Các thánh tử đạo thăng hoa văn hoá Việt Nam

Bài 3:Nâng Cao Và Phúc Âm Hóa Đạo Cổ Truyền

NÂNG CAO VÀ PHÚC ÂM HÓA ĐẠO CỔ TRUYỀN

Trong thời các thánh tử đạo, dân tộc Việt Nam đã có một nền văn hóa và tâm linh tôn giáo cao độ. Mỗi người Việt Nam sinh ra lớn lên là con người có tôn giáo, con người có văn hóa. Vì thế đất nước Việt Nam là cánh đồng phì nhiêu đón nhận mọi tôn giáo. Tôi thấy hợp lý nhận định sau đây của linh mục Nguyễn Hồng: "Trước hết trong người dân Việt Nam và trong xã hội Việt Nam lúc đó, đã có sẵn một cánh đồng đón nhận hạt giống Tin Mừng. Với những hoàn cảnh thuận tiện, nơi đất tốt, hạt giống nảy mầm, lớn lên thành cây to, mang quả nặng" (1). Tôi cũng nhất trí với ông Trần Ngọc Thêm trong lời khẳng định, khi 'Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam': 'Tôn giáo là yếu tố hết sức phong phú và đa dạng tạo nên nền văn hóa Việt Nam' (2). Phải chăng, vì ý thức sâu đậm điều đó nên ông Phan Thiết đã nói lên cách vắn gọn 'Đất Việt, Người Việt và Đạo Việt' (3). Trong dòng tư tưởng trên đây, bài viết này muốn chứng tỏ: hơn ai hết, các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã sống, đã nêu bật, đã làm sáng rộ tuyệt vời những điểm cốt lõi của đạo cổ truyền Việt Nam.

I. CỐT LÕI CỦA ĐẠO CỔ TRUYỀN

Đâu là những nét độc đáo của Đạo Việt, nghĩa là của tôn giáo cổ truyền Việt Nam? - Tôi nghĩ đến những điểm sau đây: Thờ Trời, tôn kính tổ tiên, linh hồn bất tử.

1. Thờ Trời:

Đây là một 'niềm tin' được coi như tự nhiên, 'thiên bẩm' nơi hầu hết người Việt Nam. Sau này, nếu là Phật tử, họ vẫn giữ ý niệm 'Trời, Phật', nếu là Nho sĩ, họ thấy giá trị của con người là 'sống theo thiên mệnh'. 'Trời' rất gần gũi với mọi người, trong mọi hoàn cảnh vui buồn, sướng khổ, may mắn rủi ro, miệng họ vẫn thốt ra dễ dàng 'Trời ơi'. (4) Đức hoàng Bảo Đại đã nhận định rất xác đáng: "Đối với dân chúng Việt Nam, cũng như đối với vua, Trời là bậc chí tôn, độc nhất vô nhị, không hình hài. Người ta khấn vái nguyện cầu Ngài, vì tất cả đều nằm trong tay Ngài. Ngài là Đấng Tạo Hóa bất diệt và thuần nhất. Tín ngưỡng dân gian coi linh hồn là bất tử" (5). Vì coi Trời là Đấng chí tôn, độc nhất vô nhị, nên người dân Việt Nam tuyên xưng:

• Trời dựng nên mọi sự: Mọi sự bởi Trời, Trời sinh ra đã làm người, Ai làm ra suối ra sông? Ra đồng, ra núi, ra rừng, ra ao? Ai dựng đất thấp, trời cao? Muôn vật dưới đất, muôn sao trên trời? - Gẫm suy mọi sự bởi Trời.

• Trời lo cho mọi loài: Trời sinh trời dưỡng, Trời sinh voi trời sinh cỏ, Trời sinh ra ta làm người, Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, Trời có cho mới được.

• Trời điều khiển trật tự vũ trụ, xoay vần lịch sử và đời sống con người… Trời nắng cho lúa chín vàng, Cho anh đi gặt cho nàng mang cơm. Trời sinh Trời chẳng phụ nào, Công danh gặp hội anh hào ra tay. Khi nên Trời giúp công cho, Làm trai năm liệu bảy lo mới hào, Trời cho, hơn lo làm…

• Trời đáp lại những lời cầu xin. Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy bát cơm đầy, Lấy khúc cá to. Lạy Trời cho cả mưa rào, Cho sấm cho sét, cho ao tràn bờ, Cho sen chìm xuống, cho bèo nổi lên.

• Trời là Đấng Chí Công: Trời quả báo, ăn cháo gãy răng, Ăn cơm gãy đũa, xỉa răng sưng hàm. Trời có mắt, Trời bất dung gian, Tránh Trời không khỏi nắng.

• Trời bị người đời than trách, coi mọi tai họa, rủi ro là tại Trời: Quyền hạnh phúc Trời tranh mất cả, Chút tiện nghi chẳng trả phần ai. Cái quay búng sẵn trên trời, mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm. Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán, chết đuối người trên cạn mà chơi. Ngẫm suy mọi sự tại Trời, Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao (Kiều).

• Trời nhân từ hay thương giúp. Trời đánh còn tránh miếng ăn, Trời sinh chẳng phụ ai, Khi nên Trời giúp công cho…

• Trời là Cha: Xưa kia chỉ biết kêu trời, Mà nay đã biết gọi Trời là Cha. Trần gian chẳng phải là nhà, Đi về vĩnh cửu gặp Cha trên trời.

Như trên chúng ta thấy lòng tin vào Trời của người Việt Nam xuất hiện cùng với ca dao tục ngữ. Chúng ta còn một nguồn liệu khác, nói lên niềm tin quý hóa này, đó là nhiều truyện cổ tích bày tỏ tín ngưỡng thờ Trời của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa. Chẳng hạn:

• Truyện 'Đồng Tử và công chúa Tiên Dung, con gái Hùng Vương'. Truyện này giống như truyện 'An Tiêm và quả dưa đỏ', mục đích chứng minh 'dân ta tin vào sự quan phòng của ông Trời'.

• Truyện 'Thần sông Như Nguyệt': thần sông Như Nguyệt là hai anh em Trương Hồng và Trương Hát đã linh ứng cho Lý Thường Kiệt bài thơ huy động quân Nam đánh thắng quân nhà Tống. Đó là bài:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thu,

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Ý nghĩa của bài thơ là: Đất nước Nam của vua nước Nam, Trời đã định như thế, sách Trời đã ghi như vậy, quân xâm lăng đừng hòng nhòm ngó, mà chuốc lấy thảm bại.

• Truyện 'Ngọc Hoàng Thượng Đế (Trời) với Công Chúa Hà Giáng Kiều và chàng Tú Uyên' vào thời vua Lê Trang Tôn. Câu chuyện chứng tỏ: Trời là Đấng chí nhân, chí thiện, trổi vượt trên mọi chư thần (6).

2. Tôn kính tổ tiên.

Trong đạo cổ truyền của dân Việt Nam, sau 'thờ Trời' là 'kính Tổ Tiên'. Đây cũng là một linh đạo tôn giáo rất tự nhiên và gắn liền với đạo thờ Trời. Tôn kính tổ tiên là tôn kính người thân thương đã 'quy thiên', đã 'về trời' (7). Qua ca dao tục ngữ hay văn học dân gian, qua truyện cổ tích hay qua các sách giáo khoa, chúng ta đón nhận được nhiều điều răn dạy phải tôn kính tổ tiên, tức là 'phải hiếu thảo với cha mẹ, phải trung tín với bậc sinh dưỡng', để 'công đức tổ tông nghìn năm thịnh, hiếu hiền con cháu vạn đời ngay' hay 'Tiên tổ danh thơm ghi sử sách, cháu con tích học nối cơ nhà'.

• Quan trọng của đạo hiếu: Tột cùng thiện, không gì hơn hiếu, Đạo làm con chớ hững hờ, phải đem chữ hiếu mà thờ từ nghiêm. Cù lao đội đức cao dày, phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thì tiết hạnh làm câu sửa mình. Làm trai nết đủ trăm đường, trước tiên điều hiếu đạo thường xưa nay. Dầu đui mà giữ đạo nhà, còn hơn mắt sáng ông cha không thờ (Đồ chiểu).

• Lý do phải hiếu thảo: Con người có tổ có tông, như cây có cội như sông có nguồn. Công cha như núi thái sơn, công mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Công cha đức mẹ cao dày, cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ. Nuôi con khó nhọc đến giờ, trưởng thành con phải biết thờ hai thân. Ơn cao quá núi đôi ngàn trượng. Hiếu đạo chưa đền ơn cúc dục, khuất còn thêm tủi phận làm con. Lễ sớm hương hôm lòng hiếu kính, Non cao biển rộng đức sinh thành. Mộc tùng căn trưởng, Thủy tự nguyên lưu.

• Thực hiện đức hiếu thảo: Mẹ già đầu bạc như tơ, lưng đau con đỡ, mắt lờ con nuôi. Cha mẹ ở tấm lều tranh, sớm thăm tối viếng mới đành dạ con. Sáng cơm, trưa cháo chiều trà, chăm cha chăm mẹ, tuổi già xa xăm, Đói lòng ăn trái ổi non, nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn nghĩa xưa. Chẳng thà tôi ăn đói mặc rách, để cha mẹ ăn no mặc lành. Tóm lại, như đức Khổng Tử nói với thầy Tử Lộ: "Nhà ngươi phụng sự song thân như thế rất là phải: lúc song thân còn thì hết lòng phụng dưỡng, khi song thân mất thì hết lòng thương nhớ". Bởi vậy, theo lời bàn của ông Nguyễn Văn Ngọc và ông Trần Lê Nhân: Lúc cha mẹ còn sống thì không cho ăn, đến khi cha mẹ chết không còn ăn được nữa thì ‘mâm cao cỗ đầy chỉ là làm văn tế ruồi mà thôi’ (CHTH 1tr. 59).

• Hiếu với cha mẹ là đùm bọc anh em, là trọn nghĩa vợ chồng và bằng hữu: Anh em một khí huyết rây, cũng như người có chân tay khác gì. Anh đi em ở lại nhà, hai vai gánh vác mẹ già con thơ. Chữ 'hiếu', chữ 'trung', là thày với mẹ, chữ 'nhân', chữ 'nghĩa' là vợ với chồng. Câu thơ ba chữ rành rành, Chữ 'trung', chữ 'hiếu' chữ 'tình' là ba. Chữ 'trung' thì để phần cha, chữ 'hiếu' phần mẹ, đôi ta chữ 'tình'. Thờ cha kính mẹ trước sau, anh em hòa thuận mới hầu làm nên. Vợ chồng đạo nghĩa cho bền, bạn bè cho thực dưới trên kính nhường.

Dở đọc cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư do các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đinh Phúc và Đỗ Thuận biên soạn, chúng ta thấy đạo hiếu được quan niệm thật rộng rãi: Hiếu thảo là sống tinh thần 'Gia Tộc', 'Chu toàn bổn phận đối với cha mẹ', 'Nhớ công ơn cha mẹ', 'Yêu mến cha mẹ', 'tôn kính vâng lời cha mẹ', 'Phụng dưỡng cha mẹ', 'Kính mến ông bà', 'Phụng thờ tổ tiên', 'Tình anh em trong nhà', 'Tình họ hàng', 'Nghĩa gia tộc', 'Bổn phận đối với tôi tớ, người làm, lão bộc', 'Bổn phận đối với thầy trò và bạn hữu' (8)

3. Linh hồn bất tử

Việc tôn kính tổ tiên hay đức hiếu thảo của người Việt trong truyền thống cũng như hiện nay khẳng định con người có linh hồn và bản tính của linh hồn là thiêng liêng và bất tử. Đối với người Việt Nam, 'việc có linh hồn và linh hồn bất tử là điều tự nhiên và hợp lý, điều này được trao truyền lại cho con cháu qua mọi thế hệ, và đương nhiên trở thành một điểm son của dân tộc tính và của nền văn hóa quê hương'. Vì thế, nếu đối chiếu với giáo lý đạo Phật, chúng ta có thể nói 'Đạo cổ truyền Việt Nam là đạo vị ngã, khác với đạo Phật là đạo vô ngã. Về sau đạo Phật đã khéo hòa nhập để, nên trong thực tế, đạo Phật đã 'đi từ vô ngã đến vị ngã'. Ngày nay, chế độ vô thần cũng không thể thay đổi gì trước 'niềm tin truyền thống của hầu hết người dân Việt Nam' (9). Người Việt Nam xác tín rằng:

• Linh hồn bất diệt: Xác là thể phách, hồn là tinh anh. Quả vậy, 'người ta tuy chia hai phần, xác thịt và linh hồn, và hai phần có liên lạc chặt chẽ với nhau như một'. Tuy nhiên, linh hồn bao giờ cũng quý hơn thân xác. Vì thế, khi nói về sự sống chết người xưa dạy rằng: "về sự sống chết thì không bằng ở thân xác có hay không, nhưng bằng ở phần hồn còn hay mất" (10). Thoát vòng sinh, tử lá lay, linh hồn chứng quả bồng lai an nhàn. Khi bàn về 'Quan niệm thờ phụng tổ tiên', ông Toan Ánh viết: "Đối với người Việt Nam, chết chưa phải là hết hẳn, thể xác tuy chết nhưng linh hồn vẫn còn và vẫn hằng lui tới với gia đình. Thể xác tiêu tan nhưng linh hồn bất diệt" (11). Vì thế, với người Việt Nam, việc tôn kính tổ tiên là 'đạo tự nhiên' và 'rất được coi trọng'. Cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes sj) đã nhận xét như sau: "Trên trái đất này có lẽ không một dân tộc nào chu toàn bổn phận hơn và tôn kính hồn xác người quá cố hơn người dân vương quốc An-Nam… Tại An-Nam cũng có ba tôn giáo như ở Trung Quốc (Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo), nhưng việc sùng bái vong linh tổ tiên vượt hết những gì người Âu châu có thể nghĩ tới. Họ vất vả rất nhiều để tìm đất đặt mồ mả, vì họ cho rằng: hạnh phúc toàn gia tộc đều phụ thuộc vào việc để mả này. Họ không tiếc tiền của, công lao để bày cỗ bàn tiệc tùng mấy ngày liền sau đám tang, rồi mỗi năm vào ngày kỵ, không bao giờ họ bỏ làm giỗ tổ tiên, tới tám đời, hoặc có khi tới mười đời" (12). Mới đây, như trên chúng ta đã trích dẫn, cựu hoàng Bảo Đại khẳng định 'Tín ngưỡng dân gian coi linh hồn là bất diệt'.

• Linh hồn gần gũi với gia đình tại thế, Khi nói về việc cúng giỗ, người Việt Nam quan niệm (cách sai lầm) rằng: 1) hồn người quá cố có thể tự do trở về nhà con cháu. 2) Người quá cố có thể về ăn thịt dự tiệc với những người sống. 3) Sức khoẻ của người còn sống, sự an bình thịnh vượng của gia đình nhiều ít lệ thuộc ông bà, cha mẹ quá cố (13) Như vậy giữa vong linh người quá cố và gia đình con cháu tại thế có một sự 'gần gũi thân mật', như linh mục Léopold Cadière ghi lại: "Gia đình theo nghĩa rộng không chỉ gồm người sống mà cả người chết. Các mối liên hệ giữa người quá cố với người còn sống của đại gia đình không bị lỏng lẻo hay suy giảm bởi cái chết. Ngược lại, qua việc tôn kính tổ tiên, các mối liên hệ kia được thần thánh hóa và trở nên kiên vững và trường cửu… Tóm lại, đối với đại đa số người dân Việt Nam, ông bà vẫn tiếp tục là thành phần, sống gần gũi với gia đình…" (14) Những điều trên được diễn tả trong các bài khấn gia tiên. Trong cuốn Thọ Mai Gia Lễ, ông Chu Ngọc Chi cho chúng ta đầy đủ các bản văn bằng hán ngữ và bằng quốc ngữ. Sau đây là một văn khấn được coi là phổ thông nhất:

Cung cúc bái trước bàn thờ,

Kính dâng lễ bạc hương hoa rượu trầu,

Cùng là phẩm vật trước sau,

Lòng thành tâm nguyện thỉnh cầu gia tiên:

Cao tằng tổ khảo đôi bên,

Cao tằng tổ tỷ dưới trên người người,

Cô dì chú bác kính mời,

Đệ huynh đồng thỉnh tới nơi từ đường.

Cúi xin hưởng chút lễ thường,

Và xin phù hộ khang cường toàn gia. (15)

II. NÂNG CAO CHỨ KHÔNG CHỐI BỎ CỐT LÕI CỦA ĐẠO CỔ TRUYỀN

Các Thánh Tử Đạo là những người đã sinh ra, lớn lên và được giáo dục trong bầu khí tôn giáo cổ truyền. Những gì là tinh tuý là cốt lõi của đạo truyền thống Việt Nam đã được vun trồng trong máu huyết, tâm trí và nếp sống của các ngài. Vì thế khi gia nhập Giáo Hội Công Giáo hay khi đón nhận Tin Mừng, các thánh tiền nhân của chúng ta không chối bỏ hay làm mất những tinh tuý và cốt lõi tôn giáo cổ truyền. Đúng hơn phải nói, nhờ ơn Chúa, nhờ giáo huấn Tin Mừng, nhờ lời dạy dỗ của các linh mục truyền giáo, nhờ đức cần mẫn trao truyền của cha mẹ và của các bậc đàn anh trong họ đạo, các ngài đã biết gạn lọc, bỏ đi những yếu tố dị đoan, những hình thức bên ngoài không cần thiết… hầu nâng cao đạo cổ truyền bằng việc đón nhận và sống chết với giáo lý Tin Mừng. Các thánh Tử Đạo đã thể hiện những điều đó qua việc thờ phượng Thiên Chúa, việc sống trọn đạo hiếu và niềm tin vững chắc vào chân lý 'linh hồn bất tử'.

1. Thờ phượng Đức Chúa Trời.

Nhờ có tâm hồn thuần thục với đạo cổ truyền 'thờ Trời', các ngài dễ dàng gia nhập đạo Gia-Tô, nghĩa là mau mắn tin vào Thiên Chúa và sống chết với đức tin bằng những hành động siêu nhiên, phong phú và anh dũng:

• Càng tin Chúa, càng mến Chúa: Ông Phanxicô Kam bị bắt năm 1723, tại Cao Mại (Bắc Kỳ) đã tuyên xưng đức tin trước mặt các quan: "Chỉ có luật của Thiên Chúa là chí thánh và đạo Ngài là đạo chân thật. Tôi tin Thiên Chúa, tôi mến Thiên Chúa. Tôi sẵn sàng đổ máu ra để đền tội và để tuyên chứng đạo Chúa vượt trên các đạo khác" (DMAH 1, tr.154-159) (16). Thày Phêrô Đào Văn Vân, người Sơn Tây, bị xử trảm 1857, đã dõng dạc tuyên xưng: "Bẩm quan, tôi thờ phượng Đức Chúa Trời vì tôi tin và yêu mến Ngài. Thánh Giá mang hình tượng của Ngài, tôi không khi nào dám đạp lên, sống hay chết tôi không khi nào bỏ đạo" (DMAH 3, tr.163).

