế nào? Có tuyệt vời lắm không? Chắc hẳn thánh nhân cũng không tài nào hiểu được ý của người hỏi, muốn nói lên điều gì? Ý nghĩa ra sao? Bởi, suy cho kỹ, hẳn ai cũng phải công nhận rằng: chỉ các nhà chú giải Kinh thánh mới là người định ra được cung cách sắp đặt hành trình diễn tiến ra sao, thôi. Một, là giai đoạn có Công Nghị ở Giêrusalem, còn giai đoạn kia là do Galliô sắp đặt cho tiện việc ghi chép, chứ thực ra thánh Phaolô có làm gì cũng đều tuỳ vào niềm hứng khởi và điều kiện cốt tạo khí thế cho công tác mục-vụ ông thực hiện, thôi.

 

Bởi thế nên, nhiều tác giả đã không đồng thuận với nhau về việc định vị năm tháng ngày giờ cho giai đoạn đầu của hành trình rao giảng do thánh nhân thực hiện. Đồng thời, một số vị khác còn chọn thời điểm diễn tiến trước ngày được gọi là “Giai đoạn đầu hành trình giảng rao của Phaolô”, thôi. Lối sắp xếp định vị thời hoạt động của Phaolô theo kiểu của Galliô, xem ra có phần dễ chịu hơn. Bởi nhờ đó, nó giúp ta định ra được hành trình ở giai đoạn hai và giai đoạn cuối, rất chuyên nghiệp.                    

 

Để tô lên một lược đồ mang tính đơn giản, ta có thể tạo nét chấm phá về thân thế sự nghiệp của thánh nhân, theo Công Vụ, rồi định ra như sau:

 

Năm 36 sau Công nguyên: Thánh nhân hồi hướng trở về với Đức-Chúa-Phục-Sinh

Năm 46-49 sau Công nguyên: Hành trình thứ nhất tiến hành tại Nam Thổ Nhĩ Kỳ

Năm 52 sau Công nguyên: Hành trình thứ hai đi Tiểu Á và Hy Lạp

                                          : Hành trình thứ ba tập trung tại Hy Lạp và Tiểu Á

Năm 58 sau Công nguyên: Thánh nhân bị bắt giam ở Giêrusalem

Năm 60 sau Công nguyên: Hành trình Rôma

Năm 61 sau Công nguyên: Được tự do và ông rời nhà trại Rôma (sau đó ông đến các nước

                                            phương Đông và dự định đi Tây Ban Nha mà không xong.                                           

Năm 64 sau Công nguyên: Ông qua đời tại Rôma vào thời bạo chúa Nêrô còn tại chức.

 

Cũng nên biết, thánh Luca vẫn muốn thánh Phaolô cứ tiếp tục đi, đi mãi để rao giảng ... 

 

 

Hành Trình ban đầu

 

Theo Công vụ chương 13-14, hành trình này khởi từ đảo Sýp và từ miền Đông Nam của Tiểu Á; tại đó có đồng môn Barnaba luôn tháp tùng thánh-nhân. Trong các thư do mình viết, thánh Phaolô không đề cập đến chuyện này, thánh nhân cũng chẳng nói gì về chuyện có đồng môn Barnaba đi cùng với ông.

 

Theo Công Vụ, thì trước nhất thánh Phaolô đi Tarsus là do lời mời của đồng môn Barnaba. Cả hai đấng bậc đều đã ra đi thực hiện công tác mục vụ, trước là ở Salamin, thuộc đảo Sýp, bởi thánh Barnaba là người xuất thân từ đó. Đi đường biển cũng không mất nhiều thì giờ cho lắm, bởi khi đó thánh nhân đã mau mắn được “thuận buồm xuôi gió”, nên cũng lẹ. Đoạn đường này cũng không xa là bao, chỉ cách đó có 135 dặm tính từ Sêlêukia đến Salamin. Salamin lúc ấy là thủ đô của Hy Lạp, và thời thánh Phaolô, đây là trung tâm mậu dịch lớn nhất rất thông thương. Đến thế kỷ thứ 7, nơi này lại là đống gạch vụn cả vào khi người Ả Rập tràn đến phá sạch. Nay, phần đất này là thuộc nước Thổ Nhĩ Kỳ tuy nó vẫn nằm gọn trong phạm vi thuộc đảo Sýp.

