PHAOLÔ và BỐI CẢNH HÀNH ĐỘNG

Do thái, La Mã và tín đồ của Chúa

 

        “Là cư dân xứ miền Địa Trung Hải

ông hoạt động rất hăng say, xuyên suốt

            lại bán buôn đổi tiền với người Do thái

            và cộng đồng sắc tộc ở La-Hy.”

            (Richard Rohrbaugh)

 

Đôi giòng tóm lược

 

Trước thời thánh Phaolô, Đạo Chúa lúc đầu đặt cơ sở ở Giêrusalem và Antiôkia. Khi đó, có Giacôbê, người anh em đồ đệ của Đức Chúa. Kế đó, còn có Phêrô, cả hai đấng đều là chủ quản hội thánh, thời tiên khởi. Ở thời này, thánh Phaolô lại đã khám phá ra rằng một số bạn đạo từng hồi hướng trở lại, đã quay về với lối sống rất “trỗi dậy”. Thánh nhân không buộc những người này phải trở thành Do-thái, tức: phải kinh qua thủ tục “cắt bì” trước khi làm tín đồ của Chúa. Sở dĩ thánh Phaolô đề nghị lối sống có “trỗi dậy” là cách miễn chuẩn cho họ mọi ràng buộc nào đại loại như thế, bởi: trước đó ông đã được sự đồng thuận của hai thánh Giacôbê và Phêrô rồi, nhưng sau đó, các đấng lại chống đối quan điểm của Phaolô thánh-nhân, về chuyện này. Cả đến cộng đoàn Antiôkia cũng chịu ảnh hưởng từ một động thái giống như thánh nhân. Kết cục là, thánh Phaolô đành phải ngưng thi hành sứ vụ tông đồ đặt dưới trướng của đấng bậc trưởng thượng này và không còn tuỳ thuộc cộng đoàn do các vị làm chủ quản, nữa. Thánh nhân đã đi theo con đường riêng do mình định đoạt bằng vào kinh nghiệm từng trải với Đức-Chúa-Sống-Lại, là Đấng Chủ Quản Duy Nhất của thánh-nhân. Thánh Phaolô sinh hoạt mục vụ tại các thành phố chính ở Thổ-Nhĩ-Kỳ và Hy-Lạp. Sau đó, thánh Phaolô đã có thư gửi nhóm hội/cộng đoàn do ông thiết lập.

 

                                                                       ------

 

“Như vậy, thoạt nghe danh thánh Đức Giêsu,
cả trên trời dưới đất và nơi âm phủ,
muôn vật phải bái quỳ;
và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,
mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:
"Đức Giêsu Kitô là Đức Chúa”.

(Phil 2: 10-11)

 

                                                                             ---------

 

 

Mãi đến cuối thế kỷ thứ 20, các nhà chú giải của ta mới nhận ra là: lập trường/tư tưởng của thánh Phaolô đặt nặng chủ trương tạo nền thần-học hoặc khoa tu đức có chọn lựa. Các vị, chẳng bao giờ nghĩ rằng Đế quốc La Mã lại đã dính dự gì với thánh Phaolô. Nhưng, từ những tháng ngày hồi thập niên ‘70, nhờ các khám phá rút được từ các vụ khai quật và nhờ phát hiện ra tấm thủ-cảo ở Biển Chết, các học giả mới nhận ra được tầm quan trọng của lập trường thánh Phaolô luôn xem xét mọi việc dưới góc-cạnh chính-trị và tôn giáo hầu thấy được rằng: các thư cũng như bài viết do thánh-nhân đọc cho thư ký viết đều phản ánh cuộc đấu tranh chống lại ảnh hưởng có từ Đế quốc La Mã lên đầu óc dân thường ở huyện. Chú-giải tư-tưởng của thánh-nhân theo lối “mới”, là đường lối đã hình thành vào hơn 40 năm nay, nhờ có đường lối này mà hội thánh ta mới thấy được mối liên kết giữa tư tưởng của thánh nhân với bối cảnh chính trị cũng như tôn giáo, vào thời đó. Tư tưởng đây, nối kết đường lối chính trị, đặc biệt là chính trị và tôn giáo vốn dĩ loại bỏ mọi sự thể để đưa vào luồng sáng rất khác biệt. Nhiều người trong chúng ta có lẽ sẽ nhớ lại câu chuyện xảy ra cách đây không lâu, chừng 15 hoặc 20 năm đổ lại, về trường hợp tương tự đã diễn ra trong chương trình giảng dạy về Đức Kitô lịch sử. Thánh Phaolô không giống Đức Giêsu, Đấng sinh trưởng ở vùng sâu vùng xa thuộc xứ miền Galilê, nhưng thánh-nhân vẫn lang thang khắp thôn miền đến tận hang cùng ngõ hẻm toàn cõi Đế Quốc La Mã, về phía Đông. Đây là một tổng thể phức tạp về chính trị cũng như tôn giáo. Gần đây nhất, các nhà nghiên cứu đã thấy thánh Phaolô từng bất đồng với thể chế có bối cảnh chính trị rất chung đụng và thánh nhân cũng đã tìm ra thứ gì đó để thay cho bối cảnh ấy. Quả thật, đôi lúc ta cứ tưởng là thánh-nhân từng bất đồng ý kiến với các thể chế như thế, mãi đến khi ông tìm ra được cung cách hành xử rất chống báng, bằng vào kinh nghiệm từng-trải với Chúa-Sống-Laị.

 

Israel là ví dụ cụ thể về sự đáp ứng với bối cảnh chính trị ở đây. Ta lại cũng nhận ra rằng đối với thánh Phaolô,Israel có thể dùng để thay cho bối cảnh chính trị vốn không tài nào đạt được thành quả, hết. Và thánh-nhân vẫn nghĩ: ông đã thực hiện điều mà Israel vốn muốn làm nhưng lại chẳng bao giờ đạt điều mình mong muốn. Thực tế quả đã cho thấy ít xảy ra xung đột giữa thánh Phaolô và Israel hơn những gì mà lâu nay hội thánh vẫn nhận thức. Nhờ có ánh sáng soi dọi như thế, ta nhận ra 4 sự thể nổi bật lên bề mặt, như sau:

 

            *nhận thức về sự chọn lựa mới của thánh Phaolô đối với cuộc sống;

*cảm kích mới về sự thể khiến thánh nhân hiểu được sự sống lại;          

*cảm kích mới về sự thể khiến thánh nhân nhận ra sức mạnh của Thần Khí Chúa;

*Và cuối cùng, nhận thức rất sáng còn hiện rõ là: ta đề cập quá nhiều đến cảnh tình ta đang sống hôm nay, có phản ứng với Đế Quốc Hoa Kỳ (nếu gọi được như thế) trong khung cảnh của cuộc sống giống hệt thời Đế Quốc La Mã mà thánh Phaolô đã trải nghiệm. Khung cảnh song đôi, nhiều lúc cũng tương tự rất dễ để ta ra tay thực hành và biến nó thành hiện thực.

 

Nhờ trực giác sâu sắc, ta vẫn đặt nặng lên đó, nay đã xuất hiện, tuy hơi chậm, nhưng vẫn nói lên được lập trường hành động của thánh Phaolô, rất rõ. Tiến trình triển khai lập trường xảy đến với thánh nhân khi ông đi dần vào tuổi xế bóng. Nói cách khác, ta cũng nhận rằng ông thực sự là người Do thái lang thang từng lữ hành đi khắp đó đây – và đấy cũng là một biểu hiện khiến ta nhấn mạnh vào cụm từ “lang thang” cũng như danh xưng “Do thái” của ông. Bởi, chính ông từng đi đây đó, khắp Châu Âu, bắt đầu từ thủ phủ Philípphê rồi đến Thessalônikê, và sau đó lại đã đi vào trọng tâm của đất miền đầy ắp những văn hoá/văn minh của người Hy Lạp và La Mã. Ông đi, là đi đến Akaia và Côrinthô, nơi ông dừng chân lưu lại tại thành phố lớn đang phát triển mạnh ở Trung Đông, thời đó là Êphêsô. Các thủ phủ, cũng như hải cảng là điểm nối kết bước chân ông trên quãng đường dài ở phương Đông lẫn trời Tây, có cái gì đó làm xúc tác khiến ông trở thành nhân vật lừng danh, rất nổi tiếng.

 

Phaolô thánh-nhân đã tạo nên tình huống đó. Có điều lạ, là: ở thư Rôma đoạn 15 câu 23, trong đó chính thánh-nhân có lần nói: ông vẫn cứ âm thầm dấn bước trong hành trình rong ruổi quyết hoàn tất những điều mình chủ trương. Và, chính những thứ ông gọi là “tất cả mọi sự” đều nằm trong các nhóm/hội nhỏ bé, có lẽ cũng không nhiều, khoảng trên/dưới năm chục người đổ lại, ở mỗi nơi. Nhưng con số đó, đã lan rộng trên khắp mọi miền của Đế quốc La Mã, nếu ta chỉ tính mỗi số lượng người hồi hướng trở về thôi, cũng là con số rất đáng kể. Có lần thánh Phaolô nói: “Chỉ mỗi thế. Nhưng, rồi tôi sẽ đi về nửa phần còn lại ở bên kia đế quốc. Tôi cũng sẽ đi về hướng Tây để đến với Rôma và rồi sẽ đi Tây Ban Nha một ngày nào đó, cũng không muộn.” Tuy nhiên, có thể nói được là: trên thực tế, thánh-nhân chưa thực hiện cuộc lữ hành mục-vụ đến với Tây Ban Nha, nhưng ông đã thực hiện hành trình đi Rôma và lưu lại nơi này mãi đến ngày ông tạ thế, mới thôi.

