Thư viện giải mật về Karl Mark

Karl Marx Leaks

Thư viện giải mật về Karl Mark

Moses Hess - người thầy của Marx và EngelsSunday, November 25, 2012 9:47 PMSự tôn thờ bạo lực của Karl Marx đã được củng cố bởi một người cộng sản Do Thái theo trường phái Frankism mà ông gặp vào năm 1841, lúc này ông ta mới 23 tuổi. Người đàn ông này có tên là Moritz Moses Hess. Moses Hess sinh ngày 21 tháng 6 năm 1812 tại Bonn, con trai của một nhà công nghiệp Do Thái giàu có. Ông mất ngày 06 tháng 4, 1875 tại Paris và được chôn cất tại Israel. Có thể nói ông ta là người đã sáng lập ra đảng Dân chủ Xã hội Đức.Trong cuốn “Judisches Lexikon” (xuất bản tại Berlin, 1928, trang 1577-1578), ông được gọi là một giáo sĩ cộng sản và là cha đẻ của chủ nghĩa xã hội hiện đại.Năm 1841, ông ta thành lập tờ báo Rheinische Zeitung và một năm sau đó, ông đã giao cho Marx lúc đó chỉ mới 24 tuổi làm biên tập viên của tờ báo. Theodor Zlocisti, một người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái, đã xuất bản một cuốn sách thú vị về ông ta vào năm 1921 với nhan đề "Moses Hess, der Vorkampfer des Sozialismus und Zionismus" (Moses Hess, Nhà quán quân của chủ nghĩa Xã hội và Phục quốc Do Thái).Một phần của thế giới nội tâm đáng sợ của Moses Hess được tiết lộ trong cuốn sách của ông có tựa là "Rome và Jerusalem"..Đứng đằng sau Karl Marx là Moses Hess, ngườitheo chủ nghĩa Cộng sản và Phục quốc Do Thái (1812-1875).Moses Hess đã mau chóng biến Marx thành một thành viên của hội Tam Điểm, một kẻ kích động chủ nghĩa xã hội và cũng là tay chân đắc lực của ông ta. Tuy nhiên vào thời điểm này Marx vẫn chưa phải là người theo chủ nghĩa cộng sản.

Ông đã viết trong tờ Rheinische Zeitung, do ông làm chủ biên trong những năm 1842-43 như sau:“Những nỗ lực của quần chúng để thực hiện các ý tưởng cộng sản có thể được trả lời bằng một khẩu pháo ngay sau khi họ đã trở nên nguy hiểm …”