• Càng sốt sáng cầu nguyện: Mỗi vị tử đạo là một gương sáng về việc cầu nguyện. Đặc biệt, các ngài xin quan cho giờ để cầu nguyện trước khi bị xử án. Trong thời gian bị tù đày, thánh Đaminh Mầu 'luôn đeo tràng hạt ra bên ngoài cổ và dành nhiều giờ để cầu nguyện' (DMAH 2, tr.196-197). Thánh linh mục Laurensô Nguyễn Văn Hưởng, người Ninh Bình, bị trảm quyết 1856. Trước khi chịu chém, ngài khuyên những người đứng vây quanh: "Dù bị hành hạ đến thế nào đi nữa, anh chị em cũng tiếp tục cầu nguyện cho chính quyền. Bây giờ, xin anh chị em yên lặng để tôi cầu nguyện dọn mình chết vì danh Chúa" (DMAH 3, tr.109-118). Cha Thánh Tịnh trong lúc ngồi tù, đã viết thư về thăm các chủng sinh của chủng viện Vĩnh Trị và khuyên: "Các thầy hãy chăm lo cầu nguyện. Người ta phần nhiều được ơn trở lại đạo, không phải do lời giảng khuyên nhưng bằng lời cầu nguyện" (DMAH 3, tr.147). Thầy Phêrô Đào Văn Vân, người Sơn Tây, bị xử trảm 1857, xin với quan án sát: "Tôi đã ngót 80 tuổi đầu, tôi không sợ chết mà trốn đâu. Quan chém đầu tôi, tôi xin chịu, tôi chỉ xin các quan thư thả cho tôi một chốc để cầu nguyện" (DMAH 3, tr.165).

• Càng hăng say phục vụ: Không biết bao nhiêu trường hợp các giáo dân bị bắt, bị phạt, bị tịch thu đồ đạc, bị đốt hết nhà cửa, và bị giết chết vì 'đã che chở, cho các linh mục, thày giảng trú ẩn trong nhà, hoặc giấu giữ các đồ thờ phượng'. Gương Thánh Micae Hồ Đình Hy tử đạo 1857 còn đó: Lòng đạo đức và lòng bác ái đã thôi thúc ngài làm nhiều việc giúp người khốn cùng, đặc biệt có lần ngài đã đem cai đội Khiêm, một người hút thuốc phiện đến thân thể tàn tệ xông mùi hôi hám về nhà riêng săn sóc. Chính ngài bưng cơm dọn giường và giặt quần áo cho ông cai xấu số này cho tới khi chết. Làm quan nhưng ngài chỉ coi đó là việc để có thể giúp đỡ Giáo Hội. Ngài không dám nhận bằng làm trùm và làm kẻ giảng phục vụ Giáo Hội. Trong thời cấm đạo ngặt, ngài vẫn không sợ hãi việc đón tiếp các thừa sai, dùng nhà mình làm nơi hội họp trong Tuần Thánh. Khi biết con mình muốn đi tu, ngài vui mừng dâng con cho Chúa không sợ tai tiếng ngoài đời. Đã nhiều lần, ngài muốn từ chức quan để dễ dàng phục vụ Giáo Hội hơn, nhưng vua Tự Đức tin tưởng không cho ngài từ chức" (DMAH 3, tr.151). Cũng vậy, cha Lựu, lúc ở trong tù, cổ đeo gông, ngài vẫn luôn vui vẻ với mọi người. Ngoài giờ đọc kinh, nguyện gẫm, cha còn cố gắng đan giỏ bán lấy tiền giúp các bạn tù nghèo (DMAH 3.257).

• Càng sẵn sàng từ bỏ tất cả vì đức tin: Thánh Micae Hồ Đình Hy, dưới triều vua Minh Mạng, được vào làm trong Bộ Công giúp việc nhà nước 31 năm, sau được vua thương ban cho tước tam phẩm, tước thái bộc giúp việc nhà vua. Nhưng ngay sau khi bị bắt, ngài bị vua quan lột hết chức tước, phẩm hàm, đóng xiềng và giam vào ngục. Ngài can đảm chấp nhận, cương quyết giữ đạo. Ngài bị trảm quyết tại Huế năm 1857 (DMAH 2, tr.150-160). Y sĩ Phan Đắc Khoa, khi được các quan dịu giọng khuyên bỏ đạo về làm thuốc nuôi vợ con, đã thưa cách can đảm: "Thưa các quan, dầu tôi phải mất vợ mất con, mất hết của cải và cả mạng sống nữa, tôi cũng không bao giờ bỏ Chúa tôi thờ (DMAH 2, tr.487).

• Càng quý trọng đời sống Bí Tích: Hầu hết các vị tử đạo, linh mục hay giáo dân, đều khao khát lãnh nhận bí tích Giải Tội và rước Mình Thánh, hoặc trong trại giam, hoặc trên đường đi đến nơi xử án, hay ngay tại pháp trường. Sau đây là ba trường hợp tiêu biểu: Ông cai đội Phanxicô Trần Văn Trung, người Quảng Trị, bị xử trảm 1858, khao khát được xưng tội trước khi chịu tử hình. Cha Thoại đã nhờ người dặn ông: "Trên đường đi ra pháp trường, nhìn về phía trước, thấy ai cầm điếu thuốc giơ cao lên ngang mắt, thì giục lòng ăn năn tội để lãnh phép tha tội" (DMAH 3, tr.194). Cha Phêrô Đoàn Công Quý luôn khuyên nhủ các bạn tù và thân nhân đến thăm viếng: "Anh chị em hãy siêng năng đến tòa giải tội và siêng năng đọc kinh". Rồi ngay trước khi bị xử tử, cha Quý còn ban phép giải tội cho ông trùm Phụng, người cùng được tử đạo một ngày với cha (DMAH 3, tr.223). Trong nhà tù Đồng Hới, cha Gioan Hoan gặp nhiều giáo dân bị bắt, ngài an ủi và giúp họ can đảm. Cha xin được lính canh làm ngơ cho nhiều người thân nhân tới thăm viếng họ. Cha cũng nhắn xin Đức Cha Sohier sai các linh mục lén vào cho ngài và tù nhân công giáo được xưng tội và rước lễ… (DMAH 3.tr. 265).

• Càng nhiệt tình truyền giáo: Đời sống đức tin của các thánh tử đạo được bộc lộ ra cách đặc biệt trong công việc truyền giáo. Thực ra trước khi bị bắt, các ngài đã là những người miệt mài 'đem Chúa đến cho tha nhân và đem tha nhân về với Chúa'. Ngay như anh binh sĩ trẻ tuổi Anrê Trần Văn Thông, người Thọ Đức (Huế), "trong sáu tháng tại nhà giam, anh vẫn tỏ ra vui tươi. Cách sống đơn sơ dễ thương của anh đã làm cho nhiều bạn tù mến phục. Lợi dụng bầu khí thân thương đó, anh Thông khích lệ các bạn tù, giúp họ đọc kinh, lần chuỗi và vững lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Anh cũng khuyên các người bà con đến thăm anh như vậy…" (DMAH 2. tr.69). Ông Gioan Baotixita Cỏn, bị xử trảm năm 1840, đã khảng khái thưa với quan: "Bẩm quan lớn, việc đem các đồ đạo và rước đạo trưởng về Kẻ Báng là chính tôi… Và tôi xin nói thật, tôi không quá khóa; nếu được quan tha về, tôi vẫn tiếp tục công việc đón đạo trưởng giữ các đồ đạo. Khi gặp các đạo trưởng Tây hay Nam, tôi cũng đón về ngay" (DMAH 2, tr.481).

• Càng sẵn sàng đón nhận ý Chúa: Tất cả các đấng Tử Đạo đều nhất trí 'coi mọi sự là bởi thánh ý Chúa'. Chẳng hạn linh mục Dominicô Nguyễn Văn Xuyên, bị trảm năm 1839, từ khi bị bắt đến lúc chìa đầu cho lý hình chém, chỉ nói một câu: "Tất cả là bởi thánh ý Chúa, tôi xin vâng nghe thánh ý Chúa" (DMAH 2, tr. 339+340). Linh mục Giuse Đỗ Quang Hiển đã nói một câu được coi như nguyên tắc chung của các Đấng Tử Đạo: "Tôi phải chạy, phải trốn… Nhưng nếu thánh ý Chúa lại định cho tôi bị bắt và chết vì đạo, thì càng hay, và tôi xin vâng" (DMAH 2, tr. 410). Riêng ông Martino Thọ, khi nghe ông Lý Mỹ, ông binh Đạt và ông binh Huy được phúc chết vì đạo, đã về tận nhà nói với vợ con: "Nếu thánh ý Chúa định cho tôi bị bắt và chịu khó vì đạo như quý ông, thì bà và các con hãy vui lòng vâng theo ý Chúa, đừng phàn nàn. Nếu bà và các con bị bắt thì cương quyết xưng đạo mạnh mẽ" (DMAH 2, tr.474)

• Càng sẵn sàng chịu nhục hình, tra tấn: Không một vị tử đạo nào mà không bị hành hạ và tra tấn. Có nhiều hình thức tra tấn và hành hạ. Cách chung, vị nào cũng bị đánh đòn, đeo gông, tra tấn. Vị nào cũng bị đánh roi mây, đánh roi trượng, đánh roi móc, quất vào mông, vào lưng, vào đầu gối… Nhiều vị mang gông tre, gông gỗ nặng trên vai, nhiều vị bị bỏ vào cũi, bị trói tay, xích chân… Nhiều vị bị chửi bới, nguyền rủa, xỉ nhục 'đồ ngu, đồ dại, đồ phản quốc, đồ bị mê hoặc…' Nhiều vị bị phơi nắng hay bị bỏ đói. Đa số các ngài bị kết án xử giảo, xử trảm, xử tử trôi sông và bêu đầu. Một số chết rũ tù vì bệnh hay vì đói khát. Một số khác chết trong cảnh đi đày… Đọc bất cứ một chuyện tử đạo nào chúng ta cũng thấy được điều đó. Ở đây, chúng ta chỉ nêu lên những trường hợp đặc biệt: Năm 1645, chúa Thượng Vương đã tức giận, ra lệnh chém cổ hai thầy Inhaxiô và Vinxensô, chặt ngón tay và cạo trọc đầu bảy thày khác (DMAH 1. tr.37). Năm 1665, ông Caiô 30 tuổi, cô Gioanna và hai thiếu niên khác bị quan trấn Quảng Nam ném vào chuồng voi và bị voi giày chết (DMAH 1.tr.59), Bà Monica Sum là người giúp việc trong hoàng cung, nhưng khi biết bà là người công giáo, chúa Minh Vương nổi giận truyền đâm kim vào 10 ngón tay của bà, rồi quấn vải thấm dầu mà đốt. Dầu vậy, bà vẫn điềm tĩnh không trách chúa, can đảm không chối đạo (DMAH 1, tr.84). Cũng theo lệnh chúa Minh Vương, quan trấn Quảng Nam đã giam tù và bỏ đói 5 người đàn ông, 3 người đàn bà. Tất cả đã chết đói trong tù (DMAH 1, tr.85). Năm 1712, tại kinh đô Thăng Long, ba thày giảng bị bắt: thày Hiệp, thày Xuân, thày Mi Lộc. Thày Hiệp giỏi chữ nghĩa và ăn nói lưu loát hơn cả, nên thày đại diện cho anh em trả lời các quan án. Nhiều lần thày tuyên bố: 'Bẩm quý quan, chúng tôi luôn trung thành với Thiên Chúa, với vua quan và với cha mẹ. Nhưng chúng tôi cương quyết không bỏ đạo'. Mỗi lần trả lời như vậy, thầy được thưởng 10 dùi cui vào đầu gối. (DMAH 1.tr.142). Đức cha Bourges cho biết 'trong địa phận Đông Ký, có 304 người công giáo bị thích trên má hàng chữ 'Hoa Lang Đạo' (DMAH 1, tr. 144). Năm

1743, cha Đậu bị bắt ở Lục Thuỷ vào lúc Cha đang dâng lễ. Cha vội cầm Mình Thánh chạy vào buồng, thì một tên lính túm tóc, đánh vào hông của cha, xô cha té nhào xuống đất, rồi đá vào đầu cha đến chảy máu (DMAH 1, tr.181). Khi quân lính kéo thày Giuse Nguyễn Đình Uyển qua ảnh thánh giá vẽ trên đất, thầy cố co chân lên, nên bị quân lính đánh vào đầu, vào chân đến tuôn máu ra. Trong lúc mê man miệng thày vẫn cầu xin Chúa thêm sức can đảm. Thấy vậy, các quan cười và hô lớn "Vặt râu nó đi" (DMAH 2, tr.140). Còn cha Dominicô Nguyễn Văn Hạnh, vì nhất định không bỏ đạo, không đạp ảnh, nên bị quan bát phẩm Tuyên chửi bới thậm tệ, là 'đồ ngu xuẩn' và lấy giáo quạt quất vào mặt, trước khi nọc xuống đánh 15 roi da' (DMAH 2, tr.167). Đến lượt thày giảng Tomas Toán dòng Đaminh bị hành hạ thê thảm, như 'không cho ăn uống, lột hết quần áo, trói để ngoài nắng, nơi công cộng ba ngày liền. Nhiều người đi lại, kẻ sỉ nhục, nhạo cười, kẻ khạc nhổ vào mặt, kẻ vặt râu kéo tóc thày, thậm chí có kẻ lại đi tiểu vào mặt thày nữa… và sau cùng thày đã chết đói trong tù’ (DMAH 2, tr. 434-435). Cũng vậy, vì không khuất phục được ông Martinô Thọ, quan thống đốc Trịnh Quang Khanh đã nổi giận truyền đem thả ông xuống lò nước tiểu và bỏ đói năm ngày liền. (DMAH 2, tr.478). "Tại Quảng Bình có bà Marta Mạc bị bắt và bị hành hạ treo ngược đầu xuống nhưng vẫn một lòng tuyên xưng đạo Chúa" (DMAH 1. tr.68). Dưới thời chúa Minh Vương, năm 1700, bốn giáo dân là Thadeô Van, Phaolô So, Vinhsơn Luc và Antôn Ki, vì không chịu quá khóa, nên bị chúa ra lệnh bỏ đói cho tới chết (DMAH 1. tr.75). Vua Minh Mệnh còn có một sáng kiến kỳ quái là 'bắt rắn cho vào bên trong áo của người nữ công giáo, đồng thời cột chặt ống quần và tay áo của họ lại cho rắn không chui ra được’ (DMAH 2, tr.497).

• Càng mong mỏi được chết vì Chúa: Thánh Mattêô Lê Văn Gẫm, người Biên Hòa, tử đạo năm 1847. Khi được tin sẽ bị xử trảm, Ngài đã tuyên bố: "Tôi sẵn sàng chịu chết vì đức tin. Chưa bao giờ tôi được vui mừng như hôm nay. Nếu tôi nói một tiếng 'bỏ đạo' thì tôi khỏi chết, nhưng tôi sẵn sàng chết vì Thiên Chúa" (11, 3.39-48). Cai đội Thomas Lê Đăng Thị, khi biết chắc ngày mai sẽ bị xử trảm, đã reo lên: "Thật vui mừng! thật vui mừng!"… Đến khi ra tới pháp trường, ông còn nói với quan cách phấn khởi: "Không bao giờ tôi chối đạo. Ngược lại hơn khi nào hết, lúc này tôi sung sướng muốn chịu chết và trung thành với Chúa đến giây phút cuối cùng" (DMAH 3.230). Khi quan nhờ bạn thân đến dụ dỗ cha Hạnh bỏ đạo, cha trả lời nhẹ nhàng nhưng cương quyết: "Xin ông bạn hãy về nói với quan rằng, tôi không bao giờ bỏ đạo đâu. Lòng tôi chỉ mong chóng tới lúc được chết vì đạo và được làm con Thiên Chúa vĩnh viễn". Trên đường ra pháp trường, cha nói với giáo dân: "Hãy vui lên, vì cha sắp về với Chúa" (DMAH 2.169). Cụ Toma Tín, khi ra pháp trường để chịu xử trảm, đã quay về phía đám đông, kêu lớn tiếng: "Các vị xem đó, tôi sắp được chết để bảo vệ đức tin. Tôi chỉ tiếc một điều là không có cả ngàn mạng sống để dâng cho Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng và Chủ Tể trời đất" (DMAH 1, tr.63).

2. Sống đức hiếu thảo:

Theo giáo lý đạo Giatô, 'tình phụ tử của Thiên Chúa là nguồn mạch tình phụ tử của con người. Chính tình phụ tử của Thiên Chúa làm cho cha mẹ được trọng kính. Sự tôn kính của con cái, còn nhỏ hay đã trưởng thành, đối với cha mẹ mình, được nuôi dưỡng bởi sự âu yếm tự nhiên giữa cha mẹ và con cái. Sự tôn kính này còn là một điều răn của Chúa' (GLCG 2214). Vì lòng mến Chúa và trung thành giữ giới răn của Ngài, các thánh Tử Đạo là những người 'biết thế nào là thảo hiếu' (DMAH 2, tr.70): Cũng như mọi người đồng hương, các ngài ý thức rằng 'việc tôn kính tổ tiên là việc rất thành kính, là dấu chỉ lòng bất vong bản, là nghĩa cử của con người' (Phan Kế Bính), là nhìn nhận gốc rễ và cội nguồn của mình' (Toan Ánh). Do đó, là người sống đạo Thiên Chúa, tuy không lập bàn thờ tổ tiên, nhưng không phải là không thờ phụng tổ tiên. Những ngày giỗ chạp, người công giáo vẫn làm cỗ và cầu nguyện cho người khuất bóng, và việc không có bàn thờ tổ tiên chỉ là việc chuyển đổi bàn thờ tổ tiên đến bàn thờ Chúa (Phan Phát Huồn). Nghĩa là người công giáo vẫn tôn kính tổ tiên qua bàn thờ Chúa (16). Những chứng từ sống động và lịch sử chúng ta nêu lên dưới đây, cho phép chúng ta khẳng định rằng: 1) Hơn ai hết, các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã sống trung kiên đức hiếu thảo đối với cha mẹ và tổ tiên. 2) Tuy với những thể hiện khác nhau, đời sống hiếu thảo theo giáo lý đạo Công Giáo đậm màu siêu nhiên và luôn trung thành với những điều cốt lõi của đạo hiếu cổ truyền tại Việt Nam.

• Tuy thể thức khác biệt, nhưng cốt lõi vẫn là một. Khi quan tuần cho rằng bên đạo Công Giáo 'bất kính tổ tiên, và đó là tội nặng', thì linh mục Laurensô Nguyễn Văn Hưởng đã trả lời rõ ràng. Ngài trình bày: "Thưa quan tuần, nói rằng bên đạo chúng tôi không thờ kính cha mẹ là điều vu khống và bỏ vạ. Người lương lấy cơm, cá thịt, trái cây mà cúng ông bà cha mẹ đã qua đời, còn chúng tôi không dùng những thức ăn mà cúng, vì biết ông bà cha mẹ đã chết rồi, thì không ai ăn được nữa, không còn hưởng nhờ các thức ăn đó. Nhưng chúng tôi nhớ đến ông bà cha mẹ sáng tối. Hàng ngày cầu xin cho các ngài được hạnh phúc trên thiên đàng. Hơn nữa, chúng tôi tuân giữ các lời ông bà cha mẹ răn dạy hầu giữ luật luân lý và làm vinh danh cho các ngài" (DMAH 3, tr.114). Cũng với lời lẽ lễ độ và chân thật, cha Phêrô Nguyễn Văn Tự, bị trảm quyết 1838, đã trả lời câu hỏi buộc tội của quan tòa 'Tại sao cha không thờ kính cha mẹ tổ tiên?' – 'Bẩm quan, Khi cha mẹ tôi còn sống, tôi rất mực trọng kính các người, tôi lo lắng và chăm sóc chu đáo. Nhưng khi các ngài chết, các ngài không ăn uống nữa, vì linh hồn thiêng liêng không cần gì nữa. Cha mẹ của quan đã mất mà quan vẫn còn thờ cúng chuối oản như là các ngài còn sống, nếu các ngài ăn được, các ngài đã dùng rồi. Còn như vàng bạc tiền nong gửi cho họ bằng cách đốt đi, nếu giả như họ dùng được thì tại sao quan lại không đốt vàng thật hay tiền thật? Làm vậy không phải là trò diễu cợt các người chết ư?'. Quan cảm phục, nhưng còn cứng lòng, nên lại cho cha Tự về nhà giam. (DMAH 2, tr.225).