 

Các giải thích về lập trường của thánh Phaolô ngày hôm nay cũng đã thay đổi khá nhiều, nhất là những năm gần đây. Từ lâu, ta thấy chừng như anh em Thệ phản chủ trương canh cải ý kiến khiến mọi người hiểu được thánh Phaolô theo cung cách rất đúng lịch sử và người anh em giáo hội bên ấy lại đã trình bày thánh Phaolô như nhà “vô địch” của chế độ tự do, so với hệ thống chỉ biết vụ vào “luật” Do thái mà thôi. Điều, mà người anh em giáo hội bên đó muốn nói, qua cụm từ “vô địch”. Anh em Thệ Phản lại đã tập trung nhấn mạnh vào ân huệ so với anh em Công giáo của ta chỉ đánh mạnh vào khía cạnh luật và luật, thôi. Làm thế, tức: người anh em giáo hội bên ấy đã biết đặt ưu tiên vào lịch trình thần học mang tính lịch sử theo như truyền thống của giáo phái Luther ở Đức, vẫn kỳ vọng. Đây, quả là nhận thức mạnh mẽ nhất trong trường phái chủ trương một học thuyết về Phaolô kéo dài nhiều thế kỷ mãi cho đến ngày gần đây. Lập luận này, nay không còn đứng vững nữa, chí ít từ năm 1999 khi Augsburg tuyên bố về vị thế của người anh em bên giáo hội Thệ Phản cũng như của người Công giáo chúng ta. Tuyên ngôn Augsburg ban hành ngày 31/10/1999 được Đức Gioan Phaolô II đại diện cho Giáo hội Công giáo La Mã ký kết và phía bên kia là Hiệp hội Luther, trên toàn thế giới. Dưới đây, là hai đoạn văn chính thấy được ở tuyên ngôn:

 

*“Cùng nhau, ta tuyên xưng: nhờ ơn thánh và niềm tin vào Công trình Cứu chuộc của Đức Kitô, tuyệt nhiên không do biệt tài của bất cứ ai, ta được Chúa chấp nhận đi vào với Ngài mà nhận đón Thần Khí Chúa, Đấng cải hoán tâm can ta trong lúc Ngài bổ sức mời gọi ta thực hiện công việc lành thánh, rất thiện toàn.”   

 

*“Nhờ ơn thánh, là bạn đồng hành rất chính trực có Chúa dẫn dắt ta đi vào với niềm tin, lòng trông cậy và tính sốt mến ta vốn có do công trình cứu độ đầy sáng tạo của Chúa. Dù sao đi nữa, trách nhiệm của đấng công chính không chỉ phung phí ơn lành thánh này, mà thôi; nhưng còn được sống trong ơn lành thánh, vẫn rất thực. Động lực khuyến khích ta sống lành thánh, là một khích lệ thực tiễn ngõ hầu giúp ta thực hiện niềm tin có Chúa và trong Chúa.”

 

Ngày nay, cả hai phía tức giáo hội Thệ Phản và anh em Công giáo chúng ta lại đã cùng nhau nhìn về bối cảnh chính trị và tôn giáo, qua đó thánh Phaolô vẫn sống cuộc sống lành thánh, chính trực.

 

Nói bối cảnh chính trị và tôn giáo, là nói đến đế quốc La Mã. Và, đó cũng là lý do để ta ngược giòng lịch sử trở về với thời xa xưa, hầu có được cảm giác đích thực và ta ngửi thấy được những gì đã thực sự xảy đến. Thêm vào đó, ta cũng nên nhìn về kiều dân Do-thái-giáo đã ở vào vị thế chính trị mà họ tạo được trong đế quốc thời đó. Chỉ khi ấy, ta mới thấy được bối cảnh sống động mà cộng đoàn tín hữu tiên khởi của Đạo Chúa đã sống và biết thêm được vị thế của thánh Phaolô về tổng thể, là như vậy.

 

Thánh Phaolô, thật ra đã tự đặt mình chọn lối sống trong một thế giới khá phức tạp. Ở đó, có đế quốc La Mã, có cả kiều bào Do-thái-giáo và tín đồ Đạo Chúa nữa. Bởi thế nên, dưới đây là dẫn nhập vào quá trình sự nghiệp của mỗi nhóm.

 

                                                                        ------------

 

Đế quốc La Mã

 

            “Có hiểu thế giới La Mã,

mới hiểu được Phaolô thánh-nhân.”

(R. Orlando)

Ghi chú: 

Các hoàng đế La Mã          gần và trong thời của Phaolô:

Augustus (Octavian):            năm 27 trước Công nguyên – 14 sau Công nguyên

Tibêrius                    :             năm 14 sau Công nguyên – 37 Công nguyên

Caligula (Germanicus):        năm 37 Công nguyên – 41 Công nguyên

Claudius                  : năm 41 Công nguyên – 54 Công nguyên

Nêrô                        :               năm 54 Công nguyên – 68 Công nguyên

 

Đôi giòng tóm lược về Hy Lạp

 

Cũng nên bắt đầu ở đây bằng một chú thích về mối tương quan giữa văn hoá Hy Lạp và đế quốc La Mã. Hy Lạp, ban đầu là “quốc gia” hoặc “đất nước”, vẫn nhỏ bé hơn “đế quốc”. Về nguồn gốc, đất nước này có một số khu định cư trong đó có sinh hoạt thương mại, trại binh, có nền giáo dục và văn hoá đã phát triển. Ý niệm về “thủ phủ” (tiếng Hy Lạp gọi là polis) khi ấy chỉ mới nổi vụt lên trước khi tạo sự điều hoà giữa các “thủ phủ” đưa vào quần thể lớn hơn. Điều này, có nghĩa là: mỗi “thủ phủ” như thế lại có các phần đất rất hiển thánh được vinh hạnh trao cho địa phương trông nom. Và trong đó, có nhiều vị thần không mang tính địa phương, vẫn rất nhiều. Athêna có các vùng đất như Akrôpolis, Parthênon và các đền đài dành cho thần linh, mà trong đó một số địa danh được du nhập từ ngoại bang, như: Ai Cập. Việc sát nhập các thủ phủ gộp thành một thứ tổng hợp các thần linh quá đông đảo. Và ý niệm về “Vị Thần” từ đó trở thành sự thể được mọi người cùng tôn thờ, sùng kính. Và sau đó, sự thể về “thần linh” cứ thế thẩm thấu nhờ vào uy lực của các đội binh, như trường hợp Alexander được coi như thần linh thánh ái, rất đáng kính. Chuyện như thế, lại cũng thấy xảy ra ở Ai Cập có vua/quan Pharaô rền khắp chốn. Và, lập trường tương tự cũng xảy đến với các triết gia, khá hiền từ. Các thần linh, đã được dân chúng tôn vinh đúc tượng và đặt nơi đền đài gọi là Panthêon. Các nối kết đại loại như thế, cũng tạo ra một thứ gọi là “sự đã rồi” giữa chính trị và sức mạnh quân sự, có hỗ trợ để phát triển lan sang các vị thần đồng thời là lãnh tụ chính trị.

 

 

Trọng tâm là La Mã

 

Điểm khác biệt giữa La Mã và Hy Lạp là chuyện khá thú vị. Chẳng hạn như, La Mã luôn mê say chuyện nối kết hoà hợp. Thế nên, “Hoàng đế” của họ là lãnh tụ kết hợp hài hoà giữa chính trị và quân sự. Việc thần-thánh-hoá các hoàng đế đương nhiên phải xảy đến. Các hoàng đế La Mã thời đó vẫn đòi người Hy Lạp phải coi họ ngang hàng và tương tự như các vị thần Hy Lạp… Điều cần hỏi là: giả như việc tạo dựng thần linh nào đó đồng thời là hoàng đế, có cần thiết cho hệ thống quan quyền La Mã trổi bật thành “đế quốc” không. Ngược lại, giả như hoàng đế nào đó trổi vượt như Octavian còn gọi là thần-hoàng-đế Augustus có đem lại ý niệm phóng đại nào về “thần linh”, không?

 

Augustus, người thế đó

 

Octavian là chính trị gia rất tài ba, lỗi lạc. Ông từng chơi trò chơi chính trị lạ kỳ để theo dõi xem người chơi trò này phản ứng ra sao? Hoạt động ở khu vực nào? Ông tự tạo cho mình quyền to lớn này là do từ binh đội dũng mãnh ông dựng ra. Ông còn muốn tạo cho mình thứ quyền bính hợp pháp lấy được từ nghị viện, nữa. Rồi từ đó, ông đã khuynh loát chòng chéo cốt để các chính trị gia ở nghị trường hiểu rằng chính họ đã trao cho ông quyền đó. Ông kiến tạo cho mình một cuộc sống oai phong lẫm liệt do thần-linh đem đến. Các thần này, không là thần gia đình, nhưng là thần của quần chúng từng đề ra nghi thức tế tự và lễ hội mừng vui phấn khởi để rồi qua đó các thần ban phép mầu và chúc phúc cho người cầm đầu, quản cai toàn đế quốc. Giả như những người này làm không được việc, thì lúc đó các thần sẽ khiến cho sông Tiber ngập đầy những nước với bão táp, mưa sa, lụt lội. Và, sông Nil sẽ cạn nước, khô cằn hết làm ăn. Các đất miền/thành phố lâu nay trở thành thể chế trong đó có vị thần ở chốn trời cao đã định danh chỉ thị thành lập đế quốc. Hoàng đế là đấng thần-thiêng thánh-hoá hiện diện bằng xương bằng thịt và dù thế nào đi nữa vẫn chỉ là phân nửa đoạn đường để tiến tới mà trở thành “thần thánh”.