 

Chặng kế tiếp, là lúc thánh nhân đặt chân đến, là Paphô. Nơi đây, có hải cảng lớn rộng cũng rất tiện, lại nằm dọc theo hướng Tây. Đây là chặng dừng chân có cảnh trí thiên nhiên, trông mát mắt. Tổng trấn La Mã thời đó là Sergiô Paulô được thánh Phaolô giúp đỡ ông được hồi hướng trở về với thánh hội ngay sau lúc thánh nhân chứng minh rằng phù thuỷ Bar-Jesus chỉ là kẻ gian lận mà thôi. Sergiô Paulô đến từ Antiôkia thuộc Pisiđia, là trung tâm của miền Tiểu Á. Có thể là, chính ông này cũng đề nghị Phaolô thánh-nhân và đồng môn Barnaba đi đến đó. Tất cả đều đã ghé bến Perghê, nay là miền duyên hải nằm phía Nam Thổ Nhĩ Kỳ. Sau đó, tất cả mọi người đều đã ra đi ngang qua rặng Taurus đến với Antiôkia thuộc vùng Pisiđia. Cộng đoàn thuộc hội đường Do thái ở nơi này bao gồm ít nhất 50% là người ngoài Đạo.

 

Sau đó, các ngài lại nhắm hướng quay về phía Đông Nam có đoạn đường dài khoảng 90 dặm để đến xứ miền mang tên Ikônium. Đây là thủ phủ Phrigya, rất cũ xưa. Đồng thời, một phần thuộc Galát vẫn có đó từ năm 25 truớc Công nguyên. Về sau này, nó được nối liền vào với Antiôkia ngang qua thủ phủ Sêbasta. Phaolô-thánh nhân từng đặt chân đến nơi đây, hơn một lần. Thánh-nhân và đồng môn Barnaba sau đó đi Lystra và Gherbê, nơi đây có con đường gồ ghề lởm chởm nằm giữa hai địa danh này. Ngày nay, chẳng có di tích nào còn sót lại. Các đấng lại dấn bước ra đi thêm lần nữa. Cũng từ bến cảng Perghê, các ngài lên thuyền về lại nhà, là nơi có cứ địa ở Antiôkia thuộc Syria.

 

Vừa đến nơi, các ngài đã lại gặp rắc rối vì muốn ghé thăm các tín hữu miền Giuđêa. Nơi đây, đấng bậc chủ chốt vẫn cứ đòi bạn đạo vừa hồi hướng trở lại, phải cắt bì. Riêng Phaolô thánh-nhân và đồng môn Barnaba lại không muốn chuyện ấy xảy ra với con dân mình vừa hồi hướng. Cả đến giáo hội ở Antiôkia cũng không muốn thấy những chuyện như thế xảy ra với họ. Và, kết cuộc như ta đã biết, Công nghị ở Giêrusalem đã bàn về chuyện này. Và ở đây, Phaolô thánh-nhân xem ra phải mất nguyên ngày trời để bàn cãi, cuối cùng mới đạt ý nguyện là có được sự đồng thuận của đấng bậc có trọng trách, khi đó có thánh Giacôbê và Phêrô, hai nhân vật chủ chốt ở nơi này. Xem thế thì, toàn bộ xứ Antiôkia đều vui mừng nhất loạt, về chuyện này.

 

 

HÀNH TRÌNH GIAI ĐOẠN 2

 

Sách Công vụ, từ đoạn 15: 40 đến 18:22

 

Hành trình vào giai đoạn này, đa phần đều xảy ra ở Hy Lạp. Giai đoạn này, thánh Phaolô không có bạn đồng hành nào đáng kể, để đi theo.

 

Khi ấy, thánh-nhân đành khởi hành cùng với Sila bắt đầu giai đoạn 2, xuất phát từ chốn cũ để về miền đất hoàn toàn mới. Cuối cùng, đoàn cũng đến được Phillíphê, một thủ phủ thuộc Maxêđônia, chốn miền do thân phụ của Alexander Đại Đế, tức ngài Phillíphê thiết lập vào năm 360 trước Công nguyên. Người La Mã đã đặt chân đến nơi này từ năm 168 và đã làm nên con đường gọi là Via Ênhaxia nối liền biển Adriatic với biển Êgiê. Thủ phủ Phillíphê đã trở thành trung tâm mậu dịch lớn kể từ đó. Chính ở nơi này, nhiều cựu chiến binh thuộc đạo quân La Mã cũng về đây để hưu dưỡng. Thành thử, dân số ở đây ngày càng thêm đông nhờ có sự hiện diện của người La Mã. Những người này đều nói tiếng La tinh nhiều hơn Hy Lạp, do đó đã biến thủ phủ này thành một thứ thủ đô Rô Ma, rất bé nhỏ.