• Tình gia đình khăng khít: Đức hiếu thảo được bày tỏ qua sự kính trọng, lòng biết ơn, vâng lời cha mẹ khuyên răn và anh chị em đùm bọc lẫn nhau: Lời chứng sau đây của người con gái út của thánh Annê Lê Thị Thành bày tỏ tình mẫu tử đậm đà biết bao, vượt lên hẳn cảm nghĩ tự nhiên: "Lính không cho tôi vào thăm, nhưng họ dẫn mẹ tôi ra ngoài sân nói chuyện với tôi. Thấy mẹ tôi mang gông cùm bọc sắt khổ sở, tôi òa lên khóc". Mẹ tôi dịu dàng an ủi "Mẹ biết con thương mẹ. Nhưng con đừng khóc làm chi, mẹ đeo hoa trên người mà thôi. Con cứ an tâm về nhà xem sóc cửa nhà thay mẹ, còn việc mẹ ở đây, có Chúa giúp mẹ. Mẹ không quên gia đình nhà ta đâu" (DMAH 3, tr.28). Ngược lại, khi cha Tomas Đinh Viết Dụ bị đeo gông giam trong tù, mẹ ngài giả làm người ăn xin đến thăm con. Thấy con khổ sở quá, bà định

ghé vai mang cùm với con một chút, cha Dụ ứa nước mắt thưa với bà: "Từ tấm cám, con vẫn hiếu thảo nhớ ơn bố mẹ… Nhưng giờ đây, xin mẹ đừng lo. Tuy con yếu sức phần xác, con vẫn chịu được nhờ Chúa Giêsu nâng đỡ. Thương con, xin mẹ cầu nguyện cho con…" (DMAH 2, tr.332). Và đây, những lời của ông Martino Thọ, bị xử trảm 1840, khuyên răn các con: "Thiên Chúa nhân lành định rằng, cha không còn về với các con nữa, nhưng các con còn có mẹ, hãy vâng lời mẹ. Các anh chị lớn hãy lo đùm bọc các em nhỏ, các con nhỏ chịu khó nghe lời anh chị. Các con tất cả, hãy cần mẫn làm việc để phụng dưỡng mẹ, hãy trung thành đọc kinh sáng kinh chiều và lần hạt mân côi. Thiên Chúa ban cho mỗi người một thánh giá, các con hãy vui lòng vác lấy và can đảm chịu khổ để giữ đạo. Cha không còn làm gì để giúp các con dưới trần thế này được nữa, cha chỉ còn lo sửa soạn ra đi. Vậy sau khi cha chết rồi, chú Chấn và mẹ các con chết rồi, thì hãy chia nhau tài sản. Nếu sau này được phép, các con mang xác cha về chôn nơi cha bị bắt. Những gì cha đã làm cho các anh chị lớn khi cha ở nhà, thì các anh chị lớn cũng phải làm như vậy cho các em nhỏ" (DMAH 2, tr.470). Riêng y sĩ Simon Phan Đắc Hòa, bị trảm quyết 1840, đã khuyên người con gái đến thăm: "Con hãy về nhà với mẹ, chị em giúp đỡ lẫn nhau". Và khi các con đến thăm, ngài cũng khuyên dạy: "Cha rất vui mừng vâng theo ý Chúa. Các con đừng buồn. Mọi đứa phải vâng lời mẹ, săn sóc cửa nhà tử tế, vì cha không thể lo lắng gì hơn được nữa" (DMAH 2, tr.486). Độc đáo nhất là tinh thần gắn bó của một gia đình tử đạo: Ngày 13.01.1859, thánh quan án Đaminh Phạm Viết Khảm với người con trai là thánh cai tổng Luca Phạm Viết Thìn, và các con rể là Giuse Tả, Khóa Sơn và Lý Lê đã cùng can đảm chết vì đức tin (DMAH 3, tr. 200). Cũng chính vì tình gia đình gắn bó mà ông lý Mỹ đã xin quan cho mình chịu đòn thay cho bố vợ là ông trùm Đích đã già cả (DMAH 2, tr. 201).

• Tình thày trò, bạn hữu đậm đà và chân thực: Ông trùm Giuse Nguyễn Văn Lựu coi cha Philiphê Phan Văn Minh như 'sư phụ đáng kính'. Trước mặt các quan tỉnh Vĩnh Long, ông đã hiên ngang tuyên bố: "Trước đây, thày tôi đến thì tôi nuôi. Bây giờ, thày tôi chết, tôi cũng chết theo gương thày. Vì thế tôi cương quyết không đạp ảnh, không chối đạo thánh" (DMAH 3, tr.93). Cai đội Lê Đăng Thị (trảm quyết 1860) có một cách xử rất tình nghĩa với các bạn lính cũng như các bạn tù. Ngài luôn vui vẻ với hết mọi người, kể cả những người khinh khi hay hành hạ ngài. Hơn thế vào mùa đông, ngài mua rơm đan giày tặng các bạn tù (DMAH 3, tr.228). Anh Giuse Túc và anh Đaminh Hùng đồng quê Hoàng Xá, tỉnh Hưng Yên. Khi anh Túc bị bắt và bỏ tù, anh Hùng tìm mọi cách cứu thoát anh Túc. Nhưng Túc bảo: "Tôi nhất định không trốn đâu, bởi vì một mình tôi trốn thoát lại làm khổ cho nhiều người. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi điều Chúa gửi đến". Ngày 01.06.1862, anh Giuse Túc bị đem đi trảm quyết, anh lại nói với anh Đaminh Hùng: "Anh hãy vui lên vì tôi được phúc tử vì đạo. Linh hồn tôi chắc chắn được Chúa rước về trời, còn xác tôi, anh lo liệu được thế nào thì tùy tiện, nếu không chôn được cũng không có sao!" (DMAH 3, tr.313). Hai thánh Đaminh Huyên và Đaminh Toái, cùng quê Nam Định, là bạn thiết nghĩa từ nhỏ. Khi bị bắt, hai vị còn khăng khít tình bạn với nhau hơn nữa. Cả hai thường bảo nhau: "Anh em chúng ta nhất tâm can đảm vì Chúa Kitô. Vì thế chúng ta quyết tâm chịu khổ cho tới chết thì thôi" (DMAH 3, tr.320). Cũng chính trong tình bạn cố kết, không còn phân biệt tuổi tác hay giới nam giới nữ, mà cụ Thoma đã bị rơi đầu cùng với hai người bạn nam trẻ tuổi và hai người bạn gái đồng hương bị voi đạp là Luxia và Maria vào ngày 6.2.1665 (DMAH 1, tr.63).

• Đối với người quá cố: Sử chép lại rằng: Năm 1645, thày Inhaxiô 37 tuổi và thày Vicentê 19 tuổi bị quan Thái Bảo kết án tử đạo. Vừa khi hai chiếc đầu rơi xuống đất, dân chúng ùa vào thấm máu các vị. Giáo dân đã chuẩn bị bốn chiếc thuyền dưới sông để đem xác các ngài đi an táng tại một nơi xứng đáng. Mọi người cung kính đưa xác ra tới sông, nhưng chỉ 29 người được lên thuyền đến nơi an táng. Nghe tin giáo dân và lương dân tụ họp cầu nguyện quanh xác của hai anh hùng tử đạo, chúa Thượng Vương giận dữ, sai lính đến vây hai làng có đông người công giáo và bắt những người đang tụ họp cầu nguyện trước linh cữu… (DMAH 1, tr.38). Quả vậy, mỗi khi có một người bị chết vì đạo, dù bị bỏ rọ hay cột đá ném xuống sông, giáo dân cũng bằng mọi cách tìm lại xác để về an táng xứng đáng. Ở đây chúng ta chỉ nêu lên một trường hợp: "Năm 1773, cha Vinhsơn Lê Quang Liêm bị chém đầu thì có tám người thanh niên đã chực sẵn tìm cách bảo vệ và lấy xác ngài bỏ lên võng đem đi. Lúc đó trời đổ mưa dữ dội. Họ lội đồng đem thi thể ngài về làng Kẻ Sặt, rồi xuống thuyền về an táng tại Trung Linh. Ít lâu sau, một trong tám thanh niên lấy trộm xác cha Liêm bị nhận diện, nên bị bắt giam tù một năm và phải nộp một số tiền lớn" (DMAH 1, tr.203). Chính quan thượng Nguyễn Đăng Giai cũng thừa nhận: "Khi có người quá cố, người công giáo thường họp nhau đọc kinh và tiễn đưa" (DMAH 3, tr.59). Trong bài 'tóm lược đường nên thánh của cha Lê Bảo Tịnh' có đoạn viết: "Cha Tịnh thường khuyên các chú (chủng sinh trường Vĩnh Trị) năng đọc kinh cầu nguyện và làm các việc lành hy sinh để giúp các linh hồn ở luyện tội. Mỗi tuần, cha dâng một lễ cầu cho các đẳng, trong thánh lễ cha bắt các chú hát bài Dies Irae (Ngày cơn thịnh nộ), tức là bài thánh ca nói về ngày phán xét, để giục lòng sốt sáng cầu cho các linh hồn, nhất là cầu cho ông bà cha mẹ đã qua đời" (DMAH 3, tr.147).

3. Linh hồn bất tử.

Từ xa xưa, người Việt Nam vẫn nằm lòng 'xác là thể phách hồn là tinh anh'. Vì thế, 'hồn' hay 'linh hồn' là đối tượng của đạo tôn kính ông bà hay là chiều sâu của đức hiếu thảo. Với đạo Công Giáo, việc tôn kính tổ tiên hay chiều sâu của đức hiếu thảo không bị giới hạn bởi các luật tang chế của Nho Giáo (thời hạn để tang, cúng giỗ) hoặc bị khựng lại bởi thuyết luân hồi của Phật Giáo (sau 49 ngày, linh hồn người quá cố đi sang kiếp khác), nhưng thật vô tận. Bởi vì theo giáo lý đạo Công Giáo: Con người được Thiên Chúa dựng nên có thể xác và linh hồn. Linh hồn bắt nguồn từ Thiên Chúa và bản tính của linh hồn là thiêng liêng và bất tử (x. GLCG 33, 37, 360). Nói khác, Thiên Chúa dựng nên con người có 'sự thống nhất về bản tính là con người có thân xác vật chất và linh hồn thiêng liêng bất diệt' (GLCG 360). Đây là niềm tin của người công giáo gói gọn trong câu: "Tôi tin xác sống lại và sự sống đời sau". Như vậy, dù là 'thể phách' hay 'sẽ thành tro bụi sau khi chết', thân xác con người sẽ được phục hồi trọn vẹn; vì là 'tinh anh', nên linh hồn là thiêng liêng và bất tử. Ngày sau hết, con người trọn vẹn xác hồn sẽ được sống lại trong vinh quang của Thiên Chúa, Đấng sẽ ban cho mỗi người đời sống vĩnh cửu. Dựa vào các chứng từ của các Đấng Tử Đạo tiền nhân, chúng ta hãnh diện nhận ra 'niềm tin linh hồn hiện hữu và bất tử trong đạo cổ truyền Việt Nam' đã được nâng cao một cách tuyệt vời: Con người đã được Thiên Chúa dựng nên có thân xác và linh hồn, linh hồn quý trọng hơn thân xác, khi chết linh hồn sẽ lìa thân xác về trời hưởng hạnh phúc miên trường trong vinh quang của Thiên Chúa là Cha, và sẽ luôn nhớ đến mọi người còn tại thế. Để xác chứng, chúng ta nêu bật mấy điểm sau đây:

• Con người được Chúa dựng nên có thân xác và linh hồn: Chúa Thượng Vương hỏi ông Augustinô nhiều câu, và đây là câu cuối cùng: "Đức Chúa Trời là ai?". Ông Augustinô thưa: "Đức Chúa Trời là Đấng tạo dựng nên trời đất, tất cả mọi sự trong vũ trụ. Ngài dựng nên cả linh hồn và thân xác của mỗi người chúng ta. Vì thế, chúng ta có bổn phận thờ phượng và cám ơn Ngài" (DMAH 1 tr.40). Thế rồi, trước khi bị xử giảo, ông Augustinô Nguyễn Mới đã quỳ xuống cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa tôi, xin Chúa chữa tôi, tôi phó cả linh hồn và xác tôi trong tay Chúa" (DMAH 2, tr.365). Hòa nhập với tinh thần hiếu thảo và tôn kính tổ tiên, giáo dân từ đầu đã có thói quen tụ họp đông đảo để cầu nguyện và tiễn đưa người quá cố vào những dịp có lễ an táng. Việc tụ họp như vậy đã làm cho các quan và các chúa ghen ghét đạo (x; DMAH 1.122, 132, 151).

• Linh hồn quý trọng hơn thân xác: Sau 38 ngày ở trong tù, án của bộ ra tới tỉnh. Quan tỉnh cố khuyên dụ cha Phaolô Lê Bảo Tịnh lần cuối. Cha hiên ngang thưa: "Đội ơn quan lớn vốn có lòng thương. Nhưng xác tôi hèn, xin quan lớn làm tội mặc sức, tôi bằng lòng. Còn linh hồn trọng lắm, tôi không thể liều mất linh hồn cho vừa lòng hoàng đế được. Đạo Thiên Chúa là đạo thật, tôi mến, tôi giữ từ nhỏ, dù có chết cũng không bỏ được" (DMAH 3, tr.141).

• Chết là linh hồn ra khỏi thân xác mà về trời hay lên thiên đàng: Cha Francis Jaccard Phan (1838) đã khẳng định với quan tòa: "Tôi vui sướng khi nghe đức vua ra lệnh chém đầu tôi. Như vậy tôi mới chết nghĩa là linh hồn tôi ra khỏi xác và lên trời. Chỉ một khoảnh khắc đau đớn, tôi sẽ được phúc lớn lao và tôi hoàn toàn toại nguyện" (DMAH 2, tr.238). Thật can đảm và nóng lòng đạt tới nước trời, ông Martinô Thọ đã cương quyết đối chất với quan đầu tỉnh Trịnh Quang Khanh. Quan hỏi: "Nếu tao bắt được vợ con mày và làm khổ trước mặt, mày có bỏ đạo không?" – Ông Thọ thưa: "Bẩm quan, dù quan giết vợ con tôi, tôi cũng chẳng quá khóa bỏ mất phúc thiên đàng". – "Vậy mày ước ao thiên đàng lắm hả?" – "Bẩm quan lớn, vì tôi mong ước phúc thiên đàng cho nên tôi mới vui lòng chịu khổ như thế này. Khi nào quan lớn thương cho tôi một lát gươm, bấy giờ linh hồn tôi sẽ bay thẳng lên trời" (DMAH 2, tr.478).

• Linh hồn lên trời để hưởng hạnh phúc đời đời hay được sống vĩnh cửu: Khi thấy ông trùm Đích và ông Lý Mỹ có vẻ sờn lòng, cha Năm đã khuyên bảo hai ông: "Hai ông hãy can đảm xưng đạo vững vàng và chịu khổ ít lâu nữa sẽ được Thiên Chúa thưởng công đời đời, là phúc thiên đàng và như vậy hai ông để gương lại cho con cháu" (DMAH 2, tr.200). Thầy Phêrô Vũ Văn Truật đã trả lời cho quan án: "Tôi không dại dột đâu, vì lẽ tôi chịu chết cho đạo thật, tôi sẽ được phước thật đời đời" (DMAH 2, tr.286). Chủng sinh Toma Trần Văn Thiện đã từ chối dùng bữa cơm quan án thiết đãi trước khi xử án, đã phấn khởi thưa: "Tôi không muốn ăn uống gì nữa, tôi đang chờ bữa tiệc trên trời" (DMAH 2, tr.249). Ông Toma Nguyễn Văn Đệ khảng khái thưa với quan tòa: "Thiên Chúa tôi thờ là Đấng dựng nên trời đất và mọi sự. Khi nào quan lớn chém đầu tôi, tôi sẽ về cùng Chúa tôi trên trời, hưởng phúc vui vẻ vô cùng" (DMAH 2,371). Được lên trời hưởng hạnh phúc, sau bao năm tháng chịu mọi cực hình, đó là ước mơ của các Đấng Tử Đạo, như lời thơ của thánh linh mục Anrê Trần An Dũng (Lạc) gửi cho cha bạn tên là Thực:

Đông qua tiết lại thời xuân tới,

Khổ tạm mai sau hưởng phúc an.

Làm kẻ anh hùng chi quản khó,

Nguyện xin cùng gặp chốn thanh nhàn

(DMANH 2, tr.379)

• Linh hồn về trời là về với Thiên Chúa là Cha: Vào năm 1665, chúa Hiền Vương ra lệnh xử tử các giáo dân kiên gan xưng đạo: 7 người bị chém đầu và 5 người bị voi giày. Đông dân chúng ra pháp trường chứng kiến biến cố hy hữu này. Nhiều người òa khóc vì thương hại ba người trẻ là cô Giovanna và hai anh em Raphaen và Stêphanô. Từ đám đông, cô Luxia chạy ra muốn hôn chân cậu Raphae. Nhưng cậu đỡ cô lên và nói: "Này cô em, cô đừng buồn phiền, chúng ta sẽ gặp lại nhau trên trời". Cùng lúc đó, cậu Stêphanô vẫy tay từ biệt mọi người và nói lớn tiếng: "Xin quý vị có mặt đây biết cho rằng: chúng tôi vui lòng chết vì đức tin chân thật thánh thiện và vì chúng tôi muốn đi gặp Cha chúng tôi ở trên trời. Xin chào quý vị!" (DMAH 1, tr.58-59).

• Linh hồn về trời, vẫn nhớ đến người tại thế: Năm 1736, chúa Trịnh Doanh ra lệnh bắt bốn cha dòng Tên và hai cha dòng Augustino. Sau 6 tháng bị tra tấn và tù đày, hầu hết các cha đều chết dũ tù, còn cha Cratz dòng Tên bị án tử hình cùng với hai thày giảng. Ngày đi ra pháp trường, thấy nhiều giáo dân khóc lóc, cha Cratz đã an ủi họ: "… Chúng tôi sắp lên trời. Ở đó, chúng tôi sẽ giúp đỡ linh hồn anh chị em hiệu lực hơn khi chúng tôi còn ở lại trần thế. Đó là sự thật, xin anh chị em yên tâm" (DMAH 1, tr.164). Ông đội canh giữ cha Nguyễn Văn Hưởng một hôm đã dẫn vợ con vào nhà tù thăm cha Hưởng và nói những lời rất cảm động: "Mặc dầu tôi không theo đạo nhưng tôi biết rõ các linh mục vô tội. Tôi không dám làm khổ cha, nhưng bây giờ tôi phải theo lệnh triều đình dẫn cha đi xử. Xin cha khi nào về thiên đàng nhớ đến chúng tôi với". – Cha Hưởng nói giọng cảm động: "Tôi rất biết ơn lòng tốt của ông. Phần tôi, tôi đi về với Thiên Chúa, ông và gia đình ở lại bình an. Tôi sẽ nhớ đến ông bà" (DMAH 3, tr; 117).