Tuy nhiên sau đó ông ta nhận ra rằng những ý tưởng này rất khó trở thành hiện thực. Do đó Moses Hess đã hiệu chỉnh những luận điểm ​​này. Ông ta đã trở thành một vị giáo chủ già dặn đứng sau lưng Marx, tập trung mọi sự hướng dẫn cũng như chi phối đối với Marx.Tại Paris, vào mùa thu năm 1844, Moses Hess giới thiệu người thanh niên Marx lúc đó mới 26 tuổi với Friedrich Engels, một người bán Do Thái và trẻ hơn Marx hai tuổi. Cuộc gặp mặt này chính là nền tảng cho sự cộng tác lâu dài của hai người họ.Engels đã từng bày tỏ những tư tưởng Kitô giáo của mình trong thời trẻ như sau:“Tôi đã từng khao khát sự câu thông với Thượng đế. Tôn giáo của tôi đã và đang là một thế giới hòa bình và thần thánh, và tôi nên cảm thấy vui mừng nếu nó được ở cùng tôi sau tang lễ của mình. Tôi không có lý do gì để tin rằng Thượng đế sẽ mang nó rời xa khỏi tôi. Đức tin là một phần trong trái tim tôi. Tôi đã cầu nguyện mỗi ngày, sự thật là hầu như mỗi ngày.”“Tôi tìm kiếm sự thật ở khắp mọi nơi, ngay cả ở nơi mà tôi hy vọng chỉ cần tìm thấy cái bóng của nó. Nước mắt đang trào ra khi tôi viết những điều này. Tôi đã xúc động sâu sắc, nhưng tôi cảm giác rằng mình sẽ không bị lạc mất. Tôi sẽ đến với Thượng đế, người mà linh hồn của tôi luôn mong đợi."(Trích trong quyển "From Early Works" (Những tác phẩm đầu), xuất bản 1956, trang 306.)Nhưng sau khi gặp Moses Hess ở Cologne, Engels đã trở nên sa ngã. Sau cuộc gặp này Hess đã viết:“Anh chia tay tôi như một người cộng sản tích cực thái quá. Đây là cách mà tôi tạo ra sự phá hoại...” (Moses Hess viết trong quyển "Tuyển tập", xuất bản 1962.)Đây cũng là lúc Moses Hess nghĩ đến nền tảng thù hận của tư tưởng chủ nghĩa xã hội-cộng sản. Ông ta cũng là người đầu tiên đề xuất ra cơ sở cho tư tưởng về việc loại bỏ tất cả sở hữu cá nhân.Những tư tưởng nổi bật tiếp đó của ông ta là gì? Trong các tác phẩm của mình, Moses Hess nhấn mạnh sự cần thiết phải vận động các tầng lớp xã hội đối lập với nhau cũng như dùng cách này để chia rẽ sự đoàn kết của họ. Ông muốn mang lại một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa với sự hỗ trợ của Do Thái giáo, phân biệt chủng tộc và sự đấu tranh giai cấp.Ông nhấn mạnh rằng chủ nghĩa xã hội không thể tách rời phạm vi của chủ nghĩa quốc tế, nghĩa là người theo chủ nghĩa xã hội sẽ không có tổ quốc. Nghĩa là người thật sự theo chủ nghĩa xã hội sẽ không còn gì liên quan với dân tộc của mình. Ông cũng tuyên bố: điều này không áp dụng cho người Do Thái!Hess tin rằng chủ nghĩa quốc tế phục vụ lợi ích cho người Do Thái giáo. Ông ta viết trong quyển Tuyển tập như sau:“Bất cứ ai từ chối chủ nghĩa dân tộc của người Do Thái thì không chỉ là một kẻ bội giáo, tức là kẻ phản bội trong ý nghĩa tôn giáo, mà còn là kẻ phản bội chính dân tộc và gia đình của mình.”Một ví dụ điển hình cho quan điểm trên đó là Rosa Luxemburg, cô ta là một thành viên Bolshevik, một người theo chủ nghĩa quốc tế nhưng cũng là một người yêu nước Do Thái.Trong quyển Giáo lý đỏ cho dân tộc Đức, Moses Hess tiết lộ: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là tôn giáo của tôi”.Ông ta còn nghĩ rằng cuộc đấu tranh quyền lực tàn bạo cho chủ nghĩa xã hội này sẽ thích hợp hơn nếu được tiến hành dưới ngọn cờ đỏ của dòng họ Rothschilds (một gia tộc Do Thái giàu có và quyền lực sống tại Đức từ thế kỷ 18).Moses Hess đã viết thư cho nhà lãnh đạo của chủ nghĩa xã hội Do Thái Ferdinand Lasalle như sau:“Tôi sẽ dùng kiếm để chống lại bất cứ kẻ nào chống lại cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản.” (Moses Hess viết trong quyển Correspondence, 1959).Ông ta luôn nói về cuộc đấu tranh cho những người Do Thái giáo. Do đó kẻ kích động chủ nghĩa cực đoan này chắc hẳn không phải là một người vô thần. Ông viết:“Tôi luôn được soi sáng bởi những lời cầu nguyện Do Thái.” (Moses Hess viết trong Rome và Jerusalem, năm 1860)Hess cũng giải thích rằng mục tiêu của Do Thái giáo là để trở thành một cuộc cách mạng tư tưởng, đó là chủ nghĩa xã hội vô thần.Ông nhấn mạnh rằng người Do Thái đã được giao cho sứ mệnh thay đổi nhân loại thành một con vật hoang dã, như đã từng được đề cập trong bài viết Giới thiệu về hệ thống tiền tệ. (Rheinische Jahrbucher, Quyển 1, năm 1845.)Sau đó, Marx và Engels đã nêu một cách công khai rằng nhiều ý tưởng của Hess xứng đáng được công nhận rộng rãi. Người Do Thái quốc tịch Hungary, Theodor Herzl, là người tiếp tục phát triển học thuyết phục quốc Do Thái của Hess trong những năm 1890.Một người chỉ dẫn khác của Marx, Levi Baruch, đã nhấn mạnh với Marx rằng các tầng lớp cách mạng của người Do Thái đã không bao giờ từ bỏ Do Thái giáo, và rằng những kẻ làm thế đáng được gọi là những kẻ phản bội dân tộc. Với bề ngoài là những người theo Kitô giáo, một số người Do Thái đã đạt vị trí cao nhất trong Giáo Hội và chính quyền thị trấn tại Tây Ban Nha vào thế kỷ 16 (ví dụ như Lucero Inquisitorvà nhiều thành phố khác).Baruch đã truyền đạt các thủ đoạn tương tự cho “cuộc cách mạng Do Thái” - họ ẩn giấu hàm ý Do Thái giáo của họ đằng sau các cụm từ của chủ nghĩa Mác. Khi một trong các bức thư của Baruch gửi Marx được xuất bản, nội dung của nó đã gây ra một vụ bê bối lớn mà họ muốn dập tắt. Trong bức thư này có nói rằng, người Do Thái sẽ dễ dàng có được quyền lực với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản.Vì vậy, chính phủ mới được dẫn dắt bởi người Do Thái sẽ cấm tất cả các tài sản cá nhân để thâu tóm tất cả sự giàu có vào tay người Do Thái, hoặc để cho người Do Thái cai trị tất cả tài sản và đất đai. Bằng cách này thì một tham vọng lâu đời của người Do Thái, đó là tất cả sự giàu có của thế giới sẽ rơi vào tay của người Do Thái, sẽ đạt được mục đích.Trong bức thư của mình, Baruch cũng đã làm rõ mục tiêu của Do Thái giáo là nắm quyền lực trên toàn thế giới, một sự hòa trộn giữa các chủng tộc, bãi bỏ biên giới các quốc gia, xóa bỏ các hoàng gia và cuối cùng thành lập nhà nước Do Thái trên toàn thế giới. (tác giSalluste, Bí mật nguồn gốc của Bolcheviks, xuất bản 1930, trang 33-34.)Mối liên hệ giữa Marx, Satan giáo và chủ nghĩa cộng sảnSunday, November 18, 2012 7:59 PMTháng 7 năm 1999, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) phát động cuộc bức hại đối với Pháp Luân Công. Tuyên truyền bịa đặt rợp trời dậy đất thông qua truyền thông hiện đại đã lan khắp mọi ngõ ngách trên thế giới; chỉ tính riêng tại Trung Quốc, đã có hàng trăm triệu người chịu độc hại từ lừa dối, trên phạm vi thế giới số người bị đầu độc còn lớn hơn nữa. Trong lời tiên tri nổi tiếng về “tháng 7 năm 1999″ (Các Thế Kỷ X, Khổ 72), Nostradamus viết (“Mars” ở trong khổ thơ là chỉ Marx):

Vào năm 1999, tháng 7,

Để Đại vương Angoulmois phục sinh,

Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống,

Đến thời trước và sau khi Mars thống trị thiên hạ,

Nói là để có cuộc sống hạnh phúc cho mọi người.

Khi ấy, người ta quan sát thấy trong Thái Dương hệ, trật tự sắp xếp các hành tinh có hình cây thập tự. Đối với con người ngày nay, thì gần như không ai biết rốt cuộc là sự việc gì. Mười hai năm đã trôi qua, con người dường như đã quên mất rồi, có người cho rằng chẳng qua chỉ là một sự trùng hợp thiên văn mà thôi. Tuy nhiên, đứng từ góc độ chiêm tinh học mà xét, hàm nghĩa chân chính của nó lại là tử vong! Vào thời Châu Âu cổ đại, thập tự giá là một loại dụng cụ tra tấn. Ngày xưa người ta đem tội nhân trói vào thập tự giá, đóng đinh hoặc thiêu chết, coi như hình phạt tử hình. Do đó hàm nghĩa thực sự của nó chính là “tử vong”. Xét từ ý nghĩa chiêm tinh học, sự xuất hiện cây thập tự giá lớn trong Thái Dương hệ đại biểu sự chết chóc to lớn! Đây là điều không còn nghi ngờ gì nữa, sự thật chắc chắn — nhân loại đang đối diện một tai họa lớn chưa từng có!!