 

Khi ấy, người Do thái tụ tập về đây cũng khá nhiều. Điều đó cũng không có gì là bất thường cho lắm. Họ gặp nhau vào ngày Sabát, dọc suốt lên bờ sông Gargai. Chính ở nơi này, Phaolô thánh-nhân đã thâu nhận một số nữ phụ lành thánh, trong đó có chị Phryđia từng là dân ngoại biết kính sợ Chúa và chị cũng đã thực hiện nhiều công tác xã hội rất đáng kể.

 

Tiếp đó, đoàn lại đi Thessalônikê, thủ phủ chính của Maxêđônia cách đó chừng 100 dặm. Vào năm 42 trước Công nguyên, người La Mã từng tới đây để sinh sống rồi biến nơi này thành đất miền tự do, cho mọi người. Nơi này, chẳng bao giờ là thuộc địa của ai hết. Thủ phủ này có đường lối quản trị rất riêng tư, nhưng không kiểu cách. Và những người sống ở đây có thói quen sùng bái Hoàng đế, rất bề thế.

 

Phaolô thánh-nhân và bạn đạo Sila cũng đã thành công ở nơi này, nhưng không tránh được rắc rối cứ xảy đến. Các ngài lại phải bỏ nơi đó mà đi Bê-rê-a cách đó chừng 50 dặm về phía Đông Nam. Đây là chân đồi thuộc rặng Ôlympia, nằm chếch bên ngoài chính đạo, nhưng nó lại là chốn miền quan trọng. Ở đây, Phaolô thánh-nhân gặp một số người Do thái có đầu óc cởi mở, đầy nghị lực. Thế nhưng, rắc rối là những rối rắm đến từ Thessalônikê đã theo về, nên các ngài lại phải cất bước ra đi thêm lần nữa, đến Athêna.

 

Athêna, trước tiên là vùng đất trí thức, tức chốn miền văn hoá với các địa danh nổi tiếng như: Acrôpôlis, Parthênông, Athêna và Pathêô, vv. Phaolô thánh-nhân hân hạnh gặp được triết gia Êpicuriô và nhóm Khắc kỷ là những người từng mô tả thánh-nhân như “con vẹt” khi Phaolô nói về Đức Giêsu và sự Sống Lại. Họ đem Phaolô thánh-nhân đến đồi Arêpagus nhưng thánh-nhân biết tự bảo vệ chính bằng cách tuyên bố rằng mình là người thờ kính “Thần Vô Danh”, tức: Đấng có tế đàn đặt ở Athêna nên ông không bị họ kết tội là đã đem đến cho họ một đạo lý mới mẻ, rất khác lạ. Kế đó, thánh nhân lại chuyển về phía Tây cách đó chừng 50 dặm để đến trung tâm mậu dịch mang tên: Côrinthô. Thủ phủ Côrinthô được dựng xây từ năm 1000 trước Công nguyên, nhưng đã bị người La Mã phá hủy gần như toàn bộ vào năm 146 trước Công nguyên. Một trăm năm sau đó, Julius Xêda lại dựng xây nơi đó thành thuộc địa đặt dưới quyền cai trị của người La mã. Hồi thập niên ’50 và ’60 sau Công nguyên, đây là nơi trù phú nhất miền Nam Hy Lạp. Đồi Accrôcôrinthô cao hơn 1900 bộ chọc vút bên trên bán đảo Pêlôpônêsia. Nơi đây có dân số khá thưa thớt. Họ thường sống ở vùng sâu vùng xa, không thuận tiện, họ lại hay di chuyển đây đó, nên cũng khó. Nơi đây, có cả ngàn nữ-phụ vừa là nô lệ vừa là gái điếm, sinh hoạt tại ngôi đền thờ sung kính nữ thần Aphrôđita cũng năng động, như sinh hoạt ở thành phố ngay bên dưới.

 

Phaolô thánh-nhân lưu lại nơi đây chừng 18 tháng. Khi người Do thái không còn muốn nghe thánh-nhân rao giảng nữa, ông lại cất bước ra đi để về với người ngoại giáo. Ở đây, có hai nhân vật nổi tiếng là Titô Justô sống ở gần bên hội đường, và Krispô là trưởng hội đường từng làm những việc lành thánh nay hồi hướng về với thánh Phaolô. Lúc bấy giờ, người Do thái lại bốc đồng, nổi nóng khi họ thấy mình đã bị mất đi người một bạn rất tốt và cũng là người trợ tá đắc lực về tài chánh, nên mới đem Phaolô ra trước toà tổng trấn Galliô cáo buộc là thánh nhân vi phạm luật Torah của người Do thái. Galliô thấy đó chỉ là tranh chấp giữa người Do thái với nhau thôi, nên ông đã rửa tay, bãi luận tội. Điều này thực sự tạo cho Phaolô thánh-nhân và thành viên trong nhóm rơi vào tình huống giống như Đế quốc La Mã từng đối xử với người Do thái, thời trước đó.