Viết đến đây, tôi nhớ đến những lời được ghi trong thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gửi toàn thể linh mục, tu sĩ và giáo dân cả nước, năm 1980. Trong phần B của 'Hướng đi mục vụ' nói về 'Hội Thánh trong lòng dân tộc' các Đức Giám Mục đã đề cao một nhiệm vụ cụ thể: 'Xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả Đức Tin phù hợp hơn với truyền thống dân tộc' (17). Còn truyền thống dân tộc nào cao quý hơn, thiêng liêng hơn, bén rễ sâu trong tâm tư và nếp sống của người dân Việt Nam hơn… là tôn giáo cổ truyền: phụng thờ Trời, tôn kính Tổ Tiên và xác tín Linh Hồn hiện hữu và bất tử. Như chúng ta đọc thấy ở trên, thì các Thánh Tử Đạo Tiền Nhân không những đã sống mà còn gọt dũa, canh tân và nâng cao những điểm cốt lõi của Đạo Cổ Truyền Việt Nam. Quả thật điều mà hôm nay các Giám Mục nhắc lại cho chúng ta ở thế kỷ 21 này, thì các tiền nhân dũng cảm đã sống cách đây 3-4 thế kỷ rồi. Để thể hiện công trình canh tân, gọt dũa… đạo truyền thống theo ánh sáng Tin Mừng, các ngài và cả tập thể Kitô hữu trong ba thế kỷ 17-19, đã trả một giá rất đắt: Bao nhiêu nhục hình đã đi trước cái chết của hơn 100.000 người (18). Vì thế, là con cháu, chúng ta phải noi gương các ngài mà đốt sáng lên đạo cổ truyền chính thống của dân tộc Việt Nam bằng đời sống đức tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và Giáo Hội, bằng nề nếp luân lý vững chắc, bằng tinh thần truyền giáo sâu sắc và bằng tình liên đới 'tốt đời đẹp đạo' với mọi người thiện chí. Dù đã mấy thế kỷ qua, tinh thần ‘anh dũng sống đạo và truyền đạo của các ngài giữa lòng dân tộc Việt Nam vẫn là gương soi tuyệt tác cho thế hệ hôm nay’.

Quả là: Minh kính khả dĩ sát hình,

Vãng cổ khả dĩ tri kim

(Gương trong dùng để soi hình,

Việc xưa dùng để biết rành việc nay)

(Minh-Tâm Bửu-Giám)

Vậy: 'Hãy xem và hãy làm như mẫu'

(Xh 25,40).

----------------

(1) Nguyễn Hồng, Lịch Sử Truyền Giáo ở Việt Nam I, tr. 275.

(2) Trần Ngọc Thêm 'Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam', tr. 63.

(3) Phan Thiết, 'Đất Việt, Người Việt, Đạo Việt' là tên của cuốn sách 475 trang (1996) và tiêu đề của chương I, tr. 266-299.

(4) Lòng tin tưởng vào 'Trời' không chỉ được nhắc đến nhiều trong ca dao tục ngữ, mà còn ở trong các chuyện cổ tích hay các tác phẩm văn cổ thời. Xin đọc 'Kho tàng chuyện cổ tích Việt Nam' của Nguyễn Đồng Chi, Chữ 'TRỜI' trong một số cổ thi quốc âm Việt Nam của Nguyễn Văn Ái, trong cuốn 'Văn Hóa Và Đức Tin', tr. 81-99.

(5) Bảo Đại, Con rồng Vàng Việt Nam, tr. 88 và 102.

(6) Ba truyện cổ tích này được Phan Thiết trích dẫn trong cuốn 'Đất Việt, Người Việt, Đạo Việt', tr. 270-280.

(7) Xin đọc bài 'Tôn kính Tổ Tiên' của Mai Đức Vinh trong cuốn 'Văn hóa và Đức Tin', tr. 299-352

(8) Xem Quốc Văn Giáo Khoa Thư (Quê Mẹ in lại 1983) tr.3-31.

(9) Nhận xét của ông Phan Thiết: "Đạo Phật theo đúng nghĩa thì phải đem vào tín ngưỡng Việt Nam thuyết luân hồi và giáo lý diệt ngã. Giáo lý này xét về căn bản trái hẳn với tín ngưỡng vị ngã qua việc thờ cúng tổ tiên, tin rằng linh hồn tồn tại và bất diệt sau khi chết… May thay, trên con đường xâm nhập từ hướng Bắc, đạo Phật đi qua Trung quốc, ở đấy đạo Phật đã biến thể tử một đạo vị ngã trở thành đạo vị ngã…" sd, tr. 295. Điều khỏi cần chứng minh: "Cộng sản phủ nhận hay chối bỏ Thần linh tối cao là Thượng Đế và linh hồn bất tử của con người" sd. Tr.289.

(10) Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Từ An Trần Lê Nhân, 'Cổ Học Tinh Hoa' I, tr. 178-179

(11) Toan Ánh, Tín Ngưỡng Việt Nam I, tr.23. x. Đào Duy Anh, 'Việt Nam Văn Hóa Sử Cương' tr. 202 và 203.

(12) Alexandre de Rhodes, 'Histoire du Royaume du Tunkin', 1630, tr. 5+76. Trích dẫn bởi Cao Kỳ Hương trong 'Đạo Hiếu của người Công Giáo', Hà Nội 2010, tr.20+22.

(13) Alexandre de Rhodes, sd, ch. 24. trích dẫn bởi Cao Kỳ Hương sd, tr.21.

(14) Đỗ Trinh Huệ, 'Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam dưới nhã quan học giả L. Cadière', 20, tr.159-160, trích dẫn bởi Cao Kỳ Hương, sd, tr.25-26.

(15) Toan Ánh, sd I, tr. 30-35. Mới đây, người công giáo cũng có những bài văn khấn gia tiên. Chẳng hạn trong sách 'Kinh Nguyện Gia Đình' của giáo phận Nha Trang, 2003, có ghi: Lễ gia tiên thường do vị trưởng tộc hoặc người cha trong gia đình chủ tọa. Nếu vị này vắng mặt thì bà vợ hay người con lớn nhất chủ lễ. Sau khi thắp hương, đèn, người chủ lễ đọc kinh… và xướng: "Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên, ông bà nội ngoại hai bên, cùng các bác, các chú thím, cô dì cậu mợ, và mọi anh chị em đã qua đời. Hôm nay nhân ngày (đầu năm, cuối năm, hoặc nhân dịp…), chúng con xin thắp nén hương bày tỏ lòng kính nhớ và biết ơn. Kính xin thương cầu nguyện cho chúng con được bình an mạnh khoẻ, được hòa thuận êm ấm, và được mọi điều tốt đẹp như ý Thiên Chúa muốn…". Vị chủ tế vái bốn vái, những người hiện diện tuần tự tiến lên vái mỗi người bốn vái… (46, tr.202-203). Trong lễ gia tiên nhân dịp cưới hỏi, vị chủ hôn đọc: "Kính lạy anh linh các bậc tổ tiên, nhờ phúc đức ông bà, tổ tiên, gia đình chúng con (hoặc gia đình anh chị X…) sinh hạ được người con gái (hoặc người con trai) là … và đã giáo dục cháu nên người. Nay cháu được Chúa cho đẹp duyên cùng cháu T… Chúng con xin đưa hai cháu đến trước bàn thờ gia tiên. Xin phép cho hai cháu được dâng nén hương bày tỏ lòng kính nhớ tri ân và thắp lên ngọn nến bày tỏ quyết tâm làm rạng danh tổ tiên và vinh danh Thiên Chúa. Xin các bậc tiên nhân bầu cử cho hai cháu được trăm năm hạnh phúc, sống đẹp lòng cha mẹ họ hàng hai bên…". Cô dâu, chú rể thắp nến niệm hương, vái bốn vái (46. tr.213). Trong dịp lễ giỗ, trước bữa ăn nên cử hành lễ cúng gia tiên. Người chủ lễ có thể đọc: "Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo. Hôm nay chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo với các ngài…" (46, tr.215-216)

(16) Vũ Thành, Dòng Máu Anh Hùng, ba cuốn 1, 2, 3. Trong bài này tôi trưng dẫn nhiều và viết tắt là (DMAH, 1, 2, 3, tr…). Chúng tôi trích dẫn hoặc dựa theo bộ sách của cha Vũ Thành, vì đọc các chú giải hoặc thư mục ở phần cuối mỗi cuốn, chúng tôi yên tâm về nguồn liệu lịch sử liên hệ đến Giáo Hội Việt Nam và truyện tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam mà cha đã dày công nghiên cứu và xử dụng.

(17) Trần Anh Dũng và nhiều tác giả: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam 1980-2000, tr.361

(18) Trịnh Việt Yên, 'Máu Tử Đạo Trên Đất Việt', trong phần 'Tổng kết' ngài cho biết: '300 năm bắt đạo với năm giai đoạn chính: lâu nhất là thời Trịnh Nguyễn, dữ dội nhất là thời Tự Đức, Văn Thân. Tổng kết là: 100.000 nạn nhân chết vì đạo, trong đó có chừng 150 linh mục Việt Nam, 50 vị Thừa Sai ngoại quốc, 340 Thày Giảng, 370 Nữ tu Mến Thánh Giá, và phân chia ra từng thời kỳ như sau: 1630-1700: 100 nạn nhân, 1700-1800: 238 nạn nhân, 1800-1862: 40.000 nạn nhân, 1862-1886: 60.000 nạn nhân. Ngoài ra 3.000 họ đạo bị triệt hạ, bị đốt phá hay bị cướp bóc, trong đó 2.000 họ đạo bị triệt hạ dưới triều Tự Đức, tr. 67-68.

Bài 4: Tinh Thần Liên Đới Trong Thời Bách Hại

TINH THẦN LIÊN ĐỚI TRONG THỜI BÁCH HẠI

Trước khi là người công giáo các vị tử đạo đã là người công dân Việt Nam. Các ngài đã sinh ra, lớn lên, và nhắm mắt trong một giai đoạn bi đát của đất nước dài hơn ba thế kỷ: Về mặt lịch sử, đây là thời gian Nam Triều Bắc Triều (1527-1592), Bắc triều thuộc nhà Mạc và Nam triều thuộc vua Lê chúa Trịnh. Kế đến là thời Trịnh Nguyễn phân tranh (1600-1778), Đàng Ngoài (Bắc) thuộc chúa Trịnh và Đàng Trong (Nam) thuộc chúa Nguyễn. Sau đó là thời gian thống nhất sơn hà với nhà Tây Sơn từ 1788 và nhà Nguyễn nối tiếp từ 1802. Nhưng không bao lâu, dân ta lại phải đương đầu với quân ngoại xâm: chiến thuyền của Pháp đánh phá Đà Nẵng lần đầu tiên vào năm 1858… Về mặt xã hội, thì theo sử gia Trần Trọng Kim, ‘sưu cao thuế nặng, phu dịch liên miên, khiến dân tình nheo nhóc, nạn đói liên tiếp xảy ra khắp nơi. Lòng dân lại oán hận vì bao cảnh quan lại tham ô, càn quét’, và theo ông Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585): ‘Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười, Có thời hơn hết mọi lời. Người, của lấy cân ta thử nhắc, Mới hay rằng của nặng hơn người’. ‘Còn bạc còn đệ tử, hết cơm, hết gạo, hết ông tôi. Xưa nay đều trọng người chân thật, ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi? Ở thế mới hay người bạc ác, Sang thì tìm đến, khó tìm lui’. Do đó, ông than thở: ‘Lòng người là bất tử, lẽ Trời không bao giờ mất, Đó là đầu mối của đạo nhân, là tột bực của trị bình’, ‘Dân mệnh vi chí trọng, tàn hại hà thảm khốc’ (Sinh mệnh của dân là rất trọng, cớ sao tàn hại thảm khốc đến thế!).

Trong một bối cảnh lịch sử và xã hội như vậy, chúng ta không quên công ơn của nhiều vị anh hùng ‘vì nước vì dân’ như Nguyễn Trãi (1380-1442) thắng quân Minh, Nguyễn Huệ (1778-1793) đại thắng quân Mãn Thanh, Nguyễn Công Trứ (1778-1858) vừa dũng cảm giẹp giặc vừa hăng say khai khẩn đất đai, cho dân chúng được an cư lạc nghiệp…

Chúng ta cũng không quên một khối lớn ‘anh hùng ẩn danh của dân tộc’ đã âm thầm, lấy đời sống ‘an bần lạc đạo’ để không những cùng với những vị anh kiệt quốc gia bảo vệ non sông gấm vóc, mà đặc biệt lấy đời sống lương thiện của người công dân bảo vệ và đốt sáng những gì là đạo đức, luân lý, phong tục của quê hương. Nói khác, họ ý thức được những điều sử gia Trần Trọng Kim viết lại sau này: “Phàm sự sinh tồn tiến hóa của một nước, là ở cái chí nguyện, sự nhẫn nại và sự cố gắng của người dân trong nước, vậy người dân cần học tập mà giữ cái tâm trí cho bền vững, thì chắc tương lai còn có nhiều hy vọng. Nước Việt Nam ta đã có nền văn hóa chẳng thua kém gì ai, vả lại có một lịch sử vẻ vang, nếu ta biết lợi dụng cái tiềm lực cố hữu và cái thông minh hiếu học của ta để theo thời mà tiến hóa, thì sao ta lại không có ngày nối được cái chí của ông cha mà dệt thêm những trang lịch sử mỹ lệ hơn trước?” (1).

‘Trong khối lớn anh hùng ẩn danh’ trên đây có nhiều người công giáo, đặc biệt có các ‘anh hùng tử đạo’. Các ngài sống đạo giữa lòng dân tộc, các ngài là chứng nhân của nền văn hóa dân tộc, là gương mẫu về nền luân lý nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, các ngài biểu dương tinh thần bất khuất, hiệp nhất, tự lập, tự cường… và liên đới hay tương trợ của người Việt Nam, đặc biệt trong mọi hoàn cảnh khó khăn của đất nước hay của đạo giáo.

‘Tinh thần liên đới của người công giáo trong thời bách hại’ là chủ đề của chương sách này. Chúng tôi muốn nêu bật hai điểm chính:

• Tinh thần liên đới với các vị Tử Đạo

• Tinh thần liên đới của các Thánh Tử Đạo.

I. TINH THẦN LIÊN ĐỚI VỚI CÁC THÁNH TỬ ĐẠO

Tinh thần cố hữu của dân Việt Nam là đại đoàn kết, gắn bó keo sơn. Ca dao, tục ngữ, những lời xưa còn truyền lại hoặc những chuyện cổ tích và giáo khoa đó đây, nêu bật tinh thần liên đới ấy. Chúng ta nêu lên mấy khía cạnh:

1. Liên đới của gia đình.

Để diễn tả tinh thần liên đới ruột thịt trong một gia đình hay một gia tộc, ông bà dạy: ‘Máu chảy ruột mềm’, ‘Cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để đức cho con’, ‘Anh em nào phải người xa, Cùng chung bố mẹ, một nhà cùng thân’ ‘Quyền huynh thế phụ’, ‘Chị ngã em nâng’, ‘Mất cha còn chú, mất mẹ bú vú dì’, ‘Máu loãng còn hơn nước lã’, ‘Họ chín đời còn hơn người dưng’, ‘Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh’… Trong sách Luân Lý Giáo Khoa Thư giải thích về Gia Tộc như sau: “Gia tức là nhà, thì có ông bà cha mẹ và anh em. Tộc tức là họ, thì bên nội có chú, bác, cô, thím, anh em, chị em con chú, con bác; bên ngoại có cậu, mợ, dì và anh em, chị em con cô, con cậu và đôi con dì. Vậy gia tộc là gồm tất cả những người cùng chung một máu mủ. Người một gia tộc ở với nhau, bênh vực và giúp đỡ lẫn nhau. Những cách ăn ở với nhau như thế, tức là bổn phận của mọi người ở trong gia tộc…” (2)

Tinh thần liên đới trong gia đình và gia tộc của Việt Nam bắt nguồn từ đạo Hiếu, đạo thờ cúng Tổ Tiên, hay nói theo Giáo Lý Công Giáo, bắt đầu từ tình yêu của Chúa Ba Ngôi, từ điều răn thứ IV về Đức Hiếu Thảo, từ giáo huấn Thánh Kinh. Chẳng hạn sách Giảng Viên dạy: “Hai người, vì hai người làm việc sẽ thu nhập khá hơn. Người này ngã có người khác nâng dậy… Cũng vậy hai người nằm chung thì ấm… Một mình dễ bị tấn công, có hai người, ắt sẽ đương đầu nổi. Giây chập ba đâu dễ gì đứt” (Gv 14,9-12).

Đọc chuyện các Thánh Tử Đạo, chúng ta có nhiều thí dụ sáng ngời về tình liên đới gia đình. Sau lời cầu nguyện cho nhau, chỉ cần một lời khích lệ đủ nâng đỡ sự can đảm của người thân ‘trên đường tử đạo’.

• Ông Micae Lý Mỹ (+1838) đã nhận được sự liên đới của cả gia đình. Sử sách còn ghi lại: «Bà Lý Mỹ có lần bế con mới sinh được mấy tháng ra tỉnh thăm chồng cũng yên ủi khuyên bảo chồng chịu khó cho trọn, đừng lo cho vợ con làm chi. Vì nhờ ơn Chúa giúp sức thì em đây cũng có thể ra sức dạy dỗ chúng được. Con gái lớn ông tên là Mỹ, mới 12 tuổi, đi trộm mẹ ra tỉnh mất gần nửa ngày trời để thăm cha trong ngục. Nó phải qua 2, 3 lần cửa lính canh rất ngặt. Đến gặp ông, em thưa rằng: “Xin cha hãy chịu khó chịu chết vì đạo”. Đứa con trai ông lên 9 tên là Tường, nhỏ quá không lên thăm bố được, nên nhắn những người lên tỉnh thăm cha, thưa với cha rằng: ‘Xin cha đừng bỏ đạo, cứ vững lòng xưng đạo ra và chịu chết vì đạo, đừng lo đến chúng con làm chi’. Thật là một hồng ân cho ông, mọi người thân yêu đều có lòng tin mạnh mẽ, nên đều liên đới và chia sẻ với ông, đều khuyên ông can đảm vì Chúa…» (DMAH 2 tr.191) (3).

2. Liên đới của vợ chồng.

Nhưng tình liên đới gia đình thắm thiết nhất chính là tình liên đới của vợ chồng. Thắm thiết không chỉ theo tình yêu vợ chồng tự nhiên ‘anh với em tuy hai mà một’, ‘vợ chồng là nghĩa tào khang’, ‘thương nhau là cùng nhau nhìn về một hướng’, mà còn thương nhau, gắn bó với nhau trong đức tin siêu nhiên. Tình yêu vợ chồng cùng nhìn về một hướng trọn vẹn: vì Chúa, vì Đạo Thánh, vì vợ chồng và vì con cái. Vợ chồng có thể nói với nhau ‘chúng ta là xương là thịt của nhau’ (xSt 5,1; 19,13), hay khuyên nhủ nhau như đôi bạn Tobia và Sara: “Chúng ta là con cháu của các Thánh, chúng ta không thể kết bạn như những người chư dân, không nhìn biết Thiên Chúa… Chúng ta thuộc dòng dõi những người biết ca tụng Thiên Chúa tới muôn đời” (Tb 8,5-6). Phải chăng chính trong tình yêu liên đới tràn đầy siêu nhiên mà bà Lý Mỹ đã khuyên chồng ‘can đảm đừng bỏ đạo, nhất quyết chết vì đạo’, hay như:

• Ông Phanxicô Kam (+1722), trên đường ra pháp trường, thấy vợ đứng giữa đám đông khóc lóc rũ rượi, ông nói với bà: “Em ơi, nếu em đến đây chỉ để khóc thì uổng công quá, em hãy về nhà đi!”. Bà Kam can đảm thưa với chồng: “Anh ơi, xin anh hãy hiểu cho nỗi thống khổ của em, em khóc không phải vì than trách số phận, nhưng em muốn công khai tuyên bố rằng: chết vì đạo không phải là một điều bất hạnh. Đạo Chúa Trời buộc tất cả mọi người hãy yêu kẻ thù, phân phát áo quần cho những người không có, cho kẻ đói ăn. Anh chết vì luật thánh như vậy, không phải là điều phải xấu hổ, nhưng là một phần thưởng huy hoàng”. Nghe vậy, ông Phanxicô Kam phấn khởi vô cùng… Lập tức lý hình lôi ông ra chém đầu (DMAH 1, tr.159-160).