1. Ác ma Mars trong lời tiên tri

Vào thời niên thiếu, Marx là một giáo đồ Cơ Đốc; nhưng sau khi vào đại học, ông ta gia nhập giáo hội Sa-tăng (Satanist Church) do Joanna Southcott chủ trì, và trở thành một thành viên của giáo phái ma quỷ. Giáo hội Sa-tăng lấy một ngôi sao năm cánh đặt ngược làm ký hiệu. Người Trung Quốc ngày nay không nghĩ đến đó, rằng vì sao đảng cộng sản TQ sùng bái ngôi sao năm cánh như vậy, giống như tôn thờ thần linh vậy. Đó không phải là tượng trưng cho chủ nghĩa dân tộc hay chủ nghĩa yêu nước, bởi vì “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” tuyên bố: “Phải thủ tiêu dân tộc, không đề xướng chủ nghĩa yêu nước”. Sa-tăng giáo sùng bái ngôi sao năm cánh, và lấy ngôi sao năm cánh làm biểu tượng.

Ảnh: Giáo hội Sa-tăng (Satanist Church).Marx không phải là người vô thần. Giáo hội Sa-tăng tin vào sự tồn tại của Thần, chỉ là họ thù hận Thần, muốn vượt qua Thần, leo lên trên cả Thần (ít nhất là ngồi ngang hàng với Thần). Do đó rất nhiều tác phẩm thơ ca của Marx đều phản đối Thần, sùng bái Sa-tăng. Thơ ca là một hình thức văn nghệ đặc thù, có thể biểu đạt thế giới nội tâm tác giả một cách chân thật nhất. Marx trong một số tác phẩm như “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair), “Sự kiêu ngạo của con người” (Human Pride), kịch bản “Oulanem”, v.v. đều sung mãn khát vọng hủy diệt nhân loại, thậm chí kịch bản “Oulanem” còn công khai thừa nhận: “Và để hủy diệt, chỉ có thể là hủy diệt!”.

Cả đời Marx viết được hơn 100 cuốn sách, thế nhưng chỉ có 13 quyển được xuất bản. Tuyệt đại đa số đều được thu gom và cất giữ tại viện nghiên cứu Marx ở Moscow, chứ không công bố ra ngoài. Điều mà chúng ta biết chỉ là một bộ phận nhỏ mà thôi; một bộ phận nhỏ, mà đã khiến người Trung Quốc trợn mắt kinh ngạc.

Ảnh: Cờ của Sa-tăng giáo (ký hiệu ngôi sao năm cánh đảo ngược).Hai chữ “Sa-tăng” này, đối với người Trung Quốc, là không hề bỡ ngỡ. “Sa-tăng” (Tát Đán) chính là ma quỷ hoặc ác ma, trong văn hóa truyền thống Trung Quốc mang ý xấu, chỉ các sinh linh làm hại nhân loại. Giáo hội Sa-tăng tuyên truyền thù hận đối với Thần, và bởi vì họ tin Thượng Đế đã sáng tạo ra nhân loại, nên các thành viên Sa-tăng giáo mang đầy thù hận đối với nhân loại. Các tác phẩm thơ ca của Marx đã biểu đạt vô cùng minh xác điều này (như “Ta không còn lại gì ngoài thù hận!” trong “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” hay “Ngay khi ta siết chặt vĩnh hằng và hét lên, Câu nguyền rủa thật lớn vào tai con người.” trong “Oulanem”, v.v.) Marx đã thừa nhận “Sa-tăng cấp cho ông ta một thanh kiếm, lại cấp ấn ký cho ông ta”.

Ảnh: Bakunin, Marx và Proudhon đều để chung một kiểu tóc và kiểu râu—đặc trưng điển hình thành viên giáo hội Sa-tăng của Joanna Southcott vào thế kỷ 19.Marx là một tín đồ Sa-tăng giáo, đây là sự thật không còn nghi ngờ gì nữa. Từ sinh hoạt, công tác, tính cách, gia đình, bạn bè đến thư từ cá nhân của Marx đều chứng tỏ sự thật kinh ngạc ấy.

Mikhail Bakunin (một người Nga theo chủ nghĩa vô chính phủ, cùng Marx sáng lập “quốc tế thứ nhất”, cũng là một giáo đồ Sa-tăng), người từng có thời là bạn thân của Marx, nói:

“Người ta nhất định phải sùng bái Marx. Người ta ít nhất cũng phải sợ ông ta để có được sự khoan dung của ông ta. Marx là người tự đại cực độ, tự đại đến mức ghê tởm và điên cuồng”.

Sau khi gặp Marx, Engels đã miêu tả cảm tưởng về Marx như sau:

“Ai là người theo đuổi mục tiêu dã man? Một con người đen tối đến từ Trier (nơi Marx sinh ra), một con quái vật đích thực. Ông ta không đi, cũng không chạy; ông ta dùng gót chân, nhảy lên một cách điên cuồng, tưởng như muốn chộp lấy cả bầu trời và vứt xuống đất. Ông ta duỗi hai tay ra không trung, với nắm đấm tà ác; sự cuồng nộ của ông ta rất bất bình thường, giống như hàng vạn ma quỷ đang chiếm hữu ông ta từ râu tóc”.

Sau khi Marx chết không lâu, người hầu gái cũ của Marx là Helen Demuth kể lại: “Ông ta (Marx) là một người rất kính sợ thần. Khi mắc trọng bệnh, ông ta một mình trong căn phòng, đầu cuốn dây băng và cầu khấn trước ngọn nến đang cháy”.

2. Khởi nguyên của đảng cộng sản

Do phong tỏa thông tin và sự khác biệt ngôn ngữ, tuyệt đại đa số người Trung Quốc đều cho rằng Marx là người sáng lập chủ nghĩa cộng sản. Kỳ thực Marx không phải người khởi xướng chủ nghĩa cộng sản, mà khởi nguyên thực sự của đảng cộng sản bắt nguồn từ một tổ chức bí mật ở Châu Âu — hội Illuminati (Quang Chiếu bang). Để giúp con người thế gian triệt để nhận rõ bộ mặt chân thực của ma giáo cộng sản, chúng ta nhất định phải đem khởi nguyên thực sự của nó ra phơi bày. Đối với hầu hết người Trung Quốc, có thể nói đây là một bí mật cực lớn bị che đậy trong một thời gian rất dài — khởi nguyên của đảng cộng sản và nguồn gốc ký hiệu của nó.