 

Thủ phủ nổi bật là Athêna lại đã hứa hẹn dành cho Brutus và Cassius nhiều uy lực để lướt thắng tính chuyên quyền bạo ngược của Julius Xêda. Và sau đó, các thần lại hứa với Antony, một trong ba vị thuộc Tam đầu chế ở trời Đông, cũng sẽ được thế. Nhưng khi Octavian Augustus đánh thắng Antony trong trận Actium hồi năm 31 trước Công nguyên, Athêna lại đã làm hoà với hoàng đế đồng thời trở thành vị thần mới. Trên thực tế, thần-hoàng-đế Augustus xử rất tốt với Athêna cũng giống như Tibêrius thời sau đó. Các thần-hoàng-đế khác lại không tích cực được như thế. Như Caligula đại náo thành phố là để khiến cho Rôma thêm phần đẹp đẽ. Hadrian là vị thần-hoàng-đế rất có công trong hầu hết các cuộc chỉnh trang thành Athêna.

 

Tôn giáo phát triển rất nhanh vào thời của Đức Giêsu và cả vào thời thánh Phaolô còn tại vị là đạo thờ kính thần-hoàng-đế, đặc biệt là Hoàng đế La Mã. Muốn chứng tỏ lòng trung thành với Hoàng-đế, chỉ một cách duy nhất là thờ-kính tôn-vinh ông ta thật hết lòng. Việc thờ kính Xêda còn phát triển nhanh hơn thế nữa. Chuyện này thấy rất rõ và cũng chính xác qua sự việc tôn giáo và chính trị gắn bó với nhau, thật chặt chẽ. Trên thực tế, cũng chẳng cần có sự hiện diện của binh hùng tướng mạnh để giám sát đế-quốc nếu như toàn dân trong đế quốc đó vẫn thờ kính thần-Hoàng-đế, cũng rất mực.           

 

Rôma, hoặc nói rõ hơn là thần-hoàng-đế Augustus vẫn làm được mọi chuyện mà chỉ có thần linh mới được làm, đó là chinh phục cả thế giới. Nữ thần Justitia, từng là nữ thần được Augustus tấn phong/can-thiệp, chỉ là vị thần chiến thắng. Augustus đạt quyền cao chức trọng như thần-Hoàng-đế và ngày sinh của ông được ca tụng như điều mà mọi người trong đế quốc của ông gọi bằng tên “euanggelion”, tức: tin vui dành cho kẻ chiến thắng. Hoàng đế, tiếng Hy Lạp gọi là “kyrios”, và sự hiện diện rất vua-quan-thần-thánh được gọi là “parousia”.

 

Ở Rôma và Hy Lạp, nói chung là với thế giới thời cổ xưa, người dân có khuynh hướng tôn thờ sùng bái các hoàng đế. Chuyện này đã đi vào với quá khứ có bí ẩn về thờ kính các vị thần sống lại và thờ các vị thần phân nửa là người tức các thần linh sinh ra từ sự phối hợp giữa thần linh bất tử và người phàm dễ chết. Theo hiểu biết của nhiều người thì tầm mức uyên bác ở đây là họ trực tiếp tập trung nhiều vào việc thờ kính hoàng-đế mà không chú ý quá nhiều về chuyện này. Xem ra có nhiều điều xảy đến với ý niệm về “hoàng-đế” ngay từ lúc Augustus xuất hiện, đã đổi thay qui chế cho vị cầm quyền. Ông còn thay đổi cả bản chất ngôn ngữ khi mọi người gọi ông là đấng thần-linh thánh-ái. Điều này mang tính trực tiếp nói về ông hơn. Thật sự, thì Ausgustus còn hơn cả vị anh hùng đề cập ở đường lối tôn thờ theo cách bí hiểm của nhóm ngộ đạo.

 

Từ nhiều thế kỷ, nền Cộng hoà La Mã đều đã do hai quan chấp chính tối cao cai quản. Cả hai đều tại chức trong cùng năm. Khi La Mã chinh phục toàn thế giới vào thế ký thứ nhất trước Công nguyên, hai vị chấp chính này càng có nhiều quyền hơn và càng ít muốn san sẻ quyền của mình cho ai khác. Đó là hiện trạng của Brutus và Cassius sau khi Julius Xêda bị ám sát. Guồng máy quân sự khổng lồ của La Mã lúc đó chia làm hai. Hai bên tranh chấp chém giết nhau không thương tiếc. Khối hiệp nhất giữa Ý, Hy Lạp và thế giới Địa Trung Hải tự khắc đã rã tan. Khi ấy, nổi lên một nhân vật mang tên Antony là kẻ chiến thắng, dù tạm thời. Cuối cùng thì, người chót hết mới đứng vững, đó là Augustus, con trai của Julius Xêda đã nổi lên triệt hạ Antony. Và, chiến tranh liền kết thúc. Hoà bình lại đã vãn hồi. Tình thế xảy đến sau trận Actium ngày 2/9 năm 31 trước Công nguyên, là ngày tháng chính cho toàn cảnh chính trị.

 

Kinh tế đã bộc phát. Giao thương đường biển cũng bớt đi nạn cướp biển. Các giao lộ, không còn chuyện bán buôn, bất qui cách. Vốn là người đem lại nhiều cải cách, Augustus được gọi là thần linh nhập long thể. Tiếng Hy Lạp không có ngôn từ phận định rõ rệt, nhưng tiếng La tinh gọi ông là “divus”, tức thần-linh thánh-hoá, chứ không phải là “deus”, tức Đức Chúa hoặc Chúa Thượng. Tuy thế, người dân ở La Mã lại cứ gọi ông là vị thần, con của thần linh. Ông ra lệnh cho khắc tên và hình ảnh linh thánh trên tiền đồng, tiền kẽm để mọi người biết.

 

Nhiều người, đôi lúc cũng thấy khó mà diễn tả cho mọi người hiểu rằng các tượng cổ là của thần linh xưa hoặc của hoàng đế vừa mới đăng quang. Danh xưng nói lên chức năng và công việc của một người và người làm được những chuyện dành cho thần-linh-thánh-ái, cai quản cả thế giới theo cung cách giống vị thần cai trị người phàm. Augustus tin rằng ông là thần-linh thuộc loại như thế! Ông xây dựng lại đường xá, cầu cống và tái lập mọi kỹ nghệ. Ông còn gầy dựng toàn bộ hạ-tầng kiến-trúc. Tất cả, để chứng minh rằng ông đã toàn thắng, hết mọi sự. Nguồn thần học của hội thánh ta vào thời kỳ đế quốc này là do Suetinius và Tacitus lập ra.

 

Suetonius kể lại tiểu sử của chính mình và cuối cùng cho thấy Augustus được cưu mang như thế nào. Mẹ của Augustus là bà Atia có mang với thần Apollo, nên ông là con trực tiếp của thần linh, chứ tuyệt nhiên không chỉ là con đẻ của Julius Xêda, thôi. Ngay đến cha ruột của ông là Julius Xêda, ông cũng phong cho làm thần-linh, nữa. Nếu ta được phép gọi truyện kể ở đây là thứ “giao ước mới” thì phải nói rằng thần-học này là truyện về thần Aeneid của Virgil:                             

 

Truyện thần thoại kể rằng: vào năm 17 trước Công nguyên Augustus bảo trợ cho hai cháu ngoại là con của con gái mình lấy chồng là tướng Marcus Agrippa. Hai cháu này, một là Gaius (sinh năm 20 trước Công nguyên và chết vào năm 4 sau Công nguyên. Còn cháu kia, là: Lucius (sinh năm 17 trước Công nguyên và chết vào năm thứ 2 sau Công nguyên). Cha của hai cháu chết vào năm 12 trước Công nguyên, nên Augustus chính là người nuôi dưỡng hai cháu và chuẩn bị cho chúng làm lãnh tụ. Nhưng cả hai đều chết yểu, nên Augustus phải tìm đếncon trai riêng của vợ ông là  Lyđia làm lãnh tụ nối dõi tông đường.

 

Đỉnh cao danh vọng của Augustus trải rộng thấy rõ ở Rôma. Chốn công đường của Augustus và đền thờ Mars Ultor, là nơi Augustus tuyên thệ vào năm 42 trước Công nguyên lại ở Philípphê và triều đại của ông kết thúc vào năm thứ 2 sau Công nguyên. Mars được đặt cho cái tên “Ultor” là để báo thù cho Julius Xêda. Còn, chốn công đường của Augustus là nơi hội họp về dân sự cũng như tôn giáo. Chính ở nơi này, còn diễn ra các phiên toà xử và các buổi tế thần nữa. Nghi lễ tế tự và công việc của các thượng tế, từ đó được thành lập. Tại chốn công đường này, duy nhất chỉ thấy có một pho tượng của Augustus là đứng trụ trên chiếc tứ mã, rất hùng hổ. Theo huyền thoại, thì Aeneas, vốn xuất thân từ thần Vệ Nữ và Anchises là người thành Troa, đã kịp chạy thoát khỏi thành này và khởi sự cuộc đua ngựa tại Ý. Còn, Romulus xuất thân từ thần Mars và Rhea Silvia, là hậu duệ của Aeneas được chó sói cho bú sữa, giống Julius Xêda, tất cả đều được đúc tượng đặt ở công đường Augustus. Tượng Augustus chễm chệ che lấp hết mọi tượng, bởi chính ông lại cứ muốn mọi người coi mình là hậu duệ lịch sử của La Mã, và là người tái thiết thành Rô Ma. Chính ông đã xây dựng 82 ngôi đền mới trong thành phố. Năm 12 trước Công nguyên, ông được đặt cho cái tên gọi là Pontifex Maximus.  Các tượng đặt ở Carrara đều bằng đá cẩm thạch chễm chệ trên các cột ở Côrinthô. Năm 13 trước Công nguyên, bàn thờ Augustus được quốc hội thuận cho xây coi đây là biểu tượng hoà bình được ủy thác từ năm thứ 9 trước Công nguyên.