3. Liên đới của bà mẹ.

Quả thật, ‘lòng mẹ bao la như biển thái bình’! Không chỉ ‘nặng nề chín tháng cưu mang, mặt thì tái mét võ vàng xanh xao, nằm trong như cắt như bào, bởi chưng khí huyết đúc vào thân ta’… mà ‘khi con biết lẫy biết ngồi, con ăn con ngủ con chơi con bò’. Lòng mừng, mừng lại thêm lo… lo ‘dạy đi, dạy đứng, dạy ngồi, dạy ăn dạy nói, mở môi tập rèn…’, lo ‘việc phần hồn trước: dạy làm dấu, kêu Giêsu, Thánh Mẫu, Quan Thày, kinh hằng ngày sự cần phải học, mẹ dạy con trần trọc hôm mai’… (Hiếu tự ca của cha Trần Lục). Tóm lại ‘con khôn tại mẹ’ cả về phần xác lẫn phần hồn. Đó là hình ảnh của các bà mẹ Việt Nam-Công Giáo. Hình ảnh này bộc lộ đặc nơi nhiều trường hợp ‘các bà mẹ có con hy sinh mạng sống cho Đạo Chúa’. Các bà liên đới với đức tin của con cái theo gương Đức Maria đi theo Con trên đường thương khó và đứng nhìn Con chịu treo trên Thánh Giá, rồi ẵm lấy thân Con khi tháo xuống mà khâm liệm. Quả thật, ‘Mẹ đứng gần Thánh Giá thảm thương, Thấy Con đớn đau Mẹ nát gan vàng, Đôi giòng nước mắt tuôn ròng ròng…’. Một hình ảnh khác không kém phần cảm động, đó là hình ảnh ‘bà mẹ của bảy người con’ trong sách Macabê 2. Bài này được đọc trong lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, ngày 24 tháng 11.

• Bà mẹ trong sách Macabê 2: “Hồi ấy có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ, vua Antiôkhô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Moisê cấm. Bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết trong nội một ngày. Thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà có nơi Đức Chúa. Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người con, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà, tuy là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi. Bà nói với các con bà: Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con thần khí và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con thần khí và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng luật của Người hơn bản thân mình…” (2Mc7,1-23).

• Các bà mẹ Việt Nam liên đới niềm tin với các con tử đạo:

+ Bà mẹ của thánh binh sĩ Anrê Trần văn Trông (+1835): Được tin con bị án chém đầu, bà sốt sắng cảm tạ Chúa và bình tĩnh đi ra chợ An Hòa để gặp con lần cuối. Gặp con hỏi: “Con ơi, bấy lâu nay con ở trong tù, con có mắc nợ ai cái gì thì nói để mẹ lo trả cho họ”. - Cậu Trông thưa: “Con không thiếu ai cái gì cả, tiền nộp nhà tù và xích xiềng con đã thanh toán hết cả rồi”. Rồi hai mẹ con nói lời từ giã sau cùng. Ngoài pháp trường bà can đảm đứng yên cầu nguyện và chứng kiến việc lý hình theo lệnh quan chém đầu con trai… Tiếng chuông thứ nhất vừa dứt, đầu binh sĩ Anrê Trần Văn Trông đã rơi xuống đất. Mẹ cậu đứng đó, thấy đầu con đã rơi xuống đất, liền bẩm với quan là mình có công sinh ra nên xin được giữ cái đầu của con. Được quan cho phép, bà lấy vạt áo bọc chiếc đầu con đem về nhà. Còn thân nhân mang xác về Thọ Đúc. Trong sắc lệnh tôn phong 77 chân Phước (1900), Đức Thánh Cha Lêô XIII đã đặc biệt nêu cao tấm gương tử đạo của Anrê Trông như sau: “Trong các Đấng Tử Đạo Nam Kỳ có Anrê Trông thời danh không những vì chính ngài dũng cảm, mà mẹ ngài cũng anh hùng như con, vì bà đã bắt chước Đức Mẹ, chịu đau khổ, đứng bên cạnh xem con mình chịu chết, và khi con bị chém đầu rồi thì ôm đầu con trong lòng mình” (DMAH 2 tr.71-72).

+ Bà Maria Nguyễn Thị Nhiệm mẹ của thánh Matthêô Lê Văn Gẫm (+1847): Vốn là một người mẹ đạo đức, vừa khi được tin ‘ông Gẫm có đức tin mạnh mẽ lắm’, bà vui mừng đến òa lên khóc. Một hôm bà giả dạng vào tù thăm con. Bà vừa khóc vừa khuyên nhủ con bền vững xưng đạo. Thấy vậy, ông Lê Văn Gẫm thưa với mẹ: “Mẹ đừng khóc làm gì, con được chết vì đạo thì mẹ phải sướng lắm chứ. Mẹ cũng đừng lo điều gì cho con, con chỉ xin mẹ lời cầu nguyện…”. Về sau, chính bà Nhiệm đã trả lời cho linh mục điều tra án phong Á Thánh như sau: “Hai vợ chồng chúng tôi nghe con chịu chết thì không có phàn nàn, trái lại rất đỗi vui mừng, vì con chết như vậy sẽ được làm thánh” (DMAH 3, tr.47).

+ Bà mẹ của thánh linh mục Toma Đinh Viết Dụ (1839): Khi cha Dụ còn bị giam tù, bà đã giả dạng người hành khất đến thăm con. Thấy con khổ sở quá lại mang gông nặng trĩu. Bà khóc và muốn ghé vai gánh đỡ con một chút. Nhưng cha Dụ thưa với mẹ: “Xin mẹ cứ yên tâm, con yếu sức phần xác, song vì Chúa Giêsu thêm sức, con đủ sức chịu đựng. Xin mẹ cầu nguyện cho con…” (DMAH 2 tr 332).

4. Liên đới của bạn bè.

Khi nói đến tinh thần liên đới của bạn hữu, người Việt Nam hay nhắc đến nhiều câu chuyện cổ tích phổ biến như ‘Lưu Bình Dương Lễ’, ‘Chim di và châu chấu’, ‘Bán tóc đãi bạn’, ‘Trọng nghĩa khinh tài’ (4). Thêm vào đó là những câu ca dao tục ngữ thật đẹp về tinh thần liên đới giữa tình bạn: ‘đồng cam đồng khổ’, ‘đồng tâm hiệp lực’, ‘đồng khí tương cầu’, ‘đồng thanh tương ứng’. ’Tương thân tương ái’, ‘học thày không tày học bạn’. ‘Bạn bè là nghĩa tương tri, sao cho sau trước một bề mới nên’, ‘Bạn vàng lại gặp bạn vàng, long, lân, quy, phượng, một đoàn tứ linh’. Tình bạn nhân bản trên đây nổi bật trong Thánh Kinh, đặc biệt trong sách Huấn Ca: ‘Trong tình bạn điều quan trọng nhất là phải giữ chữ tín, nghĩa là phải tin tưởng và thành thật. Giữ chữ tín với bạn bè, thực tế là khi họ lâm cảnh khó nghèo, hãy ở lại với họ, chia sẻ và giúp đỡ họ. Đừng khi vui thì vồn vã, khi buồn thì trốn chạy, khi giàu thì thân thiện, khi nghèo thì làm ngơ (Hc 37,1-6). Phải chọn bạn mà chơi, chọn người đứng đắn lương thiện, có lòng kính sợ Thiên Chúa’ (Hc 9,16). Như vậy, tình bạn nhân bản hay tình bạn tự nhiên giữa con người đã mặc lấy những đức tính siêu nhiên, đã trở thành tình bạn liên đới niềm tin. Điều này hiện lên rõ ràng dưới nhiều màu sắc trong chuyện tích các thánh Tử Đạo Việt Nam. Sau đây là mấy trường hợp tiêu biểu:

• An ủi và khuyến khích nhau: Tám giáo dân Qui Nhơn (+1701), tuy thuộc làng khác nhau, nhưng đã trở nên bạn hữu keo sơn trong cơn bách đạo…Tám người đó là ông bà Ven, ông bà Thanh, ông Miêu, ông Vinh, bà Sum và ông Khiết. Họ bị bắt và bị giam tù một tháng trước khi bị giải về kinh đô xét xử. Họ bị ném vào chuồng voi. Họ không ngớt lời an ủi và khích lệ nhau. Khi nghe tin về họ, một bà hầu của chúa Minh Vương lẻn đến chúc mừng và khuyến khích họ can đảm: ‘Tôi mừng anh chị em được ơn riêng của Chúa đến Kinh Đô xưng đạo và làm tăng số những tín hữu anh hùng...’ (DMAH 1 tr.82).

• Xin bạn giúp mẹ: Thánh binh sĩ Anrê Trần Văn Trông (+1835) trước khi ra pháp trường có anh bạn thân đến thăm, đã đề nghị với bạn: ‘Anh hãy ở với mẹ tôi, học nghề dệt cho thành tài và luôn thể giúp đỡ mẹ tôi. Xin anh nói với mẹ tôi rằng tôi đã được phúc trọng chết vì Chúa, xin mẹ an tâm làm việc nuôi xác và giữ đạo thánh Chúa. Còn tôi, mọi sự đã xong, tôi không lo lắng gì nữa’ (DMAH 2 tr.70).

• Xin các bạn cứ đổ lỗi cho tôi: Thánh Matthêô Lê Văn Gẫm (+1847) cùng các bạn tù ra khỏi toà án trở về nhà tù, đã vui vẻ nói với các bạn: ‘Chúng ta hãy cầu nguyện xin Chúa ban thêm sức mạnh để vững lòng chịu mọi sự khó. Dầu cho các quan có hạch hỏi thế nào, xin đừng ai trong các bạn nói lời gì làm khốn khổ kẻ khác. Hễ mũi dại thì lái chịu đòn, bất cứ điều gì, các bạn cứ đổ tội cho tôi là xong’ (DMAH 3, tr.43).

• Anh cứ yên trí: Thánh Micae Lý Mỹ (+1838) hớn hở đi ra pháp trường, gặp ông bạn thân tên là cả Thâu. Hai người thân nhau vì là anh em chú bác. Ông Thâu nói với ông Mỹ: ‘Anh Lý hãy vững vàng nhé!’. – Ông Mỹ trả lời: ‘Bạn cứ yên trí, tôi chẳng có sợ đâu’ (DMAH 2 tr.194).

• Tình bạn thật keo sơn! Emmanuel và Phanxicô Kam, hai người bạn đồng đạo cùng bị bắt (1723). Quan muốn đòi tiền để trả tự do. Emmanuel nộp tiền và được tự do trở về, đồng thời cũng xin nộp tiền thế cho Phanxicô nữa. Nhưng Phanxicô nhất định không chịu, anh cương quyết tuyên chứng: “Chỉ có luật Chúa Kitô là chí thánh và đạo Ngài là chân thật. Tôi sẵn sàng đổ máu ra để chuộc lại lỗi lầm và tuyên xưng đạo Chúa vượt trên các đạo khác”. Thấy bạn cương quyết như vậy, Emmanuel lớn tiếng cầu chúc: “Vậy này bạn, hãy can đảm và tuân theo ý Chúa nhé!”. – Phanxicô trả lời: “Cám ơn anh bạn. Tôi sẵn sàng chịu chết, tôi xin Emmanuel lo lắng giùm vợ con thay tôi” (DMAH 1 tr.159).

5. Tình liên đới của cả họ đạo.

Theo sự nhận xét của quan thượng Nguyễn Đăng Giai thì: tại các làng công giáo, người dân sống đoàn kết, tương trợ, đóng thuế rất sòng phẳng, không có trộm cướp hay làm loạn. Sáng chiều họ đọc kinh, cố gắng bảo nhau sống lương thiện… (x MAH 3, tr.59-61). Ở đây chúng ta chỉ nêu bật một điểm là những thể hiện liên đới cụ thể của các ‘họ đạo’ trong thời kỳ bách hại dành cho những người bị bắt bớ, là giáo dân, thày giảng, hay linh mục hoặc giám mục.

Đôi khi phải thú nhận, như ông bà thường nói ‘lệnh vua thua lệ làng’ và ‘vỏ quít dày có ngón tay nhọn’ nghĩa là lệnh cấm đạo càng gắt gao, giáo dân càng có những sáng kiến để tránh né, để đối phó, để bảo toàn đức tin, che chở người đồng đạo, cho trú ẩn các thừa sai và giấu cất các đồ thờ, hoặc giải thoát những người bị vua quan bắt… Họ cương quyết sống theo lời chỉ dạy ngàn đời của cha ông: ‘Hợp quần thêm sức mạnh’, ‘Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết’, ‘không thể bẻ đũa từng nắm’, ‘Tự lực tự cường’, ‘đồng sinh đồng tử’, ‘Vạn chúng nhất tâm’, ‘Quan nhất thời dân vạn đại’. Tình đồng hương như vậy đã trở thành cơ sở cho cách biểu dương đức tin, cho sinh hoạt họ đạo, cho đức bác ái tin mừng, cho hoạt động truyền giáo… Không tuyên bố rầm rộ, không viết thành văn, nhưng trong âm thầm của đời sống công dân đồng quê, người công giáo đã đốt sáng những tinh tuý của nền văn hóa quê hương. Nói theo văn từ hiện nay: người ta đã xây dựng những họ đạo văn hóa, xóm đạo văn hóa, trong đó văn hóa dân sự và truyền thống dân tộc quyện lấy văn hóa tin mừng, văn hóa niềm tin. Thật phong phú và sâu sắc những thể hiện văn hóa tình thương... Sau đây chúng tôi nêu lên những thể hiện liên đới trong họ đạo thời bách hại:

• Đoàn kết để sống vững đức tin: Năm 1687, có người tố cáo với quan là tại làng Va Vang có nhiều người công giáo và có cả nhà thờ. Quan cho lính đến vây bắt 32 trưởng gia đình công giáo. Cả 32 người quả quyết mình và gia đình đều là công giáo. Quan hỏi họ làm những gì ở nhà thờ. Họ trả lời là ‘đọc kinh cầu nguyện với Chúa Trời cho được mọi sự lành đời này và đời sau’. Quan bắt họ làm lại cho quan xem những gì họ quen làm ở nhà thờ. Họ quỳ xuống ngước mắt lên trời, làm dấu Thánh Giá và đọc các kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Tin Kính, Mười Điều Răn và Mười Bốn Mối Thương Người. Nghe xong, quan nói: “Tôi thấy tất cả những điều này đều tốt hết. Dù vậy, vì có lệnh vua cấm, chúng ta không thong dong. Các ngươi biết có lệnh vua cấm đạo này, vì vậy các ngươi không được tỏ lộ ra ngoài. Lần này ta tha không đánh đòn, nhưng nếu bị bắt lần thứ hai, ta sẽ không tha nữa đâu”. Quan bắt mỗi người nộp chút tiền án phí rồi cho về (DMAH 1 tr.130).

• Che chở người bị lùng bắt: Nhân có lệnh chúa Trịnh Tráng cấm đạo (1629), một quan trong vùng thấy cô Daria xinh đẹp, muốn bắt ép cô làm vợ lẽ trái luật một vợ một chồng của đạo công giáo. Cô liền bỏ làng trốn sang làng khác. Quan cho lính đến bắt cha mẹ và họ hàng để tìm ra nơi cô trốn. Nhiều người bị tra tấn và đánh đập tàn nhẫn, nhưng không ai chịu cung khai nơi ở của người trinh nữ đạo hạnh. Họ nhất trí trả lời cho quan: “Phản bội một người đồng đạo đã tín nhiệm nơi họ là điều bất nhẫn, giao người ấy cho quan để làm hại nhân đức cao quý lại là một tội ác nữa”. Quan cho lệnh dân lương đánh đập họ, nhưng cảm động về tấm gương hào hùng của họ, dân chúng chỉ phá nhà cửa sơ sài rồi để họ trốn đi. Cả sáu chục người trốn khỏi làng, và hứa với nhau trung thành với Chúa. Họ đã lên Kinh đô tìm gặp các cha và được một bà lớn trong thành bảo trợ, cho đất lập nghiệp (DMAH 1 tr.110)

• Giấu cất các đồ thờ. Sự việc này là một thể hiện liên đới cụ thể tại các họ đạo hay tại các tu viện Mến Thánh Giá, hoặc các tư gia. Sách chép rằng, khi quân lính vây làng Kẻ Một để bắt cha Phêrô Nguyễn Văn Tự dòng Đa Minh (+1838), dân làng đã đem cha đi trốn kịp thời. Quân lính không bắt được cha Tự, nhưng tịch thu nhiều tràng hạt, ảnh tượng và áo lễ, đồ thờ… Vì thế họ bắt các gia trưởng phải ra đình làng để lấy khẩu cung (DMAH 2 tr.212). Thánh Trùm Năm (+1840) xứ Kim Sen (Quảng Bình) đã bị bắt vì họ đạo giấu cất nhiều đồ đạo (DMAH 2 tr.430). Năm 1840, bà Anna Thuận thuộc xứ Đa Phạn bị bắt vì cất giấu đồ đạo của cố Đoan (Charrier) (DMAH 2 tr.462).

• Đón tiếp và chứa chấp các thừa sai: Thể hiện tình liên đới này còn phổ biến và nguy hiểm hơn việc cất giấu đồ thờ. Nhiều sắc lệnh của vua chúa coi đây là một hành vi phạm pháp phải diệt trừ các thủ phạm. Phải chăng vì thế mà thánh nữ Anê Lê Thị Thành đã bị bắt, bị lên án. Sách chép: Hôm ấy, ông trùm Cơ đưa cố Lý trốn sang các nhà khác, nhưng không ai chịu chứa chấp, ông đành đưa cố vào vườn nhà bà Thành. Bà chỉ cho cố cái rãnh khuất sau bụi tre giữa nhà dòng và nhà bà mà nói: “Xin cố ẩn chỗ này. Đức Chúa Trời có gìn giữ cố thì cố mới khỏi bị bắt, bằng không, chúng bắt được cố thì cũng bắt con nữa, hai cha con sẽ bị bắt với nhau”. Nói xong, bà và con gái út tên là Nụ lấy rơm phủ lên chỗ cố Lý trốn. Nhưng ngay lúc ấy, quân lính trông thấy đã ập tới bắt cố Lý và bà Thành (DMAH 3, tr.25). Thánh Martino Thọ (+1840) bị bắt và bị trảm quyết vì giữ đồ đạo và chứa giấu cha Ngân (+1840); thánh Gioan Baotixita Cỏn (+ 1840) cũng bị bắt và bị xử trảm vì giữ đồ thờ và che giấu cha Thịnh (+1840).