Ngày 1 tháng 5 năm 1776, giáo sư luật Adam Weishaupt (1748-1830) thuộc trường đại học Ingolstadt ở Bavaria, miền Nam nước Đức thành lập một tổ chức cực kỳ bí mật mang tính khuynh đảo chính trị — hội Illuminati (Order of Illuminati). Weishaupt là một nhân vật thuộc phái Machiavelli — không từ thủ đoạn nào để đạt được mục đích, do vậy “không từ thủ đoạn” là một đặc điểm cơ bản của hội Illuminati. Lừa dối và dọa nạt cũng trở thành thủ đoạn cơ bản để đạt mục đích.

Ảnh: Adam Weishaupt, người sáng lập hội Illuminati.Hội kín Illuminati, từ khi thành lập đã là tà ác; từ tôn chỉ lập hội của nó, chúng ta có thể rút ra kết luận này. Cương lĩnh lập hội của Illuminati là: xóa bỏ tài sản tư hữu và quyền thừa kế (tức “cộng sản”); xóa bỏ hôn nhân gia đình và luân lý đạo đức (tức “cộng thê”); xóa bỏ tất cả tín ngưỡng tôn giáo, dùng một “tân tôn giáo” thay thế (tôn giáo mới này dựa trên vô thần luận và chủ nghĩa duy vật); xóa bỏ quốc gia, dùng chủ nghĩa quốc tế thay thế chủ nghĩa yêu nước; cuối cùng xóa bỏ hết thảy trật tự xã hội bằng cách mạng thế giới, và thay thế bằng một trật tự thế giới mới (New World Order) do hội Illuminati khống chế, hoàn toàn độc tài, không có nhân quyền và đạo đức, hơn nữa còn thiết lập một hệ thống mật vụ không đâu không có.

Vì sao nói hội Illuminati là tà ác? Bởi vì nó ngay từ đầu đã phản đối đạo đức truyền thống của nhân loại, phá hoại luân lý và hôn nhân gia đình, lại còn tuyên bố là kẻ thù của tất cả tôn giáo chính thống. Ngay từ khi thành lập, nó đã được định trước là một ma giáo họa loạn thế gian con người.

Ảnh: Biểu tượng hội Fabian (Fabian Society).

Hội Fabian (Fabian Society) thành lập năm 1884 là một tổ chức phân chi của hội Illuminati, từng trợ giúp Lenin, gọi Lenin là “người Fabian vĩ đại nhất”. Biểu tượng của hội này là một con sói đen khoác da một con cừu trắng. Hình tượng sói khoác da cừu này đã phản ánh đặc điểm lừa dối của chủ nghĩa cộng sản hiện đại mà hội Illuminati sáng lập. Bang chủ Weishaupt của Illuminati nói với những người thân tín rằng phải tận sức dùng nghệ thuật lừa dối, nghệ thuật ngụy trang bản thân, nghệ thuật trinh sát người khác và nghệ thuật theo dõi tư tưởng người khác. Ông ta còn dạy thủ hạ cụ thể phải lừa dối như thế nào. Để đánh lừa bên ngoài, hội Illuminati khoác lên hình ảnh của một tổ chức từ thiện, tuyên bố mục đích là khiến nhân loại trở thành một “đại gia đình hạnh phúc và phồn vinh” (giống như tấm "da cừu”), nhờ đó thu hút rất nhiều phần tử trí thức, quan viên chính phủ và nhân viên thần chức trong tôn giáo, v.v., khiến họ ngộ nhận đây là một tổ chức đơn thuần mang tính từ thiện của Cơ Đốc giáo. Sau này đảng cộng sản vận dụng lừa dối và ngụy trang còn khéo léo hơn nữa.

Để che đậy và không để người ta nghi ngờ, hội Illuminati thâm nhập và khống chế hội Tam Điểm (Freemasonry), đồng thời phát triển trong đó. Bởi vậy hội Illuminati là một tổ chức bí mật ký sinh vào hội Tam Điểm thần bí. Hội Illuminati và hội Tam Điểm hỗ trợ nhau độc lập; hội Illuminati không phải là hội Tam Điểm, mà chỉ lấy nó làm công cụ che đậy và phát triển trong đó. Vào lúc đại cách mạng Pháp bắt đầu, nước Pháp có tổng cộng 282 hội quán Tam Điểm (lodge), trong đó 266 hội quán bị hội Illuminati khống chế. Hội Tam Điểm Đức cũng bị hội Illuminati lật đổ triệt để. Sau đó hội Illuminati còn phát triển thâm nhập vào rất nhiều quốc gia như Áo, Pháp, Hà Lan, Anh quốc, Bỉ, Ý, Thụy Sĩ, Hungary, Nga, thậm chí cả Mỹ, v.v. Tới tận ngày nay nó vẫn tồn tại theo một loại hình thức nào đó, nhưng vượt khỏi phạm vi thảo luận của bài viết này.

Hội viên Illuminati được phân nghiêm ngặt thành các đẳng cấp (xem sơ đồ dưới đây), đại khái phân thành ba loại lớn: sơ cấp (Nursery), trung cấp (Freemasonry – Tam Điểm), cao cấp (Mysteries). Mỗi loại lại phân thành các đẳng cấp khác nhau. Hai loại lớn ở bên ngoài (sơ cấp và trung cấp) tương tự “da cừu”, trong đó hội viên chỉ được biết rằng hội “vì một đại gia đình hạnh phúc của toàn nhân loại”. Chỉ có tiến nhập vào cấp bậc “thần bí” (Mysteries), hội viên mới dần dần được nói cho mục đích thật sự. Điều này cho thấy hội Illuminati vô cùng thận trọng, bởi vì nó biết rằng bản thân nó là tà ác. Thực sự tiến vào được loại cao cấp chỉ là thiểu số, còn đối với các nhân viên bên ngoài chiếm đại đa số mà không biết mục đích thật sự, Weishaupt nói, một mặt họ có thể hư trương thanh thế, mặt khác có thể làm bia đỡ đạn. “Thống nhất chiến tuyến” của đảng cộng sản cũng tương tự như thế.