 

Augustus là người tái lập nền cộng hoà, phục hồi các thần hoà hoãn và tái tạo sự hiền hoà/êm ấm giữa các thần. Chính ông là người truyền bá chốn công đường, các thành phố và cả đế quốc nữa. Chính ông là người củng cố đế quốc và mọi phần đất thuộc về nó. Trong số các tượng đặt ở Rôma, có tượng của Alexander Đại Đế, được coi là thần-linh thánh-ái. Augustus khôi phục tiêu chuẩn của binh đội từng bị thất thoát hồi thời chiến, đem họ trở về chốn công đường. Thần Hoà-Hoãn tạo chiến thắng cho mọi người. Thần này được gọi là Đệ nhất Công-dân chuyên dẫn dắt mọi dân con đang sống ở đế quốc. Augustus có một con gái tên là Julia và chẳng có được mụn con trai nào được sống sót. Là hoàng đế, những muốn cho đế quốc mình tồn tại mãi, ông đành tìm đến Tibêrius, con riêng của vợ là Lyđia với người chồng trước là Claudius, để uỷ thác. Cháu của Tibêrius là Germanicus và con trai của Germanicus là Caligula (tức “Đôi Giày Nhỏ”) lại đã trở thành Hoàng đế kế nghiệp các ông từ năm 37 trở về sau. Hoàng đế Caligula bị đám quân nhân ám sát chết. Vì thế, Claudius được cất nhắc lên ngôi hoàng-đế, để kế nghiệp. Claudius là người tổ chức Vận hội Saeculum ở Campo Marzo năm 47 sau Công nguyên cốt để kỷ niệm 800 năm ngày thành lập thành Rô Ma. Nêrô là hoàng-đế cuối thuộc giòng dõi Julius-Claudius.

 

Ở đây, cũng nên thêm một chú thích về việc Hadrian bảo rằng: Rôma được thần linh ủy thác đã trở thành trung tâm của vũ trụ. Ông vẫn muốn người Do thái thôi không còn bị thúc bách bởi luật “cắt bì” nữa. Ông còn muốn mọi người có thể xây đền đài theo ý của mình nữa. Ông đi chu du khắp đế quốc, nhằm đoàn kết hết mọi người trong đó. Và, ông quyết tống xuất các sắc tộc ra khỏi đế quốc của mình. Ông xây tường thành dọc suốt khu vực nhỏ ở Anh quốc nhằm xua đám rợ phía Bắc ra khỏi thế giới văn minh ông tạo dựng. (x. Journal of Philosophy and Scripture, an Interview with E.P. Sanders, tập 2, cuốn 2, năm 2005)

 

Trên các đồng tiền bằng kẽm, tiền nào cũng có hình và tên của Xêda ghi trên đó vốn được như thần linh, con của vị thần- chủ, là đấng cứu vớt hết mọi người trong đế quốc.

 

Đế quốc La Mã khi xưa vẫn tượng trưng “tiêu chuẩn đặt cho nền văn minh tiến bộ”. Tác giả Crossan dùng cụm từ đặc biệt làm biểu tượng cho điều mà ông gọi là “Cái bừa dùng làm chuẩn”. Còn, thánh Phaolô thì lại khác. Thánh-nhân cho rằng: Đế quốc La Mã dưới thời Augustus và Nêrô, đã tượng trưng cho điều được diễn tả tuy đáng tiếc nhưng cũng bình thường và vẫn được coi như nền văn minh tiến bộ vẫn phải đến, nếu không có ai hoặc không có gì làm nó dừng lại để biến mất. Đế quốc Hoa Kỳ hôm nay đang “trụ” vững trong thế giới của họ hệt như các đế quốc khi xưa mà người Hy Lạp và La Mã đã thực hiện.

 

Ở đây nữa, ta cũng có thể áp dụng điều đó với Đế quốc La Mã và đế quốc Anh được gọi là đế quốc thánh kéo dài từ thế kỷ thứ 18 qua hết thế kỷ 19 mãi đến đầu thế kỷ thứ 20, mới bớt dần. Hệ-thống đế-quốc chủ trương cổ võ cho hoà bình –thứ hoà bình của La Mã mà khi xưa hội thánh ta gọi bằng tiếng La tinh là “Pax Romana” ngang qua chiến thắng bằng quân sự, tức đi từ sự âu sầu hoà hoãn rồi tham gia chiến đấu đến hồi thắng cuộc. Và ở đây, nên hiểu vị thế “bề trên” của những người chiến thắng trong hệ cấp rất qui củ- để rồi đi đến thứ hoà bình/hoà hoãn có sự trợ giúp của Aeneas (tức thần Hoà Hoãn), Mars Ultor (thần Chiến Tranh), thần-nữ Roma (tức thần Chiến Thắng) và cả nữ thần Mắn đẻ (tức hoà bình) nữa. Qui luật của hệ thống ấy, được viết trên đá cẩm thạch.

 

Văn hoá này, bao gồm cả chế độ cha cố lẫn nô lệ. Cung cách sống được diễn ta rõ ra bên ngoài bằng tôn giáo, có chốn công đường và bàn thờ/bàn thánh để thờ kính con người vừa là Hoàng đế vừa là thần-chủ. Kết cục thì, điều mà nhiều người có thói quen gọi bằng cụm từ Thần-Dân-La-Mã, hoặc ngày nay ta lại cũng có thể gọi đó là Thần-Dân-Hoa-Kỳ, cũng được thôi. (xem S. Patterson (Beyond the Passion: rethinking the death and life of Jesus,Fortress 2004, trong sách này tác giả nói: “Hoà Bình kiểu của đế quốc Hoa Kỳ cũng không kém phần xảo quyệt và bóc lột mọi người dân trên thế giới như thư Hoà Bình của La Mã, khi xưa vậy”. (Xem thêm: Richard J, Neuhaus, America as a religion, First Things, 3/2005)          

 

Chủ nghĩa đế-quốc, là cụm từ diễn tả đường lối mà thế giới lâu nay cứ bị thống trị mãi cho đến thế kỷ thứ 20. Ngày nay, ta lại có chủ nghĩa độc-tài toàn-trị và chủ nghĩa khủng bố. Những gì lâu này đã đổi thay là khả năng ta đáp ứng trước bạo lực và kỹ thuật của chúng ta. Tất cả chúng ta hiện có nhiều khí cụ giết người hàng loạt còn ghê sợ hơn trước rất nhiều.

 

Hoà bình êm thắm, đã trở nên lờ mờ đối với ta và theo cách thế nào đó, có thể nói là trống rỗng, rất hư-vô. Tác giả Crossan có nói: “Hoà bình đã trở thành đồ trang trí tuyệt kỹ mà mỗi năm ta vẫn treo lên cây thế giới và chỉ cất nó đi bỏ vào tầng hầm của lịch sử, thôi.”

 

Trật tự ở đế quốc La Mã được duy trì là ngang qua hệ thống “quan thày”, thứ “mạng lưới” tương quan rất xã hội và kinh tế mà ảnh hưởng của nó cứ chất chồng, lại là chuyện củng cố cho hiện trạng gọi là “cứ như thế” để nó yên.

 

Ở nghệ thuật phim ảnh, người  La Mã ăn vận lại khác với mọi người, tức thường hay ăn vận theo sắc thái của người Anh trong khi đó các nô lệ tốt lành vẫn mong mỏi được tự do, lại cứ thích nói tiếng Anh bằng giọng Mỹ. Đó là mật khẩu dành cho các dân tộc khác nhau. Vào triều đại Claudius thứ Nhất, Hêrôđê Agrippa xuất hiện trên sân khấu chính trường với lời cầu kinh lưỡi uốn theo kiểu Ba Lan gốc Do thái ở thế kỷ thứ 18. Nhưng, ông lại thích trở về với Palestine, rất nhiều năm. Thánh Phaolô giống nhiều người, vẫn muốn mình thành người “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”, thôi.

Do-thái-giáo theo nhãn-giới kiều-bào

 

Lâu nay, nhiều người vẫn có khuynh hướng cứ coi Đạo Chúa và Do-thái-giáo như sự kiện nổi bật trong đạo, thời lịch sử chỉ mới chớm. Tình thực mà nói, khuynh hướng do các vị tạo cho mình chỉ đại diện cho một số rất nhỏ trong tổng thể là đế quốc. Các vị đại diện Đạo Chúa và Do-thái-giáo thường gọi những người sống đạo khác với mình, là dân ngoại. Quả có thế. Nhưng, “chủ thuyết dân ngoại” lâu nay đâu tồn tại. Bởi, nền văn hoá rất cao của họ chỉ tồn tại với nền thần học do các vị theo Đạo Chúa chủ trương. Còn, văn hoá thông thường của họ lại tồn tại ở ngành chiêm tinh, y học dân gian, ảo thuật kỷ xảo, khoa bói toán, phép trừ tà và nói theo kiểu biện luận/cãi tranh, thì vẫn còn đó thói sùng bái đấng bậc lành thánh, rất trên cao. Các vị nói ở trên, hầu hết là đấng quan thày chốn trên cao, nơi cõi trời mây cao vút ấy.

 

Ngôn ngữ Hy Lạp có cụm từ “paideia” được mọi người dùng để nói về chính sách giáo dục đặt định cho đế quốc lớn rộng cốt làm nền cho đường lối/chính sách họ đề ra. Chính sách đó toàn bộ dựa trên ngôn ngữ chứ không như truyền thống của Do-thái-giáo hoặc thánh truyền của Đạo Chúa. Về văn hoá, luôn có sự khác biệt về thị kiến trí thức giữa Hy Lạp và La Mã.

 

Thời Marcion, nhiều người lại giả thiết: Đức Giêsu và thánh Phaolô đều kình chống Do-thái-giáo do cung cách họ nhận thức và thực hiện những gì Sách thánh ghi. Đôi lúc Đức Giêsu và Đạo Chúa cùng diễn tả nhận thức này theo mô hình kiểu mẫu làm nền cho văn hoá đế quốc. Chuyện này được thấy khá rõ ở sách Công Vụ. 