 

Phaolô thánh-nhân lưu lại ở đó một ít ngày rồi từ cảng Kenkrêa ở Côrinthô, ông lên thuyền đi Êphêsô, một hải cảng lớn nằm phía bên kia biển Ê-giê. Đây là thủ phủ thuộc miền Tiểu Á của người La Mã. Nơi đây, có công trình đẹp đẽ nhất địa cầu thời bấy giờ, đó là đền thờ nữ thần Artêmi mà người La Mã vẫn gọi bà là Điana, nữ thần săn bắn và mắn đẻ.

 

 

HÀNH TRÌNH GIAI ĐOẠN 3      

 

Vào cuối giai đoạn 3 của hành trình mục vụ do ông thực hiện, Phaolô thánh-nhân lại về với Giêrusalem chốn phồn hoa đô hội. Ở đây, ông bị cộng đoàn Do thái buộc cho cái tội là đã tuyên truyền chống đối luật Torah và chỉ nhằm đem những điều không mang tính Do thái đưa vào đền thờ dành cho người Do thái. Tội như thế, có thể dẫn đến hình phạt dễ bị xử tử. Điều này, xem ra không có cơ sở để luận tội. Và khi ấy, dân quân người La Mã bèn xúm vào can thiệp và bắt giữ Phaolô thánh-nhân chỉ vì họ vẫn cứ lầm lẫn cho ông là tay “Ai Cập” sừng sỏ từng nổi loạn đến khiếp sợ. Từ đó, thiên hạ lại cứ bàn ra tán vào về chuyện ra roi đánh cho Phaolô một trận, nhưng câu chuyện chấm dứt ngay ở đó, bởi họ nghe nói Phaolô là công dân La Mã chính hiệu, nên cũng khó lòng thực hiện ý đồ họ nghĩ ra.

 

Sau khi được trả tự do, thánh Phaolô lại gặp nhiều rắc rối khác với vị Thượng Tế tên là Ananias. Lúc ấy, thánh nhân đã biết khôn nên cứ tự coi mình là người Biệt Phái. Thế nên, nhóm Biệt Phái theo Sanhêdrin mới kéo ông về phe họ để chống lại bè Xađuxê. Trong nhóm này, có cả Thượng Tế nữa. Lập tức, Phaolô thánh-nhân đề cập đến vấn đề Sống lại, và phe nhóm hôm ấy bèn chia làm hai. Viên tổng quản người La Mã thấy vậy bèn ra lệnh nhốt Phaolô vào tù ở Giêrusalem. Khi ấy, cháu của Phaolô bèn kể lại cho vị tổng trấn này nghe câu chuyện người Do thái lập mưu ám sát Phaolô thánh nhân trên đường từ trại giam đến toà xử. Thế nên, Clauđiô Lysias, là quan toà người La Mã đến thay thế bèn ra lệnh chuyển Phaolô giao cho Xêda thụ lý có quân binh hộ tống rất cẩn thận, hầu đưa ông ra trước toà Fêlix khi ấy làm trấn thủ miền Giu-đêa, vào niên biểu từ 52-60, sau Công nguyên. Ở đó, thánh nhân bị ngài Trưởng Tế cầm đầu phe nhóm tố cáo Phaolô có ý đồ lập bè rối nhằm chủ đích bôi bẩn Đền thánh Giêrusalem vốn rất thanh sạch. Vị Trưởng Tế yêu cầu tống xuất Phaolô về cho quan quyền người Do thái ở Giêrusalem để xét xử, nhằm áp đặt và thực thi án tử hình đề ra cho ông. Yêu cầu này bị khước từ. Và, Phaolô thánh-nhân chỉ bị giữ chân tại nhà, ở Xêdarê một thời gian thôi. Trong thời gian này, Fêlix và vợ ông là Druscilla lại đã nghe Phaolô diễn giải nhiều điều – thật ra, thì Fêlix không có đạo và có thể ông cũng hy vọng là bị can sẽ đút lót cho ông. Thành thử, về mặt luật pháp mọi người đều thấy thật khó lòng xử trí. Bởi, ai là người sẽ xét xử Phaolô thánh-nhân đây? Và xử như thế để làm gì?