Ảnh: Tháng 7 năm 1782, sau khi người lãnh đạo hội Tam Điểm các nước triệu tập đại hội bí mật tại ngoại ô Frankfurt, Đức, ý đồ kết cấu tổ chức đẳng cấp cơ bản của hội Illuminati đã được đưa ra.Ảnh hưởng và thâm nhập của hội Illuminati đối với thế giới là tương đối rộng rãi, nhưng cực kỳ kín đáo. Đại cách mạng Pháp thế kỷ 18, cuộc vận động chủ nghĩa xã hội không tưởng thế kỷ 19, phong trào cộng sản thế kỷ 20, Công xã Paris, Bolshevik của Lenin, chủ nghĩa xã hội Fabian, và các cuộc vận động mang tính cách mạng lật đổ khác đều do hội Illuminati thao túng sau hậu trường.

“Tuyên ngôn của đảng cộng sản” không phải nguyên tác của Marx, mà lấy văn kiện cơ sở của Đồng minh những người cộng sản để chỉnh lý thành; tư tưởng và quan điểm chủ yếu của nó đều đã có sẵn, đều là của hội Illuminati (“Đồng minh những người cộng sản” là một tổ chức phân chi của hội Illuminati). “Hội Tam Điểm Đại Đông phương”, “Câu lạc bộ Jacobin”, “Hội bình đẳng” của Babeuf, “Đồng minh những người lưu vong”, “Đồng minh những người chính nghĩa”, “Đồng minh những người cộng sản” đều có chung một manh mối. Manh mối này đủ để chứng minh rằng: hội Illuminati đã sáng lập chủ nghĩa cộng sản hiện đại (đảng cộng sản).

Trong thời kỳ đại cách mạng Pháp, Mirabeau (1749-1791) khi ấy là một hội viên Illuminati ở Pháp, được Weishaupt giao trọng trách đưa hội Illuminati thâm nhập nước Pháp và phát triển tại Pháp. Sau đó, hội Illuminati thông qua “Hội Tam Điểm Đại Đông phương” bị khống chế để thành lập “Câu lạc bộ Jacobin”. Còn Robespierre (1758-1794) cũng là một hội viên Illuminati, được Weishaupt bổ nhiệm làm lãnh tụ Jacobin. Đây là người gây ra thời thống trị khủng bố (Reign of Terror) của phái Jacobin trong cách mạng Pháp.

Người ta chỉ biết rằng Babeuf đã lập ra một tổ chức bí mật gọi là “Hội bình đẳng” để tìm kiếm “chủ nghĩa xã hội không tưởng”. Nhưng tình huống chân thực là: Babeuf là một người được Mirabeau phát triển để gia nhập hội Illuminati, sau đó vâng mệnh hội Illuminati để tổ chức “Hội bình đẳng”. Trong thẩm phán trước khi lên đoạn đầu đài, Babeuf đã công khai thừa nhận mình chẳng qua chỉ là thuộc hạ của một tổ chức đứng đằng sau (hội Illuminati). Tư tưởng chủ nghĩa cộng sản mà Babeuf tuyên truyền đều đến từ hội Illuminati, mục đích là sau này đặt định cơ sở lý luận cho “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”.

“Câu lạc bộ Jacobin”, “Hội bình đẳng” của Babeuf, “Đồng minh những người lưu vong”, “Đồng minh những người chính nghĩa”, “Đồng minh những người cộng sản” thực ra đều là các tổ chức phân chi của hội Illuminati. “Đồng minh những người lưu vong” là do Jacobin biến đổi thành, sau đó các phần tử cấp tiến trong đó tổ chức nên “Đồng minh những người chính nghĩa”, còn “Đồng minh những người chính nghĩa” sau này lại đổi tên thành “Đồng minh những người cộng sản”.

Mirabeau, Robespierre, Babeuf, Bonner Rorty đều là những nhân vật mang tính đại biểu. Marx gọi Mirabeau là “sư tử dũng mãnh của cách mạng”, gọi Babeuf là một người đặt nền móng cho “chính đảng chân chính của chủ nghĩa cộng sản”. Còn Lenin đem tượng lãnh tụ Jacobin Robespierre thờ cúng ngay trong điện Kremlin. Hội Illuminati vì sao chọn Marx làm người chắp bút? Hay là nhắm trúng tư tưởng Sa-tăng giáo của Marx: thù hận đối với Thần và nhân loại? Đây chính là điều hội Illuminati cần. Bởi vì sự xuất hiện của họ là để hủy diệt nhân loại.

3. Nguồn gốc ký hiệu của đảng cộng sản

Trong quá trình thành lập chính quyền, ĐCSTQ mang theo một đặc trưng tương đối điển hình: màu đỏ Xô Viết, hồng quân, hồng kỳ, sao năm cánh đỏ, búa liềm (biểu tượng của đảng). Những đặc trưng này (ký hiệu, phù hiệu, xưng hô) dường như không thể tìm ra xuất xứ và nguồn gốc từ văn hóa truyền thống 5.000 năm của Trung Quốc. ĐCSTQ đã thừa nhận mình là tôn giáo ngoại lai. Kể từ khi thành lập, nó đã đi theo lý luận và thực tiễn của Liên Xô, dựa vào sự nâng đỡ của Liên Xô để lớn lên. Do vậy các ký hiệu, tên gọi này đều đến từ Liên Xô.

.

Ảnh: Biểu tượng của Sa-tăng giáo. Ảnh: Đảng huy của Liên Xô cũ

Ảnh: Biểu tượng của Sa-tăng giáo.