 

Thật ra thì, người Do thái lâu nay vẫn có thái độ lạ kỳ về Đế quốc La Mã. Nói thế là bởi, với đế quốc này, chủ thuyết đa tôn-giáo đã từ lâu được thâu nạp và duy trì. Thành thử, vào thời trước, càng ngày người ta càng thấy nhiều thần linh xuất hiện ở Panthêôn bao lâu mọi người vẫn sẵn lòng thờ cúng bậc hoàng đế như vị thần cùng các thần linh sáng giá. Đàng khác, nguời Do thái lại không sẵn sàng hành xử như thế. Họ được tặng ban qui chế “ngoại lệ” mà  truyền thống cha ông họ từng châm chước. Họ phụng thờ chỉ một Thiên Chúa Độc Nhất, rất đích thật. Bởi thế nên, với họ, tất cả chẳng thành vấn đề.

 

Thánh Phaolô thực sự là nhà tư tưởng của Do thái.

 

Ở đây, điều quan trọng là ở chỗ ta nhận ra rằng: thời đó, Israel cũng nhỏ bé, vừa tầm. Với thế giới bên ngoài, nhóm người này không được phép xuất ra bên ngoài, ngoại trừ bằng con đường bé nhỏ do kiều bào Do thái thiết lập. Quả thật, thánh Phaolô đúng là người phổ biến chủ trương đó cho thế giới rất La Mã.

 

Thánh Phaolô thực sự đã sống và chết như một người Do thái chính cống. Ông không chỉ là người Do thái biết suy tư thôi, nhưng ông còn biết tư-duy theo qui cách của người Do thái nữa. Ở đây, cũng nên dừng lại vài giây để xem đường lối tư duy kiểu Do thái ra như thế nào. Có thể nói, tư duy kiểu Do thái vẫn dựa vào truyện kể. Thánh Phaolô lại đã sử dụng truyện kể theo kiểu Do thái, chẳng hạn như truyện Tạo dựng, đã được thánh nhân sử dụng vào mọi lúc và cả lúc này. Vốn dĩ tạo dựng nền trật tự chính trị rất mới, thánh Phaolô đã sử dụng truyện kể của Do thái về Giao ước trong đó Thiên Chúa có kế hoạch thành lập nền trật-tự chính trị từng bị các đám người trỗi dậy biến nó trở thành nhỏ bé. Và chính nhờ vào điểm bé nhỏ ấy nó đã được Thiên Chúa tuyển chọn để cứu vớt những kẻ trỗi dậy qua việc xuất hành đi vào trật tự chính trị mới. Thánh nhân cũng đã sử dụng truyện kể theo kiểu Do thái khi nói về Cánh chung. Bởi, vào thời của ông, chuyện này được triển khai cũng rất rộng. Ở đây, là truyện cuối đi vào với nền chính trị theo loại hình được Chúa thiết lập.

 

Cánh chung kiểu Do thái

 

(xem J.D. Crossan, The Resurrection of Jesus in its Jewish context, Neotestamentica, 2003, tr. 29-67)

 

Sống lại, là ý niệm chủ lực của tư duy Do thái, vào thế kỷ đầu.

 

(xem thêm Alan F. Segal, Life after Death: a history of the afterlife in Western religion, Doubleday, 2004)              

 

Đây là chìa khoá mở ra cho thị kiến mà người Do thái từng có về nền trật tự mới, vốn dĩ qui về điều gì đó xảy ra khi ấy và cũng hoàn tất ngay lúc đó.

 

Ở thế giới có ánh sáng soi dọi, những người có khuynh hướng cãi tranh/biện luận, lại cứ bảo: “Sự sống lại” không thể xảy ra được, hoặc cùng lắm chỉ là đặc quyền của Thiên Chúa, mà thôi. Thế kỷ đầu, lúc thế giới người Do thái chưa được ánh sáng soi dọi, thì vấn đề này thật ra không là sự sống lại, cũng chẳng là ý nghĩa mà sự kiện ấy diễn tả, nhưng tính chất “trỗi dậy/sống lại” vẫn thích hợp với khuôn khổ chính trị rất có thực, vào thời đó. Có người vẫn hỏi: bận tâm với những chuyện như thế để làm gì? Tại sao lại gọi những việc xảy đến với Chúa, là “Sống lại”? Sao không đề cao/nâng nhấc với thế giới khác? Có gì khác biệt với chính trị hiện tại, không?

 

Trước khi đi vào thế kỷ đầu, có những chuyện rất chung chung cho thấy hầu hết mọi người Do thái đều khôngtin vào sự sống đời sau. Họ cũng nghe nói về chuyện này. Nhưng, lại cho đó là ý tưởng của người ở ngoài muốn đoạt quyền của Chúa. Họ dứt khoát chối bỏ những chuyện như thế. Cụm từ Sheol bên tiếng Do thái có nghĩa là “chẳng bao giờ như thế”. Sự sống ở đời này cũng đủ cho mọi người rồi. Chuyện tốt/xấu ở đời này, đều xảy đến ở đây. Bây giờ. Chứ đâu cần gì chuyện đời sau. Và về sau, cũng chẳng có gì khiến mọi người phải bận tâm.

 

Lịch sử Do thái lại rất thực tế, vẫn có những việc xảy đến với họ cách thường tình, nhưng khó chịu. Người Do thái lại cứ nghĩ: chắc họ đã lỗi phạm điều gì tày trời ghê lắm nên mới bị Chúa phạt ngay ở đời này, trong vòng quay lịch sử của chính họ. Bởi thế nên, lúc nào họ cũng xin Chúa thứ tha cho họ mọi điều. Nền thần học rút từ sách Đệ Nhị Luật chứa đựng mọi khía cạnh tích cực ở trong đó, cũng đã luận ra được học thuyết nói về việc Chúa trừng phạt họ, cách nhãn tiền. Chỉ giao ước, mới có thể cứu vãn dân Israel khỏi hoạ tuyệt chủng, thôi.

 

Giữa thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, sự việc đã đổi thay nhờ các vị tử đạo kiểu Macabê đã đem lại niềm tin cho người Do thái. Đến lúc đó, các vị anh hùng người Do thái đã được Chúa cứu khỏi thảm hoạ đi đến diệt vong. Thế nhưng, những nguời đã chết rồi thì sao? Những người như thế có được cứu không? Và như thế, thì cụm từ “Sống lại/trỗi dậy” đã xuất hiện với mọi người. Lúc đó, có thể đã có sự “sống lại” từ cõi chết, bởi nó đến ngay “sau khi sống”, “ngay sau cái chết”. Nhưng, điều đó không phải cho hết mọi người, mà chỉ cho các vị tử đạo, mà thôi. “Sống lại/trỗi dậy”, là theo nghĩa thân xác. “Sống lại/trỗi dậy” đối với họ không có nghĩa là sự sống sót hoặc tồn tại. Mà là, sự Công chính của Thiên Chúa, Đấng Chí Công Vô Tư vẫn cần sự công chính, hầu đem đến cho họ một xác chứng tìm được ở nơi thân xác, rất công bằng. Nếu không, thì Đức Chúa của người Do thái cũng không có vẻ gì là công bằng và Ngài sẽ không còn tôn trọng Giao ước Ngài thiết lập với con người. Ở đây nữa, cũng nên mở dấu ngoặc, để chứng tỏ, là: trong một đoạn ở chương 4 sách Macabê, được viết vào năm 100 trước Công nguyên, chuyện “tử vì Đạo” không được coi là mẫu mực cho cái chết cao sang được Socrates đề cập, nhưng là mẫu mã kiểu chết thay cho người tôi tớ, vốn dĩ rất đau khổ, được kể ở sách tiên tri Ysaya quyển 2. Từ giai đoạn còn mới chớm, đã xuất hiện một số ý tưởng đầy tưởng tượng về sự sống ở đời sau, nhằm điểm tô cho tư-duy của người Do thái, khác với văn hoá của nước khác. Người Do thái không thừa hưởng tư tưởng mẫu mực nào do mình tạo ra.                     

 

Các ý tưởng lờ mờ ban đầu về “sống lại/trỗi dậy” chỉ đạt giai đoạn phát triển rộng lớn mà theo sự công minh của Chúa, ắt phải có biến cố cánh chung xảy đến vào thời chung cục, có như thế mới dẫn đến ý niệm “hư vô/không tưởng” của địa cầu. Thiên Chúa cũng làm thế. Chúa không nghĩ đến chuyện cải biến địa cầu thành chốn hư vô. Thành thử, tình trạng cuối của mọi sự trong vũ trụ, sẽ không là: trời sẽ thay thế đất, nhưng trời đang dần dà biến đổi trái đất, để trở thành thứ hành tinh này. Đây, không mang ý nghĩa của việc tàn phá không gian và thời gian. Mà là, sự phá bỏ tính bạo động và bất công, ở trái đất. Như thế, là biến đổi. Là, những gì mà công cuộc tạo dựng và giao ước cũng như xuất hành về đất hứa, mang ý nghĩa, ngay từ đầu.

 

Lại có vấn đề về Dân ngoại. Vấn đề ở đây, coi như “tạm được” đối với người Do thái, bởi họ đã lập Giao ước với Thiên Chúa. Thế nhưng, dân ngoại là gì? Đây, có hai học thuyết về dân ngoại. Một là, Thiên Chúa sẽ phá bỏ tất cả những gì thuộc về họ, trong cuộc chiến cuối cùng trên núi Meggido. Hai là, Thiên Chúa sẽ cải hoá tất cả để mọi người trở về với Ngài, chứ không về với Israel. Và khi ấy, lịch sử sẽ không còn đi vào buổi tiệc cuối trên núi Sion nữa. Hiểu như thế, mới cảm thông cho thánh Giacôbê khi thánh-nhân còn ở Giêrusalem, đã chủ trương chọn lập trường thứ hai, tức lập trường đưa thánh-nhân vào với chủ trương buộc nam-nhân Do thái phải ngang qua tục “cắt bì” mới được phép trở thành người anh em cho trọn nghĩa. Và có như thế, mới để cho anh em vừa hồi hướng trở về, được ngồi chung bàn với cộng đoàn Do thái cũng như tín hữu đạo Chúa. Và, đây là ý tưởng mà tác giả Paula Fredriksen, từng chủ trương.