 

Và khi ấy, Festus đã trở thành tổng trấn từ năm 60 và ông được giao cho thụ lý vụ của Phaolô. Ngay lập tức, lợi dụng tình thế đã đổi thay, vị Thượng Tế lại yêu cầu đòi xét xử vụ dẫn độ thánh Phaolô; và chừng như lúc ấy cũng có âm mưu đen tối nhằm sát hại Phaolô trên đường từ Xêdarê về Giêrusalem. Chuyện này cũng lại bị Festus chối từ. Vị Thượng Tế bèn cùng với phe nhóm của ông đích thân đến Xêdarê để cáo buộc Phaolô một tội hình sự là dám chống lại luật Torah, chống cả Đền thờ và Hoàng đế, nữa. Festus bèn đề nghị thánh Phaolô hãy tự nguyện đi Giêrusalem và biện hộ cho chính mình khi ở trước mặt người Do thái. Lúc đó, Phaolô thánh-nhân đã chối từ mọi sự viện cớ bảo rằng ông là công dân La Mã nên phải được xét xử trước toà của Xêda. Điều ông yêu cầu đã thành tựu.

 

Nhưng, trước khi Phaolô được dẫn đi Rôma, vua Do thái là Agrippa II và chị của vua là Bêrênice đã đích thân đến Xêdarê thăm viếng và nghe ông giảng giải. Và, Festus lại nghĩ rằng Phaolô thánh-nhân đã lên cơn điên, nhưng Agrippa lại mỉa mai nói: nếu ông mà nghe Phaolô nói thêm nhiều điều nữa, chắc rồi ông cũng sẽ hồi hướng mà trở về với Đạo của thánh-nhân, thôi.

 

Mùa Thu năm 60, Phaolô thánh nhân lên thuyền đi xa, có sự hộ tống của binh đội người La Mã và thuyền ông lại bị phong ba nổi lên vùi dập suốt hai tuần liền, ngay gần đảo Crêta để rồi cuối cùng lại mắc cạn, ở Malta. Ở đó, Phaolô thánh-nhân lại một lần nữa, đã thoát chết vì rắn độc quấn ngang tay.

 

Ở Rôma, ông bị giữ tại nhà riêng trong căn hộ do ông thuê mướn, lúc nào cũng có lính canh suốt ngày đêm. Nhưng, tại nơi này, ông vẫn có thể giảng giải Tin Mừng của Chúa cho nhiều người và được nhiều vị đến thăm hỏi mà chẳng gặp ngăn trở nào hết. Câu chuyện như thế kéo dài cũng đến hai năm. Không thấy nói và cũng chẳng thấy ai ghi chép lại là ông bị xét xử thêm một vụ nào nữa ở Rôma, trong thời gian này. Khoảng giữa thế kỷ đầu, Eusêbiô lại cứ bảo: Phaolô thánh-nhân đã bị chém đầu tại Rôma dưới thời Nêrô, tức trước năm 68.                   

 

Cuối sách Công Vụ và đặc biệt là đoạn nói về cuộc tử đạo của Phaolô thánh-nhân, người đọc được bảo là Patrôclus, người hầu rượu cho Nêrô đã bị rơi từ của sổ phòng ông đến suýt chết. May có Phaolô ra tay giúp anh ta phục hồi sinh lực. Khi ấy, Nêrô nghe biết anh ta vẫn còn sống, nên đã có phản ứng tin rằng rồi ra Đức Chúa sẽ tìm cách lật đổ chính quyền La Mã; chính vì thế, nên ông mới ra lệnh giết càng nhiều người theo Đạo càng tốt, trong đó có Phaolô nữa. Chuyện này, cũng nên đặt dấu hỏi về tính cách sử học của lời đồn đại.

 

Có điều cần ghi chú là ở nguyện đường Đức Mẹ phù hộ các giáo hữu ở La Mã, nơi đó có đến 1601 bức tranh vẽ về thánh Phaolô trên đường đi Đamát, do nghệ nhân Caravaggio thực hiện. Nêrô lúc đầu cũng được chôn cất tại nơi này. Như thế là kỳ phùng địch thủ gặp nhau ở một chỗ!!

 

Trên đây là truyện kể khá dài giòng về “thánh Phaolô”, rút từ sách Công Vụ. Tuy là thế, nhưng điều này không có nghĩa đây là chuyện thật về Phaolô thánh nhân.

 

Một lần nữa, cũng không cần phải kể dài giòng đủ chi tiết những gì đã xảy đến, mỗi khi ta nói về Phaolô theo tính cách sử học. Điều này chỉ ăn khớp với thánh Phaolô theo ý niệm rộng rãi về nguồn gốc của Đạo Chúa ở Giu-đêa đã truyền sang tận Đế quốc La Mã. Thánh Luca là người thích hợp với vấn đề này hơn cả.