Ảnh: Sao năm cánh ngược, ký hiệu Sa-tăng trên cờ đoàn của ĐCSTQ

.Huy hiệu đảng của Liên Xô cũ là do một ngôi sao năm cánh màu đỏ và búa liềm hợp thành (xem hình bên trên). Ngôi sao năm cánh màu đỏ đối với người Trung Quốc không còn xa lạ gì, ĐCSTQ từng tuyên truyền là nó rất “thần thánh”. Búa liềm là đảng huy của đảng cộng sản. Như đã nói ở trước, đảng cộng sản bắt nguồn từ hội Illuminati, với Marx giữ chức chắp bút, khởi thảo “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” dựa trên văn kiện cơ sở của hội Illuminati. Còn Liên Xô thực hiện lý luận này, thành lập một tổ chức như vậy, hoặc có thể nói là lập ra một chính quyền như vậy. Còn “sao năm cánh đỏ” và “búa liềm” lại có một nguồn gốc thực sự khác với điều người ta nghĩ.

Đảng cộng sản tuyên truyền rằng: “Cờ đảng búa liềm của đảng cộng sản đại biểu công nhân và nông dân, cái búa đại biểu công nhân, còn cái liềm đại biểu nông dân”. Thế nhưng hàm nghĩa thực sự của chúng lại không phải như vậy. Như trước đã nói, hội Illuminati thâm nhập và khống chế hội Tam Điểm, dùng hội Tam Điểm để che chở, do vậy búa liềm trong cờ đảng thực sự đến từ hội Tam Điểm. Trong nghi thức của hội Tam Điểm, “đại sư thợ đá” (Master Mason) tay cầm một chiếc búa, bởi vì búa là công cụ lao động của thợ đá. Kỳ thực, từ “đồng chí” xưng hô giữa những người cộng sản là đến từ hội Tam Điểm, giữa các hội viên cấp 2 của hội Tam Điểm gọi nhau là “đồng chí” (comrade).

Marx xúi giục công nhân bạo động đoạt chính quyền, Lenin nói thành lập chính đảng của “giai cấp công nhân”, đều là dựa vào công nhân, căn bản không đề cập đến nông dân. Nông dân là Mao Trạch Đông đề cập đến “nông thôn bao vây thành thị”, còn đảng huy là đã có từ thời Liên Xô rồi, do đó liềm căn bản không đại biểu cho nông dân. Như vậy liềm đại biểu điều gì? Liềm cũng bắt nguồn từ hội Tam Điểm, đại biểu sự hủy diệt. Trong văn hóa đại chúng của Tây phương, Thần Chết mang theo một lưỡi hái; liềm thực sự đại biểu hủy diệt, đại biểu cái chết.

Ảnh: Thần Chết tay cầm lưỡi hái.Đảng huy của Liên Xô và ký hiệu Sa-tăng là rất giống nhau. Từ mấy bức hình chúng ta có thể so sánh, ngoài ra còn phát hiện một điểm: “sao năm cánh đỏ” là của giáo hội Sa-tăng, còn “búa liềm” là của hội Illuminati (Tam Điểm). Đây chính là sự kết hợp giữa ma giáo Sa-tăng và hắc bang Illuminati.

Nếu như nói Liên Xô cũ là một tổ chức phân chi của hội Illuminati, thì như vậy ĐCSTQ chính là kế thừa của phân chi này. Đảng kỳ, đảng huy, quốc kỳ, quốc huy và các loại huy chương của ĐCSTQ đều do các biểu tượng của Liên Xô diễn hóa thành. Chỉ là “sao năm cánh” và “búa liềm” được tách nhau ra. Ký hiệu “sao năm cánh ngược” của Sa-tăng xuất hiện trên đoàn kỳ của ĐCSTQ, trở thành biểu tượng của đoàn. Còn “búa liềm” được sử dụng đơn lẻ, trở thành biểu tượng của đảng.

Ngoài ra, ngày mùng 1 tháng 5 hàng năm được gọi là ngày “Quốc tế Lao động”, tuy nhiên chỉ ở quốc gia cộng sản mới thực thi ngày lễ này (ngày Lao Động ở Mỹ là ngày thứ Hai đầu tiên vào tháng 9 hàng năm). Đảng cộng sản giải thích rằng, ngày 1/5 (May Day) bắt nguồn từ cuộc bãi công lớn của công nhân tại Chicago, Mỹ vào ngày 1 tháng 5 năm 1886. Tháng 7 năm 1889, “quốc tế thứ hai” để kỷ niệm ngày này đã tuyên bố ngày 1/5 hàng năm là ngày Quốc tế Lao Động thế giới. Tuy nhiên lý do thực sự là hội Illuminati thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1776, ngày “1/5″ thực ra là đảng cộng sản chúc mừng ngày thành lập hội Illuminati. Thế nhưng không thể công khai nói ra lý do này, do đó cộng sản quốc tế mới mượn cớ nêu trên, tức là dùng một lý do khác để che đậy lý do thật sự.

Thực ra, nguyên tắc tổ chức và nghi thức vào đảng của đảng cộng sản cũng đến từ hội Illuminati. Hội Illuminati có kết cấu tổ chức và quân sự hóa hình kim tự tháp, và kể từ khi nhập hội, phải phát thề độc: đem sinh tử giao cấp cho tổ chức, phục tùng thượng cấp vô điều kiện, trung thành với tổ chức;… bảo mật nghiêm ngặt, nếu tiết lộ sẽ chịu trừng phạt nghiêm trọng; định kỳ báo cáo tư tưởng với cấp trên, v.v. Đảng viên cộng sản khi vào đảng cũng phải phát thề độc, thề đem mạng sống giao cấp cho chủ nghĩa cộng sản; trung thành vô hạn với đảng; phục tùng thượng cấp, giữ kín cơ mật của đảng, vĩnh viễn không phản bội đảng. Nguyên tắc tổ chức của đảng cộng sản có rất nhiều là lấy từ hội quy của Illuminati.

Nhưng chỉ có một điểm đặc thù: ĐCSTQ tăng cường nghi thức vào đoàn và vào đội, hơn nữa còn bắt trẻ em phát thề độc gia nhập đoàn thanh niên và đội thiếu niên. Ký hiệu của đội thiếu niên là một bó đuốc và một ngôi sao năm cánh hợp thành (bó đuốc ẩn dụ mồi lửa, tức thế hệ sau). Điều này đại biểu ĐCSTQ khiến trẻ em hiến thân cho ma giáo cộng sản “bất cứ lúc nào”.

Ảnh: Thiếu niên bị bắt buộc đeo khăn quàng đỏ.

Ảnh: Nghi thức tuyên thệ vào đảng của ĐCSTQ.