 

Lập trường về “sống lại/trỗi dậy” được triển khai để thích nghi với học thuyết về dân ngoại. Quan niệm thứ hai, sự “sống lại” phải xảy ra thì người trỗi dậy mới được san sẻ và chung vui buổi tiệc cuối với Chúa.   

 

Ở đây, cần nói thêm rằng: về “sống lại/trỗi dậy” không nên hiểu theo cung cách giống hệt như hồi sinh thể xác. Bởi, một khi thể xác đã chết, là đã chết thực và đã ra đi nội nhật ba ngày là hết. Ở đây, một lần nữa, cũng nên định rõ ý nghĩa của sự việc “sống lại/trỗi dậy” nơi Đạo Chúa không giống như những thứ đã được xác chứng xuất hiện trở lại, sau khi chết, của đấng bậc nào đó đã qua đời: đó là hiện tượng ai cũng thừa hiểu. Hiện tượng này, không mang tính bệnh lý, cũng không xác chứng điều gì về sự trỗi dậy. Và cũng nên thêm một điều nữa, là: việc tán dương/nâng nhấc cả vào khi được bốc lên “trời” hoặc “về với Chúa”, “ở cùng Chúa” vẫn không là sự “sống lại”, như Enoch từng được nâng nhấc/tán dương về chốn thiên cung. “Sống lại/trỗi dậy” là ăn vận cho đúng cách, để dự tiệc. Đúng hơn, để tham dự “Buổi Tiệc” Chúa vẫn chờ mong.

 

Có điều thú vị, là: người Do thái ở thế kỷ đầu chẳng thắc mắc hoặc tự hỏi xem người Châu Âu thời Trung cổ hoặc thời Cận đại có thắc mắc gì về sự “sống lại/trỗi dậy”, hết. Họ không mấy quan tâm đến hình hài thân xác đã trỗi dậy hoặc những gì tựa như thế. Đúng hơn, họ tư duy về một phương-án dính dự nhiều đến những thứ mang tính năng động, thúc giục. Mấy thắc mắc này cũng có lý, nhưng không ảnh hưởng đến điều dẫn đến câu hỏi, bảo rằng: người Do thái xưa/nay nghĩ thế nào về sự “sống lại/trỗi dậy”?      

 

                                                            --------------------

 

Đạo Chúa thời mới phát

Các kẻ tin vào Đức Chúa

 

Đức Giêsu là nhà giáo người Do thái có lịch trình giảng dạy rất khác biệt. Lời dạy của Ngài chuyên về thông điệp mang cung cách rất tư riêng. Ngài là nhà đạo đức có biệt tài lôi cuốn người Galilê đi theo Ngài bằng việc chữa lành người đau yếu, tật bệnh và Ngài ôm vào lòng những người ở cấp thấp rất khó/nghèo, trong xã hội. Ngài tôn trọng và giữ luật Torah của Do thái, rất nhiệm nhặt.

 

Ở đây, cũng nên chua thêm một điều, là: theo lịch sử, cũng đừng nên gọi Đức Giêsu hoặc thánh Phaolô là “Thày”. “Thày”, theo tiếng Do thái, chỉ có nghĩa là “giáo viên/thày dạy”, mà thôi. Danh xưng này, để chỉ người nào đó được chỉ định làm công việc học hỏi hoặc văn phòng như người quản nhiệm và phổ biến luật halakhah về Đạo. Từ ngữ này chỉ bắt đầu được sử dụng vào thời trước khi đền thờ Giêrusalem bị tàn phá. Ngay như Gamaliel, là thày dạy của thánh Phaolô cũng không được gọi là thày Gamaliel, mà chỉ là vị niên trưởng mang tên Gamaliel thôi.

 

Không như thánh Phaolô là tông đồ của Chúa hơn 30 năm, Đức Giêsu chỉ hoạt động có ít năm thôi. Ngài chưa bao giờ đặt chân đến các thị trấn lớn ở Hy Lạp hoặc La Mã, ngay đến hai thủ phủ lớn ở Galilê, như Sêphôris và Tibêrias, Ngài còn muốn lánh mặt nữa là.

 

Theo tầm nhìn của người Do thái, Đức Giêsu không hề dạy dỗ dân con về tôn giáo hoặc luân lý/đạo đức có hệ thống và/hoặc không định kỳ, ngay đến thông điệp về con người được Chúa cứu rỗi thế nào và về với Chúa ra làm sao, cũng thế. Cả đến thánh Phaolô cũng không thế. Đức Giêsu nghĩ Ngài chỉ là người diễn trong bi kịch do Thiên Chúa của người Do thái dàn dựng để thực thi những điều mà Ngài đã hứa trong lịch sử. Đây là “Cánh chung Do thái”. Đức Giêsu biết chắc chắn Ngài có sứ mệnh riêng trong bi kịch ấy. Ngài tin rằng Ngài là Đấng, ngang qua Ngài, ý định đặc biệt của Thiên Chúa được thực hiện cho Israel và thế giới, đã đạt tầm kích chóp đỉnh. Ngài tuyên bố Nước của Ngài đã kịp đến. Nước của Ngài không giống như các vương quốc nào khác mà người đồng thời từng nghĩ ra. Tất cả thứ đó đều không có trong lịch trình họ đã định. Đặc biệt hơn, về nỗi ước có cuộc chiến giải phóng khỏi thành La Mã và đánh cho La Mã ngã gục như ngôn từ của chính người La Mã từng diễn tả. Đức Giêsu suy tính rất đúng như thế sẽ là một tai nạn không lường trước. Như thế chỉ thêm bạo động cộng với bạo lực. Kịp đến khi Ngài về với Giêrusalem và đi vào đền thờ ở đây, Đức Giêsu đã biết chuyện ấy, và trong thầm lặng, Ngài chấp nhận khổ đau tựa hồ đấng tử Đạo, bởi tin rằng Nước của Ngài đã đến rồi. Ngài hành xử như biểu tượng lớn lao cho cuộc xuất hành rất mới về đất hứa, một giải phóng lớn được định bằng tiệc Vượt Qua cuối với đồ đệ. Ngài có ơn gọi thâm sâu hơn ơn gọi làm Mêsia. Ngài tượng trưng và hành xử như Thiên Chúa về lại với Israel bằng xương bằng thịt ngõ hầu hoàn thành kế hoạch thánh thiêng của Thiên Chúa.

 

Theo ngôn từ của người La Mã, thì đây là bản cáo trạng tạo cho tất cả những gì mà Đế quốc và Hoàng đế muốn thực hiện.

 

(Ở đây nữa, nên xem thêm Tom Wright: BBC April/2004, and What Saint Paul Really Said,  Eerdmans.) 

 

Việc đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá cho đến chết, là án chết trên thập tự không của ai hết. Người thi hành án lại là người La Mã. Tội của Chúa, chỉ là tội xúi giục dân nổi dậy, chứ không phải việc khuyến khích dân chúng tin vào Đế quốc. Ngài là nạn nhân của nền Hoà bình kiểu La Mã. Ngài là nhân vật bất đồng chính kiến, bị loại bỏ.

 

Ý tưởng về một vị thần chết treo trên thập tự, không đem lại ý nghĩa nào hết cho thế giới ở thế kỷ đầu đời. Với họ, là thần linh mà lại chấp nhận để cho người phàm xử chết trên thập tự khác nào chuyện khùng điên?

 

Không có thánh Phaolô diễn thuật lại, chắc cũng chẳng ai biết đến Đức Giêsu bao giờ, hết. Thánh Phaolô từng nói không do dự rằng: ông biết Đức Giêsu rõ hơn nhiều người từng biết Ngài qua lịch sử. Hơn, cả những người chỉ biết Ngài có vài năm và theo chân Ngài đi khắp chốn, nhưng lại không thông hiểu sứ điệp của Ngài tốt hơn ai khác và có lập trường đưa vào hành động, lại cũng chẳng bằng ai.                

 

Thế nên, nhiều người vẫn cứ nghĩ rằng thánh-nhân làm cho mọi người kinh ngạc như tay khùng điên/tưng tưng nào đó vẫn cứ đi loanh quanh cho đời mỏi mệt, nói thì toàn nói về vị nào đó chẳng ai biết, nhưng lại tự hào là vị thần linh từng trỗi dậy từ cõi chết, thế mới lạ. 

 

                                                    ---------------

 

PHAOLÔ, LÀ NGƯỜI DO THÁI RẤT CHÁNH HIỆU

 

Thánh Phaolô là người Do thái do bẩm sinh và được nuôi dưỡng cho đúng cách. Ông được thụ giáo từ trường lớp/hội đường của người Do thái trong đó có kỹ năng đọc và viết nguyên bộ luật Torah của Do thái. Nhờ việc này, mà thánh-nhân được chấp nhận cho hấp thụ nền giáo dục Do thái thứ hạng cao nhất tại hội đường ở Tarsus. Tiếng Hy Lạp vào thời đó, có lẽ là ngôn ngữ chính được mọi người khắp nơi sử dụng. Đó, cũng là ngôn ngữ của Kinh thánh, mà ông được học thời bấy giờ. Cũng có thể, là ông được huấn luyện về khoa Minh-giáo hỗ trợ cho Do-thái-giáo và ông cũng được học về thuật luận-chiến hầu chống lại chủ thuyết ngoại giáo, tức tôn giáo của đế quốc La Mã. Cũng có thể, ông còn được hấp thụ nền giáo dục La-Hy, kinh qua chính sách giáo dục rất chính thức của Đế quốc, là “paideia”. Ông không chỉ nói được mỗi tiếng Hy-Lạp rất trôi chảy mà thôi, nhưng còn đọc thông suốt cả văn chương Hy Lạp nữa. Có lẽ ông cũng chẳng là người Biệt phái, theo đúng nghĩa. Cũng không là học trò của Gamaliel ở Giêrusalem, cũng không phải là công dân của Tarsus, lại càng không là công dân La Mã chính hiệu, bao giờ.