 

                                                                    -------------

 

 

TRUYỆN KỂ ĐỂ CHO VUI: 

CUỘC ĐỜI THỰC CỦA THÁNH PHÊRÔ

VÀ QUAN HỆ GIỮA THÁNH PHAOLÔ VÀ PHÊRÔ

 

Simôn Ba-Giôna (tức Simôn con ông Gioan) còn gọi là Kêpha (tức Đá Tảng) đến từ Bétsaiđa/Caphanaum. Ông là thủ lãnh nhóm dân chài, làm chủ nhân chiếc thuyền đánh cá, và có thể lại cũng làm chủ căn hộ nào đó, nơi ông sống chung với em trai mình là Anrê. Ông đã có vợ. Và, mẹ vợ của ông được Đức Giêsu chữa lành. Sau ngày Chúa Phục Sinh, ông cùng vợ mình lập hành trình rao giảng tin rất vui mừng về Đức Giêsu Kitô.

 

Thánh Phêrô là thành viên –dĩ nhiên là đấng sáng lập- nên cộng đoàn khép kín gồm bạn bè của Đức Giêsu. Ông là phát-ngôn-nhân của nhóm. Ông đại diện cho nhóm vẫn nói rằng Đức Giêsu không phải là Gioan Tẩy Giả nay sống lại, cũng không là Êlya, lại chẳng là bất cứ ngôn sứ già nào khác nay quay về từ cõi chết, nhưng Ngài là Đấng Mêsia. Đức Giêsu bất đồng ý kiến với Phêrô. Chỉ mỗi thánh Mátthêu là người từng dùng văn chương Phúc Âm để nói lên rằng Phêrô được đặt tên như thể để tượng trưng cho viên đá tảng, trên đó Đức Giêsu thiết lập Hội thánh của Ngài, mà thôi.

 

Trong cơn thống khổ, Đức Giêsu đã bị bắt và bị hãm hại cho đến chết, Phêrô là người từng chối bỏ Thầy mình, rồi lẩn trốn. Có người lại nghĩ: Phêrô là người đầu tiên phát giác ra Thầy mình đã sống lại, nhưng không chắc.

 

Trong Công Vụ, Phêrô thánh-nhân nắm giữ vai trò lãnh đạo cộng đoàn dân Chúa ở Giêrusalem. Chính ông là người từng đề nghị cho người thay thế cho vai trò của Giuđa Iscariốt. Cũng chính ông là người đã nói trước đám đông quần chúng ở Giêrusalem sau lễ Ngũ Tuần. Và chính ông đã nói thay cho nhóm của mình ở Đền Thờ và tại Sanhêdrin. Sách Công Vụ còn kể về sự kiện Cornêliô, trong đó đề cập đến công tác mục vụ của thánh Phêrô từng giảng cho dân ngoại. Thánh Phêrô và một số người khác chừng như đã tỏ ra khá lúng túng về tài thu hút quần chúng. Xem ra, thánh nhân từng nghĩ rằng sự hiện diện của Nhóm ở giữa người ngoại giáo đã miễn cho các ngài không buộc trở thành Do thái trước khi gia nhập về với Đạo. Sách Công Vụ còn mô tả thánh Phêrô là người từng dấy lên công cuộc mục vụ cho Samaria đối lại điều Chúa muốn, có đề cập ở Tin Mừng. Thánh nhân đả kích Simôn Magus về chuyện mua chuộc bằng tiền bạc để được nói trước công chúng và lôi cuốn mọi người. Chừng như, thánh nhân cũng đi Rôma, ít nhất là để thực hiện chuyện đeo đuổi Simôn Magus. Xem ra có phần chắc là thánh Phêrô không là sáng lập viên của cộng đoàn Rôma. Ông cũng bị nhốt tù vào thời Agrippa đệ Nhất, nghĩa là trong các năm từ 41 đến 44. Có thể, thánh nhân cũng đã đến Rôma vào thời Claudius trị vì (tức từ năm 41-54). Theo truyền thống phổ biến thời sau này, thì thánh nhân cũng đã gần gũi thánh Máccô, và đã gặp Philô ở nơi đó. Thánh Phêrô bị xử chết treo trên thập tự vào thời Nêrô trị vì (tức 54-68).

 

Các chi tiết trên đây, tuy là thế vẫn cần phân tách kỹ. Cũng như những điều được viết trong sách Công Vụ nếu muốn xét về tính sử học ở mọi chuyện, có như thế mới đáng để ta tin. Thánh Phêrô ở sách Công Vụ không nhất thiết phải giống hệt một như Phêrô lịch sử.