Sau khi tuyên thệ vào đoàn, thanh niên coi như đã tuyên thệ gia nhập ma giáo Sa-tăng; sau khi phát thệ trước đảng kỳ, người ta chính là đã thề đem sinh mệnh giao cấp cho ma quỷ.

Bài viết tới đây, hết thảy đều đã quá rõ ràng. Thực ra, người viết có thể viết được bài này cũng tuyệt không phải là ngẫu nhiên.

Tham khảo tư liệu:1. Von Richard Wurmbrand, Marx and Satan, Living Sacrifice Book Co (December 1986).2. David Allen Rivera, Final Warning: A History of the New World Order, Conspiracy (February 2004).3. Gerald B. Winrod, Adam Weishaupt: A Human Devil (California, 1969)4. Abbe Barreul, Code of the Illuminati, part III of Memoirs Illustrating the History of Jacobinism (New York, 1799)5. John Robison, Proof of a Conspiracy Against all the Religions and Governments of Europe (New York, 1798)6. Mark Dice, The Illuminati: Facts & Fictions (The Resistance, San Diego, CA, 2009)7. Nesta H. Webster, Secret Societies and Subversive Movements (General Books, Memphis, Tennessee, Reprint 2010)8. Nesta H. Webster, World Revolution: The Plot against Civilization (Boston, 1921).9. Nesta H. Webster, French Revolution,London (1920)10. Judth Miller, Occult Theocracy (1933) Con đường thành ác ma của MarxSunday, November 25, 2012 9:51 PMBa tháng trước, trong một lần lên mạng internet, tôi đọc được một số bài viết nói về Marx và Sa-tăng giáo (Satanist), sau đó có đem bài viết lưu lại. Sau đây là hai bài rất có giá trị và ý nghĩa để người ta hiểu rõ Marx và khởi nguyên chủ nghĩa cộng sản.

Bài thứ nhất là “Bình sinh không để người ta biết của Marx”, tác giả: Long Duyên. Bài này căn cứ phần miêu tả về sinh hoạt và công tác của Marx trong cuốn sách “Marx và Sa-tăng” (Marx and Satan) của Von Richard Wurmbrand rồi chỉnh lý mà thành. Trong bài đã trần thuật khá hệ thống về sinh hoạt và bản chất Sa-tăng của Marx.

Bài thứ hai là “Con đường thành ma của Karl Marx”, tác giả: Finder. Bản thành văn tham khảo các bài “Marx và Sa-tăng” (Marx and Satan), “Sự sùng bái Marx bắt nguồn từ Sa-tăng giáo” (The Cult of Marx – its origin in Satanism), v.v. Trong đó trích dẫn các tác phẩm của Marx, Engels có thể được tham chiếu tại trang www.marxists.org. Các trích dẫn kèm theo đối chiếu tiếng Anh và ghi rõ xuất xứ cùng đường dẫn.

Bí mật không để người ta biết của Marx

Người Trung Quốc từ nhỏ đã bị cưỡng chế truyền bá lý luận chủ nghĩa Marx, tuy nhiên bản thân chúng ta lại không hề hiểu rõ Marx. Trong viện nghiên cứu Marx ở Moscow có hơn 100 đầu sách do Marx viết, tuy nhiên chỉ có 13 quyển được xuất bản. Marx viết nhiều như vậy, rốt cuộc là về điều gì? Vì sao không cho xuất bản? Người ta thực ra muốn che giấu điều gì?

Gần đây, xem thấy trên mạng lưu truyền một số bài viết về Marx và Sa-tăng giáo, tôi đã tìm được mấy cuốn sách tiếng Anh nói về sinh hoạt và công tác của Marx [1,2], nhờ đó mới biết những điều bí mật ít người biết của Marx.

Ngày 5 tháng 5 năm 1818, Marx sinh ra trong một gia đình luật sư người Do Thái giàu có. Khi Marx lên 6 tuổi, gia đình ông ta quy y Cơ Đốc giáo. Thời trẻ Marx là một giáo đồ Cơ Đốc và tín ngưỡng Thượng Đế. Sau khi tốt nghiệp trung học, thành tích của Marx rất tốt và tất cả đều xem ra bình thường. Cha Marx cũng đặt kỳ vọng rất lớn vào ông ta.

Tuy nhiên trong thời gian học đại học, tính cách Marx biến đổi lớn, trong tâm đầy rẫy thù hận và cuồng vọng tự đại, khiến cha mẹ ông ta trở nên lo lắng và đau khổ.

Với sự giàu có của gia đình, trong thời gian Marx học đại học, cha Marx đã cấp cho ông ta rất nhiều tiền để tiêu xài [3]. Tuy nhiên Marx và Jenny (Jenny von Westphalen) đã bí mật đính hôn (gia cảnh Jenny tốt hơn Marx, người vừa cao vừa xinh đẹp, là đối tượng theo đuổi của nhiều chàng trai). Chiếu theo lý thường, cuộc đời Marx lúc này lẽ ra nên theo chiều hướng tích cực. Vậy vì sao Marx bỗng chốc trở nên đầy thù hận? Nguyên là sau khi vào đại học, Marx đã gia nhập giáo hội Sa-tăng (Satanist Church) do Joanna Southcott chủ trì [2] (người tự xưng là có giao tế với ma quỷ Shiloh), và trở thành một thành viên của giáo phái ma quỷ.

Theo tôn giáo Tây phương, Sa-tăng là thiên sứ sa ngã (fallen angel, hay Lucifer), từ đó trở thành ma quỷ, chứa đầy thù hận và ghen tức với Thượng Đế (God). Giáo hội Sa-tăng tuyên truyền thù hận đối với Thượng Đế, đồng thời cũng đầy thù hận đối với nhân loại (bởi vì Thượng Đế đã sáng tạo ra loài người).

Giai đoạn đầu học đại học, Marx dự định học tập thơ ca và hí kịch. Từ một số bài thơ và kịch bản mà ông ta viết, người ta có thể thấy sự thù hận của Marx đối với Thần và nhân loại. Ví như trong bài thơ “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair) biểu đạt sự tuyệt vọng của bản thân, Marx viết:

“Ta không còn lại gì ngoài thù hận!”(Nothing but revenge is left to me!),“Ta sẽ dựng ngai của ta ở trên trời cao,Lạnh lẽo và kinh khiếp làm sao khi ở trên đỉnh,Cho bức tường thành của sự mê tín khủng khiếp,Sự thống khổ đen tối nhất cho kẻ ngồi trên…”(I shall build my throne high overhead,Cold, tremendous shall its summit be.For its bulwark– superstitious dread,For its Marshall–blackest agony.)