 

Về ngày sinh của thánh nhân, chẳng ai rõ. Nhiều tác giả vẫn quả quyết: có thể là vào năm thứ 6 trước Công nguyên.

Nhưng về nơi sinh, chẳng ai thắc mắc hoặc cãi tranh về thôn làng nào đó ở Tarsus. Tác giả Murphy-O’Connor lại chấp nhận một đề nghị rất lờ mờ từ thánh Giêrônimô cho rằng: Phaolô thánh-nhân sinh ra ở thôn làng có tên là Gischala, vùng Galilê. Sở dĩ có chuyện đó, là bởi gia đình của thánh-nhân bị đưa dẫn về nơi này vì đã làm thân nô lệ từ năm thứ 4 trước Công nguyên; rồi sau đó, mới phục hồi được tự do, và cùng lúc có được quyền trở thành công dân La Mã. Chính thánh-nhân cũng chẳng đề cập gì ở đoạn sách hoặc thư nào về quốc tịch La Mã của ông hết. Riêng thánh Luca lại làm ảo thuật lôi được con thỏ ra khỏi hộp về gốc gác La Mã của Phaolô. Thế nhưng, vấn đề là chuyện này có phù hợp với qui chế của Pharisêu Biệt Phái hay không, chẳng ai đoan quyết, hết.

 

Thời đó, Tarsus là thị trấn có trường lớp giáo dục tạo học-lực tương đương với trình độ đại học thời nay.Tarsus, nằm ngay biên giới, giáp ranh Syria và Thổ Nhĩ Kỳ. Đây, là trung tâm của nền triết học thuộc trường-phái Khắc-kỷ do Êpictetus thành lập. Ngôn ngữ thánh Phaolô sử dụng, trông rất giống triết lý đường phố thuộc dạng này.     

 

Gia đình thánh Phaolô thuộc phe cực kỳ bảo thủ, tức theo Do-thái rất chính thống. Về giáo dục La-Hy, thánh-nhân được tham gia vào các trò chơi thế vận/thể dục như chạy việt-dã, đô vật và ném dĩa. Các thể-tháo-gia khi ấy, đều phải ở truồng khi thi đấu, đó là điều mà phần đông người Do thái sùng đạo không mặn mà cho phép dân con của mình tham gia chuyện này, trước công chúng. Nếu ta buộc phải gọi thánh Phaolô là “thày” hoặc cả đến danh xưng “đệ nhất bậc thày” cũng không đúng qui cách cho lắm. Giả như thánh-nhân là người như thế, thì cũng chẳng ai lấy làm lạ. Giả như có người giả thuyết là: thánh-nhân cũng có doanh hiệu đàng hoàng và thực hiện kinh doanh với bạn đời mình, thật không đúng. Bởi, phần đông các tác giả Kinh thánh đều thẩm định rằng thánh nhân vốn là người độc thân. Riêng tác giả Murphy O’Connor lại nghĩ là ông có vợ đàng hoàng, và vợ ông và một người con có thể đã chết trong trận động đất nào đó ở Giêrusalem. Nhưng nghiên cứu kỹ, mọi người đều không thấy chứng cứ nào nói rõ về chuyện ấy, hết.  

      

Thánh Phaolô luôn quan niệm rằng: Israel được Chúa tuyển chọn làm dân con hàng đầu trong việc thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa, với gian trần. Thánh-nhân tin vào ơn gọi của Israel được Chúa tặng ban cho quyền làm dân con Ngài, so với thế giới. Thánh nhân tin rằng: Abraham ở vào vị trí có nhiều đặc quyền/đặc lợi hơn Ađam hoặc các nhà sáng lập nên La Mã. Thánh-nhân coi Israel là dân con rất tin tưởng vào Chúa và là niềm hy vọng cho nhân loại tốt hơn Ađam hoặc người La Mã từng tự hào.

 

Thánh Phaolô biết rõ cộng đoàn Do thái vẫn tin vào Đức Giêsu hơn ai hết. Thánh-nhân cũng coi tín hữu Do thái theo Đạo Chúa cũng là người theo Do-thái-giáo nhưng có niềm tin đặc biệt nơi Chúa. Thoạt trưởng thành, thánh-nhân đã biết cực lực phản đối các nhóm nào tự hào như thế. Thật ra, ta cũng chẳng rõ tại sao thánh-nhân lại làm thế. Một số nhà chú giải lại nghĩ: tương quan giữa nhóm này với Đức Giêsu thật khác với Do-thái-giáo bình thường. Nhiều vị lại nghĩ rằng: vi phạm luật Torah một cách trắng trợn như thế, đối với thánh Phaolô, cũng là việc quá đáng. Có vị lại hiểu: cách hành xử như thế, có lẽ đã đe doạ và làm hại cho sự tự do/thông thoáng mà người Do thái đã được hưởng từ người La Mã. Có vị lại quan niệm rằng: sự việc ấy chỉ như cách để thay cho tính nóng giận mà ông không dằn lòng được. Theo ý của riêng tôi, thì việc cho phép người ngoại giáo gia nhập cộng đoàn Kitô-hữu Do thái còn son trẻ, có thể cũng đưa thánh Phaolô vào tình huống quá mức chịu đựng. Giả như thánh-nhân đã thực sự bách hại cộng đoàn nào đó, vì ông cũng có cởi mở hơn luật, thì người theo Do-thái-giáo theo đúng luật Torah, cũng không dám tỏ ra quá cởi mở, cả sau khi đã hồi hướng trở về với Đạo Chúa. Thành thử, đây có thể là chuyện đi chệch thái độ khá thường tình của ông. Thật ra thì, thánh-nhân biết rõ tâm trạng người tín hữu của ông; nên, bấy nhiêu thôi cũng đủ khiến ông nổi điên khi phải giải quyết những chuyện như thế. Điều làm cho thánh nhân nổi điên hơn cả, là những người như thế lại cứ bảo: người ngoại giáo có thể làm thành viên tốt lành với nhóm dân con tín hữu bên Đạo Chúa.

 

Việc hành hạ các kẻ tin vào Đức Giêsu ở Giêrusalem đã lôi kéo nhiều vị ra khỏi chốn đó để về với các thị trấn hoặc vùng đất khác của Đế quốc. Một số vị lại đã đi về vùng duyên hải phía miền Phênixia. Một số vị lại tản về Đảo Sýp. Một số khác đi mãi tận Antiôkia. Thời đó, chỉ mỗi vùng đồng bằng sông Orôntes thôi, cũng có khoảng 500,000 dân cư sinh sống ở đó rồi. Vùng này cách biển chừng 18 dặm. Có hải cảng riêng, là Sêlêuxia. Hêrôđê Cả, là người dựng nên đền thờ Giêrusalem, đã ra lệnh cho lát đá và đặt trụ cột trên đường chính dẫn đến Antiôkia. Ở nơi đó, có một số hội đường lập ra cho dân chúng. Cũng tại nơi này, người tìm đến cũng gặp nhiều kiều bào Do thái nói tiếng Hy Lạp như ngôn ngữ chính của họ. Cả đến các tân tòng mới hồi hướng trở về, tức gồm các dân ngoại từng theo Do-thái-giáo, các vị kính sợ Chúa, dân ngoại đạo rất đặc trưng từng thần phục Thiên Chúa của Israel là Thiên Chúa Độc Nhất rất thực,  không chịu quay về trở thành người theo Do-thái-giáo; và cả dân ngoại tò mò cũng về tập trung ở đó.               

 

Có lẽ, thánh Phaolô không được nhóm tư tế Giêrusalem cho phép bách hại người Do-thái ở Đamát, cũng không chừng. Thánh nhân có đi Đamát, cũng chỉ vào thời Israel thuộc quyền kiểm soát của Nabatêan, tức triều đại vua Aretas trị vì. Và, vị Trưởng tế Giêrusalem khi ấy có lẽ ít có quyền hành hoặc ảnh hưởng ở tại đó. Đồng thời, người Do thái nào tin Đức Kitô mà lại bị ông bách hại, thì điều này xem ra không phù hợp với chủ đích của hàng tư tế. Thành thử, vấn đề thánh nhân bách hại người Do-thái ở đây, xem ra không có cơ sở.

 

Thánh Phaolô có lẽ không là nhà thần bí, xuất thần hoặc nhà khổ hạnh, từng có thị kiến rất nhiều lần trước khi ông lên đường đi Đamát. Theo tình thần của thư thứ 2 Côrinthô, thì sau đó thánh Phaolô cũng có đôi ba thị kiến giống như thế.

 

Nhiều lúc, ta cũng tự hỏi không biết thánh-nhân có thực thi nghi tiết Do-thái-giáo thời đó hay không? Ông có thực hành nguyện cầu kiểu Do-thái-giáo mỗi sáng không? Hoặc, có tổ chức các nghi thức giống thế không, cũng không chắc.