• ‘Đánh tháo’ mà không thành: Trong thời gian trốn tránh ở làng Xương Điền thuộc tỉnh Nam Định, thánh linh mục Dominicô Tước (+1839) bị Bát Phẩm đem quân đến vây bắt. Ông trùm Giám liền tổ chức dân làng đến ‘đánh tháo’: đàn bà đem các túi tro để phả vào mặt quân lính, đàn ông mang giáo mác ra đánh nhau với đồ đệ của Bát Phẩm. Vừa đến cửa nhà giam cha Tước, dân chúng la thét, nhưng cha Tước ra hiệu bảo họ yên đi để mặc cha. Ngài bảo ‘anh chị em làm thế này chỉ gây cái chết cho cha mà thôi’. Nghe vậy, quân lính của Bát Phẩm nảy ý định giết cha. Một tên lính cầm mác chém vào đầu cha Tước hai nhát. Cha Tước quỵ xuống vũng máu, lính của Bát Phẩm chạy tháo thân. Giáo dân băng bó cho cha Tước, nhưng cha đã an nghỉ khoảng một giờ sau đó (DMAH 2 tr.294). Một năm trước, thánh linh mục Vicentê Đỗ Yến (+1838) bị bắt tại giáo xứ Kẻ Sặt. Giáo dân Kẻ Sặt định chiêu mộ giáo dân về Hải Dương ‘đánh tháo’ cha. Nhưng khi nghe tin ấy, cha Yến cản ngay và đã bị bắt vào ngày 2 tháng 6. (DMAH 2 tr.133).

• Góp tiền liên đới: Trong thời bách hại, nhan nhản hiện tượng ‘quan tham lại nhũng’: nhiều trường hợp các quan đòi tiền trắng trợn, nhiều khi giáo dân tự nguyện góp tiền để ‘đút lót’, mong được ‘tự do sống đạo’ hay cứu một linh mục hoặc một giáo dân bị bắt. Chính các vị tử đạo không chấp nhận ‘sự hối lộ’ này. Dưới đây chỉ là mấy vụ tiêu biểu.

+ Tục ‘tiêu xưng’ Trong chuyện về thánh linh mục Philippê Phan Văn Minh (+1853) có ghi rằng “Các quan cứ vặn hỏi cha Minh để tìm cách bắt thêm nhiều người, vì càng nhiều người càng kiếm thêm được nhiều tiền đút lót như ngày xưa có tục gọi là ‘tiêu xưng’, và dân gian cũng thường nói ‘vô phúc phải đến tòa quan’. Hiểu như thế mới thấy lời khai của cha Minh muốn tránh liên lụy cho người khác” (DMAH 3 tr.84).

+ Lý trưởng nghiêm minh: Biết mọi mánh khóe tham nhũng của giới quan lại, thánh Micae Lý Mỹ (+1838) đã cương quyết cản dân làng Kẻ Vĩnh muốn góp tiền nộp cho quan để chuộc ông ra (DMAH 2 tr.187).

+ Một đồng đỏ cũng không: Năm 1773, quan huyện Kẻ Bích là Trung Hiên vừa bắt được cha Gia, đã đề nghị thẳng với cha: “Nếu ông muốn tự do, ông hãy nói với giáo dân mang đến cho tôi 500 quan tiền”. – Cha Gia đáp: “Giá chuộc tôi, một đồng tiền đỏ cũng không được. Nếu quan muốn trả tự do cho tôi thì tùy ý quan, còn muốn giải tôi về kinh cho vua thì tôi sẵn sàng chịu chém hay bất cứ hình nào khác” (DMAH 1 tr.194).

+ Quan muốn tiền chứ không muốn gỗ: Vào khoảng năm 1798, tại trấn Thanh Hóa, quan muốn làm tiền giáo dân, đã đòi phải nộp tiền để nhà thờ của họ khỏi bị phá hủy. Vì đã hai lần bị bóc lột rồi, nên giáo dân không chịu nộp tiền, để mặc quan muốn phá nhà thờ thì tùy ý quan. Nhưng quan trấn nói rõ ‘Tôi muốn lấy tiền chứ tôi không muốn lấy gỗ’. Trước kia người công giáo đã phải làm tờ giao ước với người lương, đóng góp một số tiền lớn để được yên ổn giữ đạo và khỏi phải tham dự vào việc cúng tế các thần. Thế nhưng mỗi khi có lệnh bắt đạo là các quan và lương dân lại lợi dụng cơ hội làm tiền giáo dân; (DMAH 1 tr.246).

• Thăm viếng các tù nhân vì đức tin: Không phải chỉ theo tình cảm tự nhiên vì ruột thịt, vì tình thân hay vì nghĩa đồng hương, người dân công giáo quan tâm đến việc thăm ‘các tù nhân vì đức tin’ còn vì luật ‘đức bác ái phúc âm’: ‘khi Ta bị tù đày, các ngươi đã đến thăm’ (Mt 25,36): Cả gia đình đã đến thăm ông Micae Lý Mỹ (DMAH 2 tr.191). Cô gái út vào tù thăm mẹ là bà thánh Đê (DMAH 3, tr.28). Một bà đạo đức đã mua chuộc quan quân để được vào thăm cha Duệ và muốn mua cho cha một chiếc chiếu tốt để nằm nhưng cha từ chối (DMAH 2 tr.164). Cha Triệu lẻn vào thăm thầy Truật và cho Thày rước lễ bốn lần, cha còn dẫn mẹ Thày vào thăm con hai lần (DMAH 2 tr.283). Nữ tu Maria Nụ được quan cai tù cho vào thăm cha Xuyên nhiều lần, đặc biệt để băng bó vết thương cho cha, vì cha bị tra tấn dữ dằn đến ‘nát xương rữa thịt’ (DMAH 2, tr.343)… Thật dồi dào về số lượng và phong phú về ý nghĩa, chúng tôi không thể đan cử hết được. Trên đây chỉ là mấy trường hợp tiêu biểu và vắn gọn.

• Chứng kiến các vụ hành quyết: Một trong những nghĩa cử liên đới tập thể của dân làng là kéo nhau đi dự các phiên tòa hay buổi hành quyết của một vị tử đạo. Dân làng, trước tiên là người công giáo, rồi cả lương dân. Người lương đi vì tò mò hay vì tình cảm tự nhiên, đôi khi với tâm tình dị đoan, còn người công giáo đến dự tòa hay chứng kiến cuộc hành quyết là vì ‘liên đới niềm tin’, vì ý nghĩa sâu sa của việc tử đạo. Không thể nêu lên hết, chúng tôi chỉ chọn ba trường hợp sau đây:

+ Người viết chuyện thánh thày giảng Phaolô Mỹ (+1838) ghi lại rằng: “Ngày 17.12, vào lúc 10 giờ, ba thày Đường, Truật và Mỹ bị điệu ra pháp trường Gò Sỏi với 16 tội nhân khác, có 300 lính hộ vệ. Mỗi tội nhân có bốn lý hình đi theo: một người cầm bản án bằng gỗ, hai người cầm xích và gông, và một người cầm gươm đi sau. Sau cùng là người đánh phèng phèng và hai sĩ quan cỡi voi. Dân chúng đi theo sau rất đông. Các anh hùng xưng đạo vui tươi bước đi vững chắc. Thỉnh thoảng giữa đám đông vọng lên tiếng hô lớn: ‘Xem kìa toán lính của Chúa Giêsu’. Tới nơi xử, các binh sĩ làm thành vòng tròn chung quanh các tội nhân trong khi lý hình sửa soạn hình cụ. Thầy Mỹ và thày Truật bị cột vào cọc gần nhau trên những tấm chiếu giáo dân đã trải sẵn. Các thày nằm sấp giang tay ra và chân bị trói vào một cọc, sợi dây vòng qua cổ chờ đợi lệnh. Vào khoảng một giờ trưa, lệnh quan vừa phát ra, lý hình kéo dây thật manh, các vị anh hùng lắc lư cái đầu trong cơn hấp hối. Ngay sau đó, quan đội cho phép người công giáo lấy xác và đem các đồ vật của các ngài đặt ở bên, như giây thừng, xích sắt, bản án”. (DMAH 2 tr.276-277).

+ Người chép chuyện thánh Matthêô Lê Văn Gẫm (+1847) ghi lại rằng: “Mọi người dự các phiên tòa xử ông Gẫm đều vui mừng thấy ông có đức tin vững mạnh… Ngày 11.5.1847 quan truyền lệnh đem ông Gẫm đi chém. Rất đông dân chúng đi theo, trong đó có cha Thán đến như lời đã hứa. Tới pháp trường quan đã chỉ định, lính đóng lại sửa soạn, thì dân làng ra lạy quan xin đem đi xa hơn để xử. Quan cho lệnh đến nơi khác gọi là Bánh Tráng và lý hình trải đệm, chặt xích xiềng, mở trói. Trong lúc đó các ông trùm len lỏi đưa cha Thán đến gần hơn để ông Gẫm biết có cha ở đàng sau. Thấy cha rồi, ông Gẫm xin lý hình cho một ít phút để sửa soạn. Khi thấy ông đấm ngực, cha Thán giơ tay ban phép giải tội. Xong, ông quỳ nghiêm chỉnh, xin lý hình thi hành nhiệm vụ. Họ trói ông vào cọc, buộc tóc lên trên đỉnh đầu và chờ lệnh. Hồi chiêng vừa dứt, tên lính cầm đao chém một lát gần đứt đầu, phải cứa lần thứ hai cho đầu rơi xuống đất. Lý hình giơ đầu lên cho quan xem thấy rồi bỏ xuống và chạy đi xa. Giáo dân ùa vào thấm máu. Ba người em ông Gẫm cùng với các ông trùm lo việc mai táng…” (DMAH 3 tr.47-48).

+ Người chép chuyện thánh thừa sai Augustinô Đông (Schoeffler, +1851) ghi lại rằng: “Hôm ấy quan Nguyễn Khắc Tuần cho gọi hai đội quân sửa soạn voi, ngựa và súng, các khí giới đủ loại để áp giải vị anh hùng tử đạo đến pháp trường. Quan làm như vậy vì sợ giáo dân đến đông có thể ‘đánh tháo’ cho vị linh mục. Đám lính gồm 100 người chia thành hai hàng, cha Đông đi ở giữa có tám tên lính cầm giáo hộ tống, đàng trước có một tên lính cầm thẻ ghi bản án, đi sau là hai quan lớn cỡi voi. Khi đi ra pháp trường người anh hùng bỏ dép, đi chân không cho dễ dàng và mau chóng, biểu lộ nét mặt vui mừng hớn hở. Cha ngẩng cao đầu, giơ cao xích và miệng đọc kinh. Một đám đông vô số theo sau đi ra pháp trường ngoài thành quen gọi là Năm Mẫu. Như bị thôi miên trước thái độ can đảm của vị đạo trưởng, nhiều người nói với nhau: ‘Thật là anh hùng, người đi chịu chết mà dường như đi dự lễ. Can đảm chừng nào, không có dấu sợ hãi. Ôi đẹp làm sao, hiền hậu làm sao! Tại sao hoàng đế lại chém đầu những người đẹp như thế?’. Tuy nhiên cũng có kẻ xấu miệng, nói những lời xúc phạm đến đạo… Tại pháp trường, lính đứng thành ba vòng vây quanh cha Đông. Hồi chuông thứ ba vừa dứt, lý hình vung gươm chém ngay vào gáy cổ. Nhưng có lẽ vì run rẩy nên lát đầu chưa đứt phải khía mãi mới đứt hẳn… Đám dân chứng kiến vụ hành quyết này phần lớn là người lương ở Sơn Tây, giáo dân vì biết tin muộn nên không đến kịp…” (DMAH 3 tr.67-68).

• Thấm máu tử đạo: Người Việt Nam quen dùng cụm từ ‘máu mủ’, ‘máu huyết’ ‘dòng máu’, ‘huyết thống’, ‘khí huyết’, ‘máu chảy ruột mềm’… để chỉ sự gắn bó ruột thịt giữa cha mẹ, con cái, anh chị em một nhà, anh chị em họ hàng gần xa. Cũng với ý nghĩa đó, ông bà ta thường nói : ‘Máu loãng còn hơn nước lã’, ‘Hơi nhà vả lại máu nhà, rõ ràng là mũi mẹ cha sinh thành’, ‘anh em mẫu huyết phụ tình, cũng là một máu nhà mình chớ ai’. Người Do Thái, Hy Lạp, và Trung Hoa đồng quan điểm với người Việt Nam, là liên kết máu vào sự sinh sản và cảm thụ tính của con người. Nhưng trong việc người ta, công giáo hay không công giáo ‘ùa vào’ thấm máu các vị tử đạo mang nhiều ý nghĩa thiêng liêng khác: Máu tử đạo là ‘máu của những anh hùng chết vì một lý tưởng đã chọn lựa’, ‘máu hy sinh, đổ ra vì ích quốc lợi dân’, ‘máu hiến tế cho Đấng mình tin tưởng và yêu mến’, ‘máu phù trợ những ai có lòng thành’, ‘máu làm phát triển việc truyền giáo và trổ sinh các tín hữư’… Nói theo Tân Ước, đây là ‘máu của người vô tội chảy ra trên trái đất’ (Mt 23,35), hòa với ‘máu giao ước đổ ra để chuộc tội muôn dân’ (Mt 26,28), cho họ được nên công chính (Rm 5,9) và gia nhập vào đàn chiên của Thiên Chúa (Dt 13,20). Ở đây chúng ta không dám đề cập sâu xa về những nghĩa thần học, mà chỉ muốn nhấn mạnh một điều: Khi thấm máu các thánh Tử Đạo, người ta bày tỏ một sự liên đới mãnh liệt với niềm tin anh dũng, với sự hy sinh cao cả của các ngài. Vắn tắt chúng ta nêu lên bốn trường hợp tiêu biểu:

+ Cha Gioan Đạt (+1798) vừa bị chém, đầu rơi xuống đất, máu phun thành dòng, thì quan cỡi voi trở về kinh đô. Lập tức giáo dân gào thét thảm thương, nước mắt dàn dụa, ào đến thi thể ngài. Người thì lấy khăn thấm máu, có người uống luôn, có người đào lấy chỗ đất có thấm máu của vị anh hùng tử đạo (DMAH 1 tr.243).

+ Cha Phêrô Nguyễn Văn Tự O.P. (+1838) vừa bị chém, đầu tung lên cao cho mọi người nom thấy, cả lương lẫn giáo chạy xúm đến để thấm máu và tranh giành tất cả những đồ của cha để lại. Người ta chen lấn nhau đến nỗi một số người ngã trên vũng máu và làm cho cả đám người thấm máu của vị tử đạo (DMAH 2 tr.229).

+ Cha Dominicô Trạch (+1840) được dẫn ra pháp trường, có rất đông người đi theo. Pháp trường rộng bảy mẫu là nơi máu của biết bao nhiêu vị anh hùng tử đạo đã đổ ra. Khi được lệnh quan lớn, thì từ trên lưng voi một lưỡi gươm vụt xuống đưa linh hồn vị thánh tử đạo về hưởng phúc trên trời. Dân chúng chạy tuốn vào, lấy khăn và giấy thấm máu của ngài và thu góp quần áo, giây thừng, xiềng sắt, gông gỗ… của ngài đem về làm kỷ niệm (DMAH 2 tr. 456-457).

+ Cha Philippê Phan Văn Minh (+1853) bị dẫn ra pháp trường. Quan hô to ‘Tả đạo, hãy chém’, lý hình vung gươm và đầu ngài rơi xuống. Máu phun lai láng. Dân chúng lương và giáo chạy ùa vào thấm máu. Nhưng vì bà trùm Lựu cản nên họ giành giật nhau, mạnh ai người ấy thấm (DMAH 3 tr.91).

• Mai táng các Đấng Tử Đạo. Thấm nhuần đạo hiếu, tôn kính Tổ Tiên và luân lý của Khổng - Mạnh, người Việt Nam rất trọng việc tang tế. Theo đức Khổng Tử, tang là một trong ba điều trọng nhất (Sở trọng giả: thực, tang, tế - Luận Ngữ) Vì thế ông bà chúng ta thường nói: ‘Sinh cư tử táng’, ‘sống vì mồ mả’, nên phải làm sao cho người quá cố được ‘mồ yên mả đẹp’. Ý tưởng ‘Nghĩa tử là nghĩa tận’ rất hệ trọng. Giáo dân Việt Nam nằm lòng những lời dạy của ông bà, họ rất liên đới với nhau trong việc ‘tìm mọi cách để lo mai táng các anh hùng tử đạo cho xứng đáng’. Nhiều khi quan quân đối xử với các anh hùng tử đạo theo kiểu ‘sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi’, nhưng giáo dân không hành động như vậy. Họ không thể liệt các anh hùng tử đạo vào sổ những người ‘sinh vô gia cư, tử vô địa táng’ hay ‘tham sống sợ chết’. Họ hãnh diện liên đới với cái chết dũng cảm của các ngài, họ không thể để các ngài thành ‘mai danh ẩn tích’, vì các ngài là những công dân Việt Nam gương mẫu, đáng được ‘sống thuận tử an’ và ‘mai cốt bất mai danh’. Không phải chỉ người thế gian mới trân trọng cái chết của con người, nhất là những con người đã sống trung thành với nền đạo lý và văn hóa quê hương của họ, những người đã chết cách anh dũng về đức tin, về công lý. Trước mọi người, trước mọi dân tộc, chính Thiên Chúa rất quý trọng cái chết của những người đã hy sinh mạng sống vì đạo thánh, như lời thánh Aucơtinh quả quyết: “Chính mắt chúng ta thấy rằng điều chúng ta vẫn hát đúng dường nào: Trước mặt Chúa thật là quý giá, cái chết của những ai trung hiếu với Người. Quả vậy, cái chết đó quý giá đối với chúng ta và cũng quý giá trước mặt Thiên Chúa, bởi lẽ các Ngài đã chết vì danh Người” (5). Muốn thấy giáo dân bày tỏ lòng kính trọng và tình liên đới với cái chết của các Thánh Tử Đạo tiền nhân như thế nào, chúng ta hãy đọc một vài trường hợp ‘giáo dân đã chôn cất và mai táng’ di hài các anh hùng tử đạo:

+ An táng hai thày giảng Inhaxiô và Vicentê (1645): Vừa khi hai thày bị chém đầu, giáo dân ùa vào thấm máu các vị anh hùng tử đạo. Giáo dân đã chuẩn bị bốn chiếc thuyền dưới sông để đưa xác các vị đi an táng tại một nơi thích hợp. Tất cả cung kính đưa xác ra tới sông, nhưng chỉ có 29 người được xuống thuyền đi đến nơi an táng. Trước cảnh giáo hữu cũng như những người ngoại giáo tỏ lòng tôn kính các vị anh hùng tử đạo, chúa Thượng Vương giận dữ sai lính đi đến hai làng có đông người công giáo để bắt những người đang hội họp trước hài cốt các vị tử đạo. Một số đông bị đánh đòn và đưa về Thuận Hóa (DMAH 1 tr.38).

+ An táng thày giảng Phanxicô Chiểu (1838): Sau khi một tên lính tung đầu thày lên ba lần theo tục lệ, thì giáo dân và lương dân đã ào đến hôn kính xác vị anh hùng tử đạo dù các quan ra lệnh ngăn cấm và dọa nạt. Họ tranh nhau thấm máu đào của ngài, có người còn cắt cả râu, tóc và xé lấy một mụn áo của thày về làm kỷ niệm. Sau đó quan cho phép giáo dân mang quan tài tới để liệm xác và chôn ngay tại chỗ. Sau này giáo dân cải táng đưa về làng Trung Lê, quê quán của thày (DMAH 2 tr.124).