 

Hai thư được gán cho Phêrô là tác giả, đều không do thánh nhân viết. Thư thứ nhất gọi là của Phêrô thường được định vị vào thời gian quanh niên biểu 100 sau Công nguyên (về chuyện này cũng có nhiều ý kiến rất khác biệt). Tác giả J. Elliott lại cứ nghĩ rằng: thư thứ nhất Phêrô chỉ là thư gửi rộng rãi cho các cộng đoàn kẻ tin không ở thủ phủ nào nhất định, xuyên suốt các thành thị cũng như quận lỵ ở Tiểu Á. Theo nghĩa đó, ta chỉ có thể nói rằng đây là loại thư rất “Công giáo”, gửi đến các xứ miền như Pontus, Galát, Cappađokia, Tiểu Á và Bithynia, vv. Nghĩa là một chu vi rộng đến 129,000 dặm vuông. Ở đây cũng nên nhớ: địa bàn hoạt động của thánh Phaolô còn lớn hơn nhiều. Lúc đó, là thời điểm có tranh chấp rất xã hội giữa các vị quyết dấn bước theo chân Chúa và những người gần cận với các ngài. Riêng ở Bithynia, Pontus và Capađôkia không có chứng cứ sử sách nào xác minh được sinh hoạt của Phaolô thánh-nhân, ở nơi này. J. Elliott lại sẽ định rõ tháng ngày cho các thư như thế vào trước niên biểu 70 hoặc 75 sau Công nguyên. Nhưng thật ra, có thể trễ hơn thế, rất nhiều. Phần lớn câu chuyện nói ở đây là nói về tình trạng không có nơi ăn chốn ở, trong xã hội cũng như về việc “có chỗ ở đậu” rất đàng hoàng tử tế, trong nhà Chúa.

 

Thư thứ 2 bảo là của thánh Phêrô, có thể đã được viết trước sau năm 125 Công nguyên. Ở thư thứ hai được gọi là của thánh Phêrô này, người viết xem ra cũng thấy khó để nói những lời nhẹ nhàng về tương quan hai chiều giữa thánh Phêrô và Phaolô. Thư này nói về Phaolô bằng từ ngữ rất dễ thương như: “bào huynh Phaolô thân thương”, cả vào khi thánh nhân bảo: Phaolô là người khó mà hiểu được ông và ông đã trở thành mối hiểm nguy đối với những người thất học và không ổn định về mọi chuyện.

 

                                                            ----------------

 

TIẾP NỐI SỨ VỤ TÔNG ĐỒ

 

“Chuyện thường tình”, là ta vẫn có danh sách gồm các vị giám mục từng là Đấng chủ quản rất cả thể (ở Rôma, Antiôkia, Alexandria) kéo xuống tận thời đại của các thánh tông đồ.

 

Câu chuyện như thế, đến từ Eusêbiô, người chủ trương phổ biến thư ấy. Eusêbiô sống vào những năm tháng từ 275-339.

 

Eusêbiô tuỳ thuộc Julius Africanus, là người viết lên biên niên sử vào năm 220. Julius được coi là cha đẻ ra lối viết về biên niên sử của Đạo Chúa. Ông tạo ảnh hưởng lên các nhà viết về thời sự Hy Lạp, thời bấy giờ. Ông đã đề vào đó niên biểu khởi đầu là từ năm 5499 trước Công nguyên. Ông là người châu Phi, từng hồi hướng trở về với Đạo Chúa và xem ra ông từng học trường đạo ở Alexandria.

 

Julius cung cấp một danh sách gồm các vị giám mục thành Rôma, Antiôkia và cả ở Alexandria nữa, tức những tài liệu hỗ trợ cho các nhà nghiên cứu khả dĩ đi ngược thời gian về tới các thánh tông đồ. Đây là danh sách được Eusêbiô giữ lại để làm sổ sách. Danh sách này có giám mục Êvôđiô thành Antiôkia được thánh Phêrô bổ nhiệm rất sớm sủa, chừng như vào đầu thập niên ’40 thì phải. Lại có Linô làm giám mục thành Rôma cũng do thánh Phêrô và Phaolô chỉ định. Ngoài ra, còn có Máccô giám mục thành Alexandria đương nhiên vẫn nối kết chặt chẽ với Phêrô thánh-nhân. Định vị thời gian theo đó thánh Phêrô về với Rôma sớm như thế, tức là đã đi ngược lại những gì nói trong sách Công Vụ. Và, nếu nói Phaolô thánh nhân cũng dính dự vào chuyện chỉ định các đấng bậc chủ trì thành Rôma đại loại như thế thì xem ra cũng không thể nói được là đúng, đặc biệt lại quá sớm. Vả lại, cũng không thấy có chuyện sùng kính thánh Máccô ở Alexandria cho đến thế kỷ thứ tư, mãi sau này.