 

                                                            --------------

 

 

QUÁ TRÌNH LÝ LỊCH CỦA THÁNH PHAOLÔ NƠI ĐẠO CHÚA

 

Quá trình lý lịch của thánh Phaolô, là quá trình của người Do thái từng coi trong luật Torah, rất nghiêm túc. Đó cũng là lý do khiến ông chống lại bất cứ nhóm nào xem ra muốn tấn công đường lối sống theo luật này bằng vào việc phổ biến cung cách giảng giải dựa trên hiểu biết khác biệt, nhưng đáng kể. Chẳng hạn như vấn đề về luật tinh khiết, thuế thập phân và ranh giới mang tính máy móc này khác, quyết duy trì tính đầy đăn/trọn vẹn của dân con Đức Chúa. Thánh Phaolô giữ luật như mọi người. Ông tự tạo cho mình sự chín chắn có được từ việc giữ luật đúng qui cách. Ông sống cuộc sống rất trọn hảo, theo luật định. Ông là người có thể thuận theo qui định thường tình của Do-thái để có hành xử rất mực thước trước mặt Thiên Chúa và người đồng đạo.

 

Thánh Phaolô ít khi tiếp xúc, liên hệ hoặc tùy thuộc trọn vẹn vào Đức Giêsu lịch sử cũng như các vị đồng hành với thánh-nhân. Ông chẳng bao giờ đề cập đến Galilê hoặc nói về Hêrôđê hoặc các người con của ông này. Thánh-nhân cũng chẳng bao giờ nói về Thượng Tế thời mình sống, hoặc về Philatô, hết. Thánh-nhân chưa khi nào nói về đấng sinh của Chúa hoặc thánh Gioan Tẩy Giả. Thánh-nhân chỉ nhắc đến thánh Giacôbê, người anh em đồ đệ của Chúa có hai lần, nhưng trong bối cảnh cuộc sống đầu đời hoạt động của thánh Giacôbê, thôi. Thánh Phaolô chỉ đề cập những chuyện ấy trong bối cảnh lúc thánh Giacôbê làm trưởng cộng đoàn Giêrusalem, sau này thôi. Còn, với các tông đồ khác thì thánh Phaolô chỉ nhắc sơ qua như: thánh Phêrô và thánh Gioan chẳng hạn.

 

Ngược lại, thánh Phaolô lại nêu đích danh học trò hoặc các vị từng giúp đỡ thánh-nhân. Trong số đó, có Barnaba, Timôthê, Titô, Luca vị thày thuốc, Silvanô, Sostênê, Apôlô thành Alexandria, Aquila, Priscilla thành Rôma, Máccô, Aristarcus, Đêma. Điều này cho thấy: có lẽ thánh-nhân cũng không rõ gốc/ngọn thời Chúa mới hoạt động; hoặc cũng có thể, thánh-nhân không muốn đề cập đến những sự việc như thế.

 

Phần lớn các “tin vui” do thánh-nhân viết, chỉ viết theo cung cách của các vị khác. Tuy nhiên, trong các tài liệu do thánh-nhân viết, cũng thấy bao gồm phần lớn thông tin về việc Chúa chấp nhận cái chết theo cung cách nào, Ngài được chôn cất ra sao và sống lại như thế nào. Viết như thế, thánh-nhân vẫn kỳ vọng Chúa sẽ quang lâm/đến lại, thêm lần nữa. Nhiều tác giả, lại vẫn nghĩ: các sự việc được thánh Phaolô đề cập, bao gồm cả lời dạy cũng như giáo huấn về Tiệc Thánh Thể. Nhưng, vấn đề này, tác giả Vermes lại bất đồng quan điểm khi ông cho rằng sự việc ấy xuất xứ từ mặc-khải trực tiếp do chính ông đưa ra. Tức, bao gồm cả giáo huấn của Chúa về việc không được phép ly dị vợ hoặc chồng, vốn dĩ là điều làm cho thánh-nhân thoải mái khi tường thuật lại. Và, về quyền hạn của bậc giảng thuyết phải được duy trì ở cộng đoàn, chính đó là điều mà thánh Phaolô thường phản đối nhất mực.

 

Các lãnh vực chính yếu mà thánh Phaolô giảng thuyết giảng, thường tập trung quanh việc:

*Đức Giêsu chết và sống lại, hầu trở thành Con Thiên Chúa, nhờ uy lực sống lại; 

*Nét tương phản giữa Ađam đầu đời và Đức Giêsu, là Ađam mới;

*Kết hiệp thần bí với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã chết trên thập giá và đã sống lại;

*Diễn tả đặc biệt về bí tích qua Thanh tẩy và Tiệc Thánh; 

*Giải toả khác biệt bằng việc hiệp thông cởi mở, đặc biệt hướng tới người nghèo khó;

*Kỳ vọng Chúa quang lâm cũng rất mau bằng sự kiện Chúa trở lại;

*Lập trường đạo đức đặt nền tảng trên trông ngóng này:

            -Thời gian qua mau, nên việc rao giảng Tin Mừng cho thế giới đến cũng rất nhanh;

            -Cứ giữ nguyên vị trí (không kể: ai cắt bì ai không, ai có gia đình ai không, tự do/nô lệ);

            -Đừng quá kích bốc;

            -Tạm thời chỉ định lãnh đạo để thay thế;

            -Quản trị vững chắc để tạo an toàn (không bạo động cũng chẳng lôi cuốn, hấp dẫn)

            -Sống tích cực với người theo Do-thái-giáo và cả người ngoại đạo, nữa.

 

Việc Chúa đến lại, vẫn chưa xảy ra. Người theo Do-thái-giáo và Đạo Chúa vẫn chia rẽ nhau. Nhưng, hội thánh vẫn tồn tại, nhờ có thị kiến đầy uy năng về thần học và tài tổ chức cũng như sự khôn khéo của người Do thái gốc Thổ Nhĩ Kỳ, là sáng lập viên thực thụ của thế giới Đạo Chúa.

 

 

CHÚ THÍCH

 

Tín hữu thời tiên khởi, mãi cho đến giữa thế kỷ thứ 3, đã thực hiện được hệ thống có đặc trưng/đặc lợi tương tự như người theo Do-thái-giáo thời đó, tức những người không chịu thờ cúng Hoàng đế. Dù sao đi nữa, các anh em này cũng bị coi như đã tách khỏi Do-thái-giáo. Dù các ngài không có được truyền thống của tiên tổ, như người theo Do-thái-giáo từng làm. Cuối cùng thì, cho đến thế kỷ thứ 3, theo luật Dexius, tức luật lệ toàn cầu buộc mọi người thờ kính Hoàng-đế đều đã áp dụng. Tín hữu nào không chịu thờ kính hoàng đế, sẽ bị bỏ cho thú dữ ăn thịt. Đến lúc đó, vị nào chịu khuất phục theo luật lệ ngoài đời, vẫn có thể thi hành chức năng của tín hữu Đạo Chúa. Việc bách hại tín hữu cũng bớt dần cho đến triều đại của Diocletian trở về chống phá Đạo Chúa, năm 303. Việc này kéo theo hậu quả, là đã tạo dư luận quần chúng hỗ trợ cho tín hữu Đạo Chúa. Khi ấy, Constantine đọc được điều này nhờ đầu óc của chính-trị-gia, nên ông đã trở thành tín hữu đạo hạnh có được tâm tính kiên trì.

 

Constantine công nhận quyền chủ quản của các giám-mục cũng như của các vị lãnh đạo trong cộng đoàn Đạo Chúa. Vốn có tài cai quản đồng thời là người thiết lập hệ thống pháp lý thay cho những gì đã có, các giám mục đã không chịu làm quân cờ thí để Constantine tung hoành tự tác với trò chơi do mình đặt. Cuối cùng các giám mục chủ quản đành sử dụng thánh Phaolô cho mục đích các ngài nhắm đến. Ý các ngài, là áp đặt kỷ luật của đảng phái chính trị dưới quyền bính của Hội thánh. Điều này có nghĩa, là các ngài muốn ép buộc những người từng đi chệch đường phải hồi hướng trở về, hầu sống sao cho phù hợp với hệ cấp quyền hành của Hội thánh. Điều này có nghĩa là, các ngài sẽ bức bách đám người dị giáo/ rối đạo, tức kẻ tin nào không đi đúng mạch chính của giáo hội. Các giám mục có thẩm quyền khi đó đã yêu cầu Constantine triệu tập một Công-đồng Đại-kết ở Nicea để định ranh giới đúng/sai, đạo/đời… Điều này có nghĩa là: các giám mục đòi được quyền xác-chứng tính hợp pháp cho tất cả các hoàng đế, cũng như lãnh tụ ngoài đời. Hoặc, các ngài cũng đòi có quyền từ chối làm việc đó cho bất cứ vua quan/lãnh chúa nào mà các ngài thấy không được. Từ đó trở đi, Hội thánh xưa kia từng bị bách hại, lại đã trở thành Hội thánh bức bách dân con nhiều đạo khác… Có giám mục nổi danh còn dùng đến bạo lực để tỏ uy quyền của mình, nữa. Các đấng bậc này có khi còn dùng cả biện pháp ra chỉ thị cho dân con mình được phép phá huỷ đền thờ ngoại giáo cũng như hội đường của những vị thuộc đạo giáo khác. Đến thời Đức Justinian trị vì từ năm 527 đến 565, người ngoại đạo nào cố chấp còn bị nhà nước tuân theo Đạo Chúa đe nẹt treo họ lên thập tự cho đến chết.

 

Điều quan trọng ở đây, là: ta cũng đừng nên tra cứu tình huống ở mọi thời xem nó có rơi vào thời của thánh Phaolô không. Đó, mới là việc chính đáng, rất nên làm.

 

_________________

 

Thư tịch để đọc thêm

 

John Dominic Crossan and Jonathan L. Reed, The Normalcy of Imperial Divinity, in In Search of Paul, tr. 284-288, with Overview, ibid. tr. 74-75

 

Norton Wright , What Paul Really Said, 1997 tr. 63-75.

                                                                                                                                                                                                                                                                                                   (còn tiếp)