+ An táng đức cha Girôlamô Hermôsila (Vọng), đức cha Berriô-Ochoa (Vinh) và cha Almatô (+1861). Trước khi ra lệnh hành quyết ba đấng, quan ra lệnh cấm không được thấm máu. Thế nhưng vừa khi ba đầu rơi xuống đất, dân chúng chạy vào thấm máu và tôn kính xác các ngài. Theo án lệnh, chỉ chôn tại chỗ ba thân xác, còn ba chiếc đầu phải ném xuống sông. Nhưng người công giáo lợi dụng lúc ‘quan quân áp tải ba cái đầu’ đang ăn uống say sưa trong một nhà hàng, đã tìm cách đánh tráo ba cái đầu thánh bằng ba củ chuối lớn, rồi xuống thuyền đưa về Yên Dật. Đầu của ba anh hùng tử đạo được bỏ vào ba nồi đất mới mà chôn trong nhà thờ thánh Gioan họ Yên Dật. Còn thân xác của ba đấng tử đạo, thì quan bắt chôn tại chỗ. Nhưng người công giáo đút tiền cho lính, tìm tro rắc lên trên để làm dấu. Tối 30 tết Tân Dậu, không có ai lai vãng, giáo dân đem thuyền và vải đến để liệm xác đem về, nhưng vừa tới cửa Hàn thì gặp thuyền chánh tổng Triệt. Dân thưa thành thật rằng, họ là giáo dân huyện Lang Tài nghe có ba Đấng bị trảm quyết là bậc cha mẹ mà bị chôn vùi trần trụi nên không yên lòng. Họ muốn đem quan tài và áo vải, khăn liệm chôn lại cho đúng đạo. Ông chánh Tổng đòi 300 quan tiền nhưng dân chỉ có 100 quan. Ông tổng cũng nhận, nhưng giữ lại hai thuyền, bắt họ trở về kiếm cho đủ số tiền. Đến đêm mồng 3 tết, ông tổng Triệt mới chịu dẫn ông Lý Đạt, Cả Nhân và xã Thụ là ba người công giáo đi lấy xác. Họ đem từng xác xuống, mỗi vị ở một thuyền và chở về Thọ Ninh. Đường đi mất 9 tiếng đồng hồ. (DMAH 2 tr.290-291).

6. Liên đới của những người không đồng đạo.

Nhiều trường hợp những người lương dân, thậm chí cả các quan hay lính canh nhà tù, đã tỏ ra thông cảm và liên đới với những đau đớn, khổ nhục và án hành quyết các Thánh Tử Đạo phải chịu. Chẳng hạn:

• Nấu cơm cho những người bị phơi nắng: Năm 1840, khi thống đốc Trịnh Quang Khanh và quan phủ Thiện Bản bắt các gia trưởng công giáo làng Kẻ Báng ra điểm danh rồi trói phơi ngoài trời nắng chang chang. Các bà lương cũng như giáo đã xin phép các quan nấu cơm đem ra cho những người bị giam nắng ăn (DMAH 2 tr.461).

• Họ không trộm cắp, không bớt xén công quỹ: Ngày quan Micae Hồ Đình Hy (+1857) bị đưa ra pháp trường, rất đông dân lương đi theo. Nhiều người nói với nhau: “Nào người này có phạm tội gì đâu, không trộm cắp hay bớt xén công quỹ, thật chỉ vì theo đạo Thiên Chúa mà phải khổ sở” (DMAH 3 tr.159).

• Xin nhớ đến chúng tôi: Sáng ngày cha Laurensô Nguyễn Văn Hưởng (+1856) bị đem đi xử trảm, ông đội canh dẫn vợ con vào chào cha Hưởng và nói những lời rất cảm động: “Mặc dù tôi không theo đạo công giáo nhưng tôi biết rõ các linh mục vô tội, ở Nghệ An tôi cũng đã phải canh một linh mục. Tôi không dám làm khổ ai, nhưng bây giờ phép triều đình đem cụ đi xử thì xin khi về thiên đàng nhớ đến chúng tôi với”. Cha Hưởng từ giã ông cai đội như sau: “Tôi rất biết ơn lòng tốt của ông, phần tôi, tôi đi về với Thiên Chúa, ông và gia đình ở lại bình an” (DMAH 3 tr.117).

• Khi lên trời xin nhớ đến tôi với: Đức cha Marti kể lại rằng: Ngày 27.6.1840, giữa trưa thày giảng Toma Toán trút hơi thở tại chỗ giam, thọ 73 tuổi. Khi thày gần qua đời, chính cai đội tham đã đến bên săn sóc thày, thay quần áo sạch sẽ cho thày và thu xếp góp quần áo cũ để làm dấu tích thánh. Sau cùng ông thưa với thày: “Lạy ông, tôi là người không có đạo, nhưng tôi xin ông khi lên trời nhớ đến tôi cùng” (DMAH 2 tr.436-437).

II. TINH THẦN LIÊN ĐỚI CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO

Trong bối cảnh chính trị và xã hội thời bách hại, nhiều người lên tiếng đòi các vua quan hãy sống đúng nguyên tắc phục vụ cơ bản là ‘dĩ dân vi quý’. Chẳng hạn ông Nguyễn Trãi (1380-1442) đã khuyên nhủ: “Nhân Nghĩa chi cử, yếu tại an nhân” (việc nhân nghĩa cốt tại an dân). Rồi nhìn vào xã hội tham tàn thối nát, dân tình nheo nhóc, ông đã than lên, tại sao “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ dưới xuống hầm tai vạ, dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế?”. Mấy chục năm sau, ông Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) cũng viết: “Cổ lai quốc dĩ dân vi bản, đắc quốc ưng tri tại đắc dân” (Từ xưa đến nay nước lấy dân làm gốc, được nước nên biết là ở chỗ được lòng dân). Trong một bối cảnh xã hội như vậy, các anh hùng tử đạo Việt Nam, nhất là các linh mục, thày giảng hay ông trùm làm sao không chia sẻ, liên đới đến tam cùng với dân chúng được? Các ngài không có tài văn võ, không có tiếng nói công khai như quý ông Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ… nhưng các ngài giàu lòng phục vụ âm thầm, đầy bác ái, yêu thương và chia sẻ với dân nghèo, đồng quê. Các ngài nâng đỡ họ về tinh thần, hướng dẫn họ sống theo tình yêu, chân lý và huynh đệ… Theo gương Chúa Giêsu, ‘các ngài sống giữa họ để phục vụ chứ không phải để được phục vụ’ (Mt 20,27-28). Các ngài đến như thánh Gioan là ‘giảng cho người ta nhận ra Thiên Chúa và được ơn cứu độ Ngài ban’ (Lc 1,76). Vì thế các ngài tự thấy: một trật phải liên đới với giáo dân, phải sống và hoạt động với họ, vì họ và nhờ họ, vừa phải liên đới với nhau theo tinh thần hiệp thông của Giáo Hội: Mỗi vị là một tay thợ của vườn nho (Mt 20,1-16), của đồng lúa (Mt 9,37-38). Nhưng trên hết là phải liên đới với Chúa Giêsu: Chính Chúa kén chọn các ngài, cắt đặt công việc mục vụ cho các ngài (Ga 15,16-17), trao cho các ngài ‘chén đắng phải uống’ (Mc 10,38-39) đàn chiên phải chăm lo (Ga 21,16-17).

1. Các ngài sống giữa dân nghèo như những người phục vụ:

Không bài giảng hay bài giáo lý nào hiệu lực, đánh động người ta hơn là ‘đời sống chứng tá’. Đó là phương thế truyền giáo là sư phạm mục vụ của các Thánh Tử Đạo giữa giáo dân nghèo khổ cơ cực, chân thành, lương thiện mà các ngài được sai đến để phục vụ.

• Cha Vicentê Đỗ Yến (+1838) là một vị đầy lòng từ bi bác ái, tính tình rất dễ thương, đồng thời cũng đầy cương nghị, nét mặt lúc nào cũng vui vẻ. Sống giữa giáo dân, ngài luôn sẵn sàng lo lắng cho con chiên và tận tụy hết mình. Ngài không bỏ qua một cơ hội nào mà không giúp đỡ những người chung quanh. Tất cả tâm hồn ngài tập trung mỗi khi dâng lễ và cử hành bí tích’ (DMAH 2 tr.131).

• Thầy giảng Phêrô Đào Văn Vân (+1857) phục vụ người nghèo hết mình: Những người giáo dân Bầu Nọ quả quyết rằng: Thầy Vân rất đạo đức, hiền lành, siêng năng làm việc, dù đã có tuổi. Bổn đạo thấy thày đã hơn 70 tuổi rồi mà còn ra ngoài đồng làm việc thì cản ngăn, nhưng thày nói: ‘Bổn đạo vất vả, chân lấm tay bùn, dầm sương dãi nắng, gồng gánh xa xôi, tôi làm một chút gọi là đỡ cho họ’. Mọi người cảm phục và khen ngợi lòng bác ái của thày. Thấy ai khốn khó, thày Vân đem tiền của đến tận nhà giúp đỡ họ. Ngoài ra thày Vân còn năng đi thăm kẻ liệt và chuyên cần dạy giáo lý nữa. (DMAH 3 tr.161)

• Cha Tế (+1745) không muốn để giáo dân bị liên lụy vì mình: Ngay khi vừa bị bắt với một số giáo dân, quan nạt nộ cha Tế dữ dội, mục đích để đòi tiền chuộc. Có lần quan hỏi cha: ‘Ngươi có sợ không?’. Cha trả lời mạnh mẽ ‘Tôi không sợ cho tôi, mà tôi chỉ lo cho giáo dân thôi’… Cha Tế bị bắt và bị giam suốt 7 năm. Tuy nhiên cả trong thời kỳ bị giam, cha vẫn tiếp tục giúp đỡ tinh thần cho giáo dân (DMAH 1 tr.167+169).

2. Liên đới với các bạn tù.

Không có một nhà tù riêng cho các anh hùng tử đạo. Khi bị bắt, các ngài bị đồng hóa như một tội nhân phạm pháp. Ý Chúa muốn như vậy để các ngài hiểu rộng rãi hơn câu ‘tứ hải giai huynh đệ’, thấm thía hơn lời ‘nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại’. Chia sẻ nhiều hơn, liên đới nhiều hơn với các tù nhân thường lệ.

• Để giúp đỡ về tinh thần: Cha Huấn làm chứng rằng: ‘Khi ở trong tù thầy Mậu (+1839) vui vẻ, gây được nhiều thiện cảm với các bạn tù ngoài công giáo… Vì thế thày đã dạy giáo lý cho 44 người, trong đó có một thanh niên nhiều chữ nghĩa tên là Hùng, học kinh bổn giỏi và thành thật. Anh đã xin và thày Mậu đã rửa tội cho anh…’ (DMAH 2 tr.347).

• Để giúp đỡ về vật chất: Nhiều người làm chứng về lòng bác ái của cha Xuyên (+1839), nhất là khi ở trong tù. Khi giáo dân đến thăm cho tiền hay cho đồ ăn, cha đều đem chia sẻ với các bạn tù (DMAH 2 tr.336). Cũng vậy, ông trùm Đích (+1838) sống thân thiện với các bạn tù. Nhiều lần ông mời họ đọc kinh với ông. Nhất là những đồ dùng hay thức ăn gia đình hoặc người thân đem cho ông, ông đều chia sẻ lại cho các tù nhân cùng giam với mình (DMAH 2 tr.201).

3. Liên đới nhau trong niềm tin và đức bác ái.

Là người Việt Nam - Công Giáo, các anh hùng tử đạo thương nhau, liên đới với nhau dĩ nhiên là theo nghĩa ruột thịt gia đình ‘anh em như thủ túc’, ‘chị ngã em nâng’ ‘máu chảy ruột mềm’ ‘lá lành đùm lá rách’; hay theo tinh thần đoàn thể ‘Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ’, ‘tương thân tương ái, hăng hái tiến lên’; hoặc theo tình tự dân tộc ‘vì dân vì nước tạo nghĩa tương thân’, ‘bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn’, ‘Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước hãy thương nhau cùng’… Nhưng đồng thời, cao siêu và phong phú hơn, các ngài yêu thương và liên đới với nhau trong niềm tin anh dũng, nói khác, theo gương Chúa Giêsu, Đấng đem tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người, gọi mọi người là anh em, đồng thân phận và chịu mọi thử thách như mọi người, hầu giúp những ai gặp thử thách, dạy họ trung tín thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho mọi người và cứu rỗi mọi người’ (xDt 2, 10-18). Các ngài cũng sống theo tinh thần của thánh Phaolô: ‘tự nguyện làm tôi tớ mọi người, vui với người vui, yếu với người yếu, khóc với người khóc, trở nên mọi sự cho mọi người hầu cứu rỗi thêm được nhiều người’ (1Cr 9,16-23). Một cách cụ thể, các anh hùng tử đạo đã thể hiện tình yêu và liên đới huynh đệ với nhau như thế nào? – Xin thưa:

• Bảo vệ người và nơi che giấu các ngài:

+ Thánh linh mục Nguyễn Đình Nghi (+1840): ‘Hôm ấy thống đốc Trịnh Quang Khanh cho lính khám nhà bà Anna Thuận, họ bắt được đồ đạo và trói bà giải đi. Một toán lính khác khám xét nhà bà Duyên, bắt được cha Nghi, họ reo hò mừng rỡ. Rồi họ dùng gươm, mác đâm thủng các bờ vách và đào nát nền nhà của bà. Lúc đó cha Nghi lên tiếng: ‘Tôi là linh mục, tôi sẵn sàng chịu mọi hình phạt vua quan sẽ định cho tôi, tôi chỉ xin các ông một điều là tôn trọng đừng phá nhà này, đừng dánh đập những người giáo dân vô tội’ (DMAH 2 tr.460). Cũng chính cha Nghi, trong phiên tòa 7.7.1840, thống đốc Trịnh Quang Khanh đòi ba cha Nghi, Ngân (+1840) và Thịnh (+1840) phải khai báo những nơi trú ẩn và những người chứa giấu các ngài. Cha Nghi thưa thay cho anh em: ‘Thưa quan lớn, chúng tôi đã đi nhiều nơi, nếu nói ra quan lớn sẽ tàn phá những nơi ấy và sẽ hành hạ những người có lòng che chở chúng tôi. Vì thế, xin lỗi quan lớn, chúng tôi không bao giờ khai báo’. Quan tức giận truyền cho lính đánh xối xả vào ba cha. (DMAH 2 tr.465).

+ Thánh thừa sai Louis Hương (+1852) nói nhiều lần với quan tòa: “Tôi đi rất nhiều nơi, không còn nhớ đến tên. Nếu tôi nhớ, tôi cũng không bao giờ nói cho các quan biết”. Lần khác ngài quả quyết: “Các quan cứ việc đánh đòn tôi đi theo như ý thích của các quan. Xin đừng trông tôi khai một lời nào có hại cho giáo dân. Tôi đến đây để phục vụ cho đến chết” (DMAH 3 tr.74, 75).

• Liên đới với nỗi buồn và lo lắng của người trong gia đình còn ở lại và khuyên họ vững vàng sống đức tin.

+ Thật cảm động, những lời thánh Matinô Thọ (+1840) nói với vợ và các con trước khi bị bắt: ‘Nếu tôi bị bắt, xin bà và các con hãy vui lòng, dù có mất của cải cũng đừng phàn nàn. Nếu bà và các con bị bắt, xin bà và các con can đảm xưng đạo cách mạnh mẽ’ (DMAH 2 tr.474). Khi ngồi tù và được các con tới thăm, ông lại thân mật chia sẻ: ‘Các con yêu quý của cha, Thiên Chúa nhân lành định rằng cha không còn về với các con nữa, nhưng các con còn có mẹ, hãy vâng lời mẹ. Các anh chị lớn hãy lo đùm bọc các em nhỏ, các em nhỏ chịu khó nghe lời anh chị. Các con hãy can đảm làm việc chăm chỉ để phụng dưỡng mẹ, hãy trung thành đọc các kinh sáng kinh chiều và lần hạt. Thiên Chúa ban cho mỗi người một Thánh Giá, các con hãy vui lòng vác lấy và can đảm chịu gian khổ mà giữ đạo thánh. Cha không còn làm gì để giúp các con ở dưới trần này được nữa, cha chỉ còn lo sửa soạn ra đi. Vậy sau khi cha chết rồi, chú Chấn và mẹ các con chết rồi, thì hãy chia nhau tài sản. Nếu được phép, các con mang xác cha về chôn nơi cha bị bắt. Những gì cha đã làm cho các anh chị lớn khi cha còn ở nhà, thì các anh chị lớn cũng hãy làm như vậy cho các em nhỏ’ (DMAH 2 tr.476).

+ Thật cảm động lời của thánh y sĩ Simon Phan Đắc Hòa (+1840) nói với vợ hiền trước khi đi chịu trảm quyết: “Bà hãy can đảm, đừng buồn sầu vì số phận tôi đang chịu. Cái chết của tôi làm vinh danh Chúa. Xin bà hãy khuyên bảo các con chúng ta biết tuân theo thánh ý Chúa. Việc tương lai của chúng tôi đã ghi trong tờ di chúc. Còn về các học trò của tôi, bà hãy coi chúng như con vậy”. Rồi ngài hôn đứa con út và nói: “Khi cha bị bắt, con mới có một tháng mà bây giờ đã tập tễnh biết đi. Cha dâng con cho Chúa” (DMAH 2 tr.488).

• Các ngài không bao giờ có lời khai báo làm khổ cho nhau: ‘Cả họ vui chịu sỉ nhục, đánh đập, bỏ làng trốn đi chứ không nói chỗ ẩn lánh của cô Daria, một người đồng đạo muốn giữ luật Chúa (DMAH 1 tr.110). Thày giảng Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu bị giam cùng một trại tù với cha Tự, y sĩ Cảnh, và các thày giảng Uy, Vinh, Đệ, Mới. Ngài bị khốn khổ nhiều lắm vì mỗi lần ra tòa, các quan cứ hỏi vặn cho biết về những người đồng đạo cùng bị giam. Thày khôn khéo không nói câu nào gây phiền lụy cho người khác (DMAH 2 tr.345).

4. Liên đới ngay với những người ‘chối đạo vì yếu đuối và hèn nhát’ để khuyên họ can đảm xưng đạo và sống đạo.

Các Thánh Tiền Nhân nhìn thấy rõ nguy cơ chối đạo: Vì lợi lộc vật chất, vì tham sống tạm bợ, vì nhát đảm, vì bị mê hoặc bởi những lời dụ dỗ, lại không cương quyết chấp nhận mọi đau khổ, mọi roi đòn mọi nhục mạ, hay đầu hàng trước cái chết dữ dằn, mà nhiều người đồng đạo, thậm chí có cả linh mục đã ‘chà đạp Con Thiên Chúa, đã xúc phạm đến Máu Giao Ước và nhục mạ Thần Khí ban ân sủng…’ (Dt 10, 26-29). Các Thánh đau buồn, nhưng không bao giờ có một lời oán trách, chê bai hay lên án những người chối đạo. Các ngài đợi dịp tốt thì khuyên họ can đảm tuyên chứng đức tin, trở về với đạo thánh và thành tâm thống hối để được ơn tha thứ… Sau đây chúng ta nêu lên một vài trường hợp cụ thể:

• Một trong những mưu độc của tổng trấn Trịnh Quang Khanh: dùng tên những người công giáo đã bỏ đạo để khuyến dụ và làm lung lay đức tin của các chiến sĩ Chúa Giêsu. Nhưng nhờ ơn Chúa các Thánh lờ đi, không nghe theo, không hở môi chê bai chỉ trích những người đã bỏ đạo. Chẳng hạn chúa Minh Vương thường nhắc đến vụ thừa sai Maurô chối đạo (DMAH 1 tr.75). Hay tệ hơn, quan tuần vũ Ninh Bình còn kéo cụ Duyệt đã chối đạo đến khuyên thày giảng Gioan Baotixita Đinh Văn Thành (+1840): “Hãy bắt chước Thánh Phêrô đi, chối đại rồi ăn năn trở lại”. Thày Thành nghe nhưng làm ngơ lời khuyên ghê sợ ấy, nên bị quan tuần vũ cho lính đánh 30 trượng (DMAH 2 tr.405).