 

Về danh sách các giám mục chủ quản thành La Mã, đứng đầu là thánh Phêrô. Nhưng chừng như Julius lại cứ nghĩ là thánh nhân đã rời Palestin vào đúng năm hoặc chung quanh niên biểu thứ 42 sau Công nguyên, khi đó thánh Giacôbê con của Zêbêđê đã bị giết và cả khi Giacôbê đấng Công chính lại đã trổi lên trở thành lãnh đạo Giáo hội ở Giêrusalem. Điều này, còn có thể chấp nhận là trùng hợp với sách Công Vụ.

 

Julius lại đã nghĩ là các giáo hội ở Rôma, Antiôkia và Alexandria được sáng lập quanh thời gian này, tức là vào đầu thập niên ’40 ở thế kỷ đầu, đặc biệt hơn cả là vào thế vận hội Olympiad từ năm 41-44. Ông cho rằng các giáo hội này là do thánh Phêrô lập nên hoặc được sáng lập vào nhiệm kỳ Phêrô thánh nhân làm thủ lãnh các tông đồ của Chúa.

 

Thánh Phêrô sau đó, có thể đã rời Palestin đi Antiôkia để thiết lập hội thánh ở nơi này và đã chỉ định Êvôdius làm giám mục chủ quản tiên khởi, trước mọi người. Sau đó, Julius lại đưa ra một danh sách gồm sáu giám mục chủ quản giáo hội từ thời Êvôdius đến năm 180 Công nguyên. Nếu thế thì, con số các vị đảm nhiệm trong thời gian dài như thế, lại quá ít, nếu ta hiểu được rằng tuổi thọ của các vị sống vào thời đó, cũng không kéo dài như hôm nay.

 

Julius tính toán ngày giờ theo kiểu nhảy cóc định vị thời gian cho các giám mục chủ quản giáo hội sớm hơn hơn thực tế đã xảy ra như thế. Và sau đó, ông lại định ngày Ignatiô thành Antiôkia bị giết đúng vào thời Trôhan trị vì. Như thế, cững không đúng với thực tế gần như chắc chắn là Hadrian chứ không phải vào thời của Trôhan.

 

Có thể là, lúc đó Phêrô thánh-nhân đã đi Rôma để thiết lập hội thánh ở đây và thánh nhân lựu lại ở nơi này cho đến ngày qua đời vào thời gian chừng 20 năm sau ngày đó. Thật ra thì, một số truyền thống của người La Mã lại nói rằng cả hai thánh Phêrô và Phaolô đều được Linô chỉ định làm giám mục chủ quản đầu tiên thành Rôma. Ít năm sau đó, truyền thống La Mã lại bảo là thánh Phêrô là giám mục đầu tiên ở thành này.

 

Thánh sử Máccô –mà Papias từng gọi ông là nhà chú giải của thánh Phêrô- theo bản ghi chú của Julius thì thánh sử cũng đi Rôma để rao giảng tại Ai Cập và đặc biệt hơn cả, là ở Alexandria. Điều này tạo cho giáo hội ở Alexandria một chút tính chất rất Phêrô. Nói thế cũng không có gì làm chắc cho lắm, bởi không có chứng cứ lịch sử nào dám xác định là thánh Máccô có mặt ở nơi này, chỉ đến thế kỷ thứ 4, mà thôi.

 

Xem ra, ở thời điểm ấy đã có nhu cầu thiết lập các vị đáng tin cậy để kế nghiệp vị quản cai Giáo hội cả thể từ các thánh tông đồ, đặc biệt hơn cả là từ thánh Phêrô vị đá tảng của Hội thánh. Ý kiến thông thường, từ Julius cho đến Eusêbiô, là những người từng dựng nên ảnh hình có động lực tạo được từ một chính kiến khá thông thoáng. Cả vào khi ta thấy có khó khăn để thiết định năm tháng ngày giờ theo tính sử học về đấng kế vị thánh cả Phêrô, thì nhu cầu nối kết mang tính biểu tượng nhất với thánh Phêrô là những chi tiết có từ các tài liệu sớm sủa ta từng có, mà thôi.

 

Thư tịch để đọc thêm:

 

Jerome Murphy-O’Connor, Paul – a Critical Life, Oxford University Press, 1996 tr. 26-30;

                                         The Ministry of Women, như đã dẫn, tr. 289-290;

                                                The Collection, như đã dẫn, tr. 144-146.

                                                                                                                                    (còn tiếp)

 

____________________                                                              

Lm Kevin O’Shea CSsR,

Mai Tá luợc dịch