• Chuyện ba binh sĩ Augustinô Phạm Viết Huy, Nicola Bùi Đức Thể và Dominicô Đinh Đạt (+1839) thật cảm động. Ba ông đã can đảm xưng đạo và chịu hành hạ, sỉ nhục suốt tám tháng trời, thế nhưng vì yếu đuối cả ba đã theo nhau chối đạo, để lãnh lấy mỗi người 10 quan tiền và trở về nhà. Nhưng cũng từ đó cả ba đều bị lương tâm cắn rứt và được nghe nhiều lời khuyên răn tốt lành… Ba ông coi đó là ơn Chúa tha thứ và kêu gọi hối cải. Ba ông rủ nhau đi tìm linh mục giải tội và quyết tâm lên tỉnh xưng đạo lại. Cả ba quỳ xuống lạy quan tổng trấn Trịnh Quang Khanh: “Bẩm quan lớn, đạo Thiên Chúa là đạo thật, Chúa chúng con thờ là là Đấng cao cả phép tắc vô cùng, bởi chúng con đã quá dại dột mà chịu quá khóa, mất nghĩa cùng Chúa chúng con, nay chúng con xin trả tiền lại cho vua và cho quan lớn, cùng xin giữ đạo Chúa cho thật lòng”… Nghe vậy, tổng trấn Trịnh Quang Khanh nổi giận, chửi bới thậm tệ. Nhưng ông không biết xử trí làm sao… Trong lúc đó ba binh sĩ Huy, Đạt và Thể bảo nhau ăn chay, hãm mình, cầu nguyện để đền ‘tội đã làm gương xấu’ và ‘xin ơn chết vì đạo thánh’… Rồi ba ông cương quyết: “Nếu quan thượng Khanh không cho chúng ta chết vì đạo, thì chúng ta sẽ vào kinh đô tâu xin nhà vua cho chúng ta chết vì đạo, để sửa lại gương mù chúng ta đã làm”… Hay tin, mọi người quen biết, bị giam trong tù hay sống đạo ở ngoài, chung lời cầu nguyện cho ba ông… Và ba ông đã được phúc tử vì đạo cùng năm 1839 (DMAH 2, tr.295-328).

• Khi thày giảng Toma Toán (+1840) tuyên bố bỏ đạo thì thánh linh mục Giuse Đỗ Quang Hiển (+1840) cùng bị giam trong một nhà tù, yên ủi và khuyên răn nên Thày Toma hối cải, khóc lóc cầu nguyện ‘Lạy Chúa con, con thật đã quá điên rồ nên mới nghe người ta mà chối bỏ chính Chúa của con. Con quyết ăn năn giốc lòng chừa không bao giờ phạm tội như vậy nữa’. Thày được cha Hiển giải tội cho. Sau đó, nhiều lần được dỗ ngọt, bị đe dọa, đánh đòn, thày Toma chỉ nói luôn một câu: ‘Thưa quan lớn, tôi không có ý bỏ đạo bao giờ nữa. Tôi sẵn lòng chết chứ không tuân lệnh quan lớn’. Quan tức giận, đã bỏ đói thày cho tới chết, ngày 27.6.1840, thọ 73 tuổi (DMAH 2 tr. 430-436).

5. Liên đới ‘nâng đỡ và an ủi nhau’ và quyết tâm tuyên chứng đức tin.

Như lời Thánh Phaolô viết trong thư gửi giáo đoàn Do Thái: Trong thời cấm đạo, nhất là khi bị bắt, các vị tử đạo phải đối phó với bao nỗi đau khổ dồn dập, khi bị sỉ nhục và hành hạ trước quan tòa, khi phải liên đới với những người cùng cảnh ngộ. Các ngài đã thông phần đau khổ với những anh chị em cùng tù tội, đã vui mừng để người ta tước đoạt của cải, chức vị… Tất cả chỉ vì lòng tin, chỉ vì muốn trung tín với Thiên Chúa, muốn được ơn cứu độ… muốn chờ đợi phần thưởng cao quý và vĩnh cửu (xDt 10,32-35). Trong trận chiến căm go này, các Thánh Tiền nhân đã liên đới với nhau, đã thực hiện cụ thể giới răn của Chúa Giêsu ‘Các con hãy yêu thương nhau như thày yêu thương các con’ (Ga 15,17): khích lệ người nhút nhát, nâng đỡ người yếu hèn, không lấy ác báo ác, nhưng làm điều tốt cho nhau, chỉ dẫn cho nhau, kính trọng nhau, hòa thuận với nhau, nhất là cầu nguyện cho nhau không ngừng và cùng nhau tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.… (x.1Ts 5,12-22).

• Sách kể rằng: Khi 8 người giáo dân Quảng Nam (1700) bị các quan giải về Kinh Đô và ném vào chuồng voi, họ không ngớt lời an ủi nhau’ (DMAH 1 tr 82).

• Sách kể rằng: Ba binh sĩ Augustinô Phạm Viết Huy, Dominicô Đinh Đạt và Nicolas Bùi Đức Thể (+1839) đã cấu kết với nhau theo tình nghĩa đồng binh chủng và đồng đức tin. Vì thế trước quan tòa, binh sĩ Phạm Viết Huy luôn đại diện anh em để trả lời. Chẳng hạn khi quan cho lính kéo lê các ngài qua ảnh Thánh Giá rồi truy hô ‘Chúng quá khóa rồi, chúng quá khóa rồi’, thì lập tức ông Huy đại diện anh em kêu lên thật lớn: ‘Quan lớn dạy đánh đòn cùng kéo ép chúng tôi, có lẽ nào mà nói chúng tôi đã quá khóa được!’. Quan tức giận, đánh đòn ba ông trong ba ngày liền, mỗi ông bị đánh 130 trượng. Lần khác ra tòa, quan dụ ba ông bỏ đạo, ông Huy lại thưa thay anh em: ‘Bẩm quan lớn, quan lớn dạy chúng tôi bỏ đạo Thiên Chúa, thì chúng tôi sẽ theo đạo nào, vì trong các đạo khác, chẳng có đạo nào là đạo thật’. Quan tức giận truyền cho lính cạo trọc đầu cả ba ông, bắt đeo gông và phơi nắng trước dinh quan (DMAH 2tr.302).

• Sách kể rằng: “Khi quan đã chém đầu cha Tự và y sĩ Cảnh rồi, thày Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu được coi như ‘người hướng dẫn tâm hồn của bốn thày giảng khác là Uy, Vinh, Đệ và Mới’. Mỗi lần ra tòa thày Mậu đều trả lời thay cho bốn anh em. Ngày bị dẫn ra pháp trường, thày Mậu cũng đi trước và bốn thày Uy, Vinh, Đệ, Mới đi theo sau. Tất cả đều hân hoan, niềm vui hiện trên khuôn mặt…” (DMAH 2 tr. 346,351).

6. Liên đới với những người cầu xin các ngài.

Ngay sau khi chết để tôn vinh Thiên Chúa, xây dựng Đạo Thánh và vì yêu mến Quê Hương, nhiều vị Thánh Tử Đạo đã được diễm phúc biểu dương uy quyền của Thiên Chúa bằng những dấu lạ. Các ngài trở nên những ‘trung gian đắc lực trước tòa Thiên Chúa cho những ai nhờ các ngài cầu thay nguyện giúp’. Đối với chúng ta và ở trước tòa Thiên Chúa, các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ‘những cha mẹ hiền lành để đức cho con’. Ở trên Thiên đàng, các ngài không chỉ ‘dĩ đức báo đức’, mà còn ‘dĩ đức báo oán’, các ngài nhìn rõ ‘nhân tình thế thái’, thấu hiểu lòng người, thông cảm và chia sẻ với mọi nỗi cơ cực của đời sống con người, đặc biệt của những ai thành tâm cần đến sự giúp đỡ của các ngài. Phần thưởng Thiên Chúa trao ban cho các ngài là khả năng ‘cứu nhân độ thế’, ‘phù hộ độ trì’, ‘cứu khốn phò nguy’…. Những dấu lạ chúng ta đan cử dưới đây xác nhận như vậy:

• Nhờ lời bầu cử của thày Phanxicô (+1629), một giáo dân đã chữa lành 30 người bị quỷ ám; một cô gái tỉnh Nghệ An đã cứu người mẹ hấp hối tỉnh lại và khỏe mạnh bình thường; một cụ già nằm liệt sắp chết giữa rừng được khoẻ lại (DMAH 1 tr.110).

• Nhờ lời bầu cử của cha Đậu (+1745), ông lý hình Chân Nhuệ, người đã bắt nộp cha Đậu cho quan trấn và sau khi cha Đậu chết vì đạo, ông đã hối cải và cầu xin với ngài, ông được khỏi bệnh cách lạ lùng. Một trường hợp khác: ông già giữ chùa bị đau nặng, dù đã cầu đảo các thần phật và chạy chữa thuốc men nhưng vẫn không khỏi. Một người bạn công giáo khuyên ông cầu khấn cha Đậu. Ông nghe theo, khấn vái thành tâm và được khỏi bệnh. Sau đó ông xin trở lại làm con Chúa (DMAH 1 tr.188-189)

• Nhờ lời bầu cử của cha Đạt (+1798), cậu Đam được khỏi bệnh. Ông Phêrô Vũ Văn Thang kể rằng: ‘Cháu trai của tôi là Đam bị chứng bệnh đau bụng kinh niên, nhiều khi đau kinh khủng, không thuốc nào chữa được. Một hôm, tôi được ơn soi sáng, đến mộ cha Đạt đọc năm kinh Lạy Cha, năm kinh Kính Mừng, rồi nhổ vài ngọn cỏ trên mộ ngài đem về nấu nước cho cháu uống. Vừa uống xong bát nước, cháu khỏi bệnh ngay, không đau lại nữa’ (DMAH 1 tr.244).

• Nhờ lời bầu cử của cha thánh Tùy (+1833), Chúa đã ban cho nhiều người được ơn lạ. Thầy Bernard Thu kể lại rằng: ‘Nhiều lần tôi nghe kể lại những phép lạ do lời bầu cử của cha thánh nhưng chưa ai viết ra. Riêng tôi, tôi xác quyết rằng: mỗi lần tôi chữa trị các bệnh nan y, tôi đều cầu khẩn với cha Tùy, và tôi được cha nhậm lời. Chính ngài đã chữa các bệnh nhân. Một vụ việc khác: nhờ lời bầu cử của cha thánh, ruộng lúa của tôi không bị sâu bọ tàn phá như những ruộng khác của đồng bào. Mọi người bỡ ngỡ, nhưng tôi vui mừng vì biết lời khấn của tôi đã được chấp nhận’. (DMAH 2 tr.50-51).

• Nhờ lời bầu cử của thánh y sĩ Cảnh (+1838), những người công giáo hộ tống xác ngài phải đi qua sông giữa đêm khuya và không có đò, họ sốt sắng quỳ xuống cầu nguyện cùng Đấng Tử Đạo, bỗng nhiên nước rút cạn chưa từng có. Họ đưa xác ngài qua sông về nơi an táng cách dễ dàng (DMAH 2 tr.234).

• Nhờ lời bầu cử của thánh linh mục Đaminh Mầu (+1858) nhiều người được chữa lành: Ông Đaminh Đỗ thuộc họ Đức Bà xứ Kẻ Điền quả quyết ‘mình đã được khỏi bệnh đau bụng nguy kịch’. – Bà thị Chi, 50 tuổi, thuộc làng Lập Bái, cũng tuyên chứng ‘mình được khỏi quỷ ám cách lạ lùng năm 1884’. – Ông cai Thìn, người Lương, cũng quả quyết ‘mình được khỏi quỷ ám, nhờ khấn trên mộc cha thánh Mầu’ (DMAH 3 tr.197).

7. Liên đới với Chúa Kitô.

Tột đỉnh của mọi liên đới trong đời sống của người có đức tin là liên đới với Thiên Chúa, với Đức Kitô. Nói cách khác, họ kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô ‘để không những thành những cành nho gắn liền với thân nho’ (Ga 15,5), ‘thành những chi thể gắn liền với thân thể’ (Rm 12,4), nhưng còn hơn thế, ‘không phải họ sống mà là Chúa Kitô sống trong họ’ (), ‘nói trong họ và hành động nơi họ’ (xMt 10,18-20). Thực ra các Thánh Tử Đạo đã múc lấy tinh thần liên đới cao quý này ngay trong ‘niềm tin vào Trời của dân tộc Việt Nam’: ‘Trời sinh Trời dưỡng’, ‘Trời có mắt’, ‘Phước tội tại Trời’, ‘Trăm sự nhờ Trời’, ‘Thiên bất dung gian’, ‘Thiên Đạo chí công’, ‘Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt’, ‘Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên’, ‘Sống chết ở Trời’, ‘Trời thưởng, Trời phạt’… Quan niệm linh thiêng này được minh bạch hóa, được siêu nhiên hóa, được phong phú hóa và được phổ biến hóa nhờ đời sống đức tin vững chắc và việc tuyên xưng đức tin cách anh dũng của các ngài. Theo gương Chúa Giêsu, các Thánh Tử Đạo muốn quy mọi sự về Thiên Chúa, dâng mọi đau khổ, cực hình và cả mạng sống cho Thiên Chúa, hoàn toàn vì vinh danh Thiên Chúa và để được phần rỗi đời đời. Chúng ta hãy đọc những chứng từ sau đây:

• Thánh y sĩ Giuse Hoàng Lương Cảnh (+1838): Dù đã cao niên, lại phải ra hầu tòa nhiều lần, nghe những lời khi nhục mạ khi dụ dỗ, thánh nhân đều bình tĩnh trả lời, nhưng luôn kết thúc bằng lời cầu xin: ‘Lạy Chúa Giêsu là đường ngay nẻo thật, ai theo Chúa sẽ được sống rất hạnh phúc. Xin Chúa giúp sức cho con’ (DMAH 2 tr.232).

• Thánh Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu (+1839) viết thư cho cha Huấn kể lại rằng: Khi ấy Đức Chúa Trời đã soi sáng cho con thưa mạnh dạn rằng: “Thưa quan lớn, tôi thờ lạy Thiên Chúa là Cha trên hết các cha, là Chúa trên hết các chúa. Bổn phận của tôi là tôn vinh Ngài…”. Bấy giờ quan lại bảo con và các thày Đệ, Uy, Mới và Vinh rằng: “Tụi bay ăn giống gì mà ngu dại thế, tụi bay cũng không thương cha mẹ nữa, ai sinh ra tụi bay ở thế gian này?”. Con lại thưa ngay: “Thưa quan lớn, cha mẹ tôi sinh ra tôi, song cũng bởi quyền phép của Thiên Chúa thì tôi mới có!” (DMAH 2 tr.350).

• Thánh nữ Anê Lê thị Thành (+1841): Bị hành hạ quá nhiều, lại bị cơn sốt nặng, thánh nữ kiệt sức và trút hơi thở cuối cùng khi miệng còn kêu xin: “Lạy Chúa tôi, Chúa đã bị đóng đinh vì tôi. Chúa định cho tôi thế nào, tôi xin vâng theo. Tôi phó thác linh hồn và xác tôi trong tay Chúa, Xin Chúa tha tội cho tôi” (DMAH 3 tr.29).

• Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh (+1857): Trong thời gian bị giam tù, thánh Lê Bảo Tịnh luôn nói cương quyết: “Tôi quyết tâm chịu mọi sự khổ cực thiếu thốn vì Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu là Cha rất nhân lành, là Đấng tôi quyết chí kính mến hết lòng, hết sức cho đến hơi thở cuối cùng” (DMAH 3 tr.134).

• Thánh Phêrô Đoàn Công Quý (+1859) đã bày tỏ lòng mong ước được tử đạo: “Chớ thì tôi không được diễm phúc chiến đấu và chết vì Chúa sao, ước gì xích xiềng trở thành những vòng đeo tay. Hãy xem bao nhiêu bạn hữu đã được ngành lá chiến thắng, còn tôi như người lính canh bị bỏ quên. Ôi lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con phúc chết vì Chúa” (DMAH 3 tr.219).

Sau khi trình bày chi tiết về hai khía cạnh liên đới của thời bắt đạo: ‘Liên đới với các Thánh Tử Đạo’ và ‘Liên đới của các Thánh Tử Đạo’, chúng tôi nghĩ rằng: Bài học lớn chúng ta có thể và phải múc lấy không nguyên nơi các Thánh Tử Đạo, mà nơi tập thể dân Chúa ở Việt Nam trong thời gian hơn ba trăm năm bách hại, là ‘sống liên đới, sống đoàn kết, sống tương trợ, sống hiệp nhất’ với nhau trong mọi phạm vi và hoàn cảnh của cuộc sống chúng ta hôm nay. Quả vậy, giữa bối cảnh đất nước giặc giã, tranh quyền vương bá, xã hội tham nhũng, thối nát, đời sống đói khổ, bon chen và tôn giáo đầy mê tín, dị đoan… mà Giáo Hội Việt Nam đã có thể khai sinh, lớn lên, phát triển, chịu đựng và vượt qua những cuộc bắt đạo phũ phàng, là nhờ một trong những yếu tố vừa tự nhiên vừa siêu nhiên, chính là tinh thần liên đới phúc âm. Tự nhiên, bởi vì tinh thần liên đới đã nằm sâu trong máu mủ, trong tâm thức, được thể hiện trong lịch sử oai hùng và sáng rực trong văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Siêu nhiên, bởi vì tinh thần liên đới tự nhiên nơi mỗi người, mỗi dân tộc bắt nguồn từ sự liên đới hiệp thông của Chúa Ba Ngôi, từ giáo huấn Tin Mừng. Sứ mệnh của mỗi Kitô hữu là vừa phải phúc âm hóa tinh thần liên đới tự nhiên của dân tộc, đồng thời phải sống đức tin kiên trì và anh dũng cho tinh thần liên đới phúc âm được hiện thực trong mọi phạm vi liên đới tự nhiên của dân tộc. Bằng cái chết anh dũng vì đức tin, các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh này. Nói một cách khác theo chủ đề cuốn sách, ‘Các Thánh Tử Đạo đã thăng hoa văn hóa Việt Nam’. Và đây chính là bổn phận phải được nối tiếp, chu toàn bởi chúng ta là hậu duệ của các Ngài. Mong thay!

---------

(1) Trần Trọng Kim, ‘Việt Nam Sử lược’ II, nxb Bộ Giáo Dục, 1930, tr.353-354.
(2) Trần Trọng Kim, ‘Luân Lý Giáo Khoa Thư’, in lần thứ ba, 1941, tr. 3-4
(3) Vũ Thành, ‘Dòng Máu Anh Hùng’ 1, 2, 3 nxb Thanh Sinh Công, Hoa Kỳ, 1987. Trong bài này chúng tôi trưng dẫn nhiều và viết tắt là (DMAH 1, 2, 3 tr…). Chúng tôi trích dẫn hoặc viết theo cuốn sách của cha Vũ Thành, vì đọc các chú giải hay thư mục ở phần cuối của mỗi cuốn sách, chúng tôi yên tâm về nguồn tài liệu lịch sử liên hệ đến Giáo Hội Việt Nam mà cha đã dày công nghiên cứu và xử dụng.
(4) Xem Nguyễn Đồng Chi ‘Kho tàng chuyện cổ tích’ cuốn 5, nxb Văn Nghệ Sàigòn, 1993, tr. 68-73,129-134.
(5) Kinh Sách ‘Các bài đọc’ tập 4, lễ chung các Thánh Tử Đạo, tr. 748, nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, 1999, Sài gòn.
Thánh Anrê Trần Văn Trông – Binh sĩ (+1838)
Thánh Vinh Sơn Tường - Nông dân (+1862)


Lm. Mai Đức Vinh
Vs. Đoàn Quốc Khánh