Trong bài thơ này, tác giả đã bày tỏ tâm tư: Mơ ước trở thành Đại vương Khủng bố để hủy diệt cả thế giới. Marx còn thích lặp lại câu nói của ác ma Mephistopheles: “Hết thảy những gì tồn tại đều nên bị hủy diệt”.

Trong bài thơ “Sự kiêu ngạo của con người” (Human Pride), Marx viết:

“Rồi ta sẽ quăng đôi găng tay sắt lên,Khinh bỉ trước khuôn mặt mở rộng của thế giới,Dưới người lùn khổng lồ khóc thút thít,Lao xuống, nhưng không thể diệt niềm hạnh phúc của ta.Giống như Thượng Đế mà ta dám làm,Xuyên qua vương quốc hoang tàn trong khải hoàn,Mỗi lời nói là chiến công và ngọn lửa,Và ngực ta sẽ giống của Đấng Tạo Hóa.”(Then the gauntlet do I fling,Scornful in the World’s wide open face.Down the giant She-Dwarf, whimpering,Plunges, cannot crush my happiness.Like unto a God I dare,Through that ruined realm in triumph roam.Every word is Deed and Fire,And my bosom like the Maker’s own.)

Tác giả bài thơ này đã có được khoái cảm từ việc hủy diệt thế giới, mức độ thù hận và cuồng vọng có thể thấy được từ đó.

Mikhail Bakunin (một người Nga theo chủ nghĩa vô chính phủ, cùng Marx sáng lập “quốc tế thứ nhất”, cũng là một giáo đồ Sa-tăng), người từng có thời là bạn thân của Marx, viết:

“Người ta nhất định phải sùng bái Marx. Người ta ít nhất cũng phải sợ ông ta để có được sự khoan dung của ông ta. Marx là người tự đại cực độ, tự đại đến mức ghê tởm và điên cuồng”.

Có một điểm cần nói thêm ở đây, đó là thành viên giáo hội Sa-tăng không phải là người theo chủ nghĩa duy vật; họ không chỉ không vô thần, mà còn tin rằng có sự sống sau khi chết. Tín đồ Sa-tăng giáo tin vào sự tồn tại của Thần, chỉ là họ thù hận Thần, muốn vượt qua Thần, leo lên trên cả Thần (ít nhất là ngồi ngang hàng với Thần). Ví dụ trong kịch bản “Oulanem” nói về quan hệ giữa mình và Sa-tăng giáo (“Oulanem” là một danh xưng trong nghi thức tôn giáo của Sa-tăng, “Oulanem is a ritualistic name for Satan [2]“), Marx không phủ nhận sự sống sau khi chết, mà cho rằng sự sống sau khi chết chứa đầy thù hận với Đấng Tối Cao. Trong vở kịch này, tác giả đã bán linh hồn mình cho ma quỷ [1].

Sau khi Marx chết không lâu, người hầu gái cũ của Marx là Helen Demuth nói:

“Ông ta (Marx) là một người rất kính sợ thần. Khi mắc trọng bệnh, ông ta một mình trong căn phòng, đầu cuốn dây băng và cầu khấn trước ngọn nến đang cháy”.

Theo phân tích, nghi thức cầu khấn của Marx không phải là của Do Thái giáo (cũng không phải của Cơ Đốc giáo), mà rất có thể là một loại nghi thức ma quỷ bí mật nào đó của Sa-tăng giáo. Thực sự Marx không phải là một người vô thần.

Tháng 3 năm 1854, người con trai Edgar của Marx đã xưng hô như sau trong câu mở đầu bức thư gửi cha mình: “Ác quỷ thân ái của con (My dear devil)”. Bởi vì giáo đồ Sa-tăng giáo thường hay gọi người thân của mình như vậy, đây liệu phải chăng là sự trùng hợp? Không chỉ có vậy, người con rể yêu quý Edward Eveling của Marx cũng là một tín đồ Sa-tăng. Người bạn thâm giao Proudhon (nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa người Pháp) của Marx cũng sùng bái Sa-tăng như vậy. Nhà thơ Đức nổi tiếng Heinrich Heine, một người bạn thân khác của Marx, cũng là một người sùng bái Sa-tăng, hơn nữa trong thơ còn công khai ca ngợi Sa-tăng, nói Sa-tăng “là một người đàn ông, khả ái mê ly”.

Mặc dù Marx công khai bày tỏ sự thù hận đối với chủ nghĩa tư bản trong các tác phẩm của mình, nhưng ông ta lại đầu cơ cổ phiếu vào thị trường Luân Đôn và thua một lượng lớn tiền. Có một lần thắng được tiền, tháng 6 năm 1864, Marx viết trong bức thư gửi người chú Leon Phillips rằng ông ta thắng được 400 bảng Anh trên thị trường cổ phiếu [2].

Marx được trợ giúp một lượng lớn tiền từ Engels, nhưng rõ ràng là vẫn không thỏa mãn. Khi một người bác vợ 90 tuổi sắp chết, Marx viết như sau trong bức thư gửi Engels: “Nếu như con chó già (old dog) đó chết, thì tôi không ngại gì nữa”. Engels phúc đáp như sau: “Chúc mừng ông, chướng ngại đối với di sản kế thừa của ông mắc bệnh rồi, tôi hy vọng ông ta vạ đến nơi rồi”.

Sau khi cụ già 90 tuổi mà Marx gọi là “con chó già” qua đời, Marx lại viết: “Đây là một việc mừng. … Nếu không phải con chó già đó đem một đống của giao cho bà chủ giữ nhà, thì vợ tôi còn có thể được nhiều hơn”.

Marx và Engels đều là phần tử trí thức cao cấp, thế nhưng người ta phát hiện rằng, thư từ qua lại giữa họ đầy rẫy những từ ngữ hạ lưu thấp hèn. Ngoại trừ một lượng lớn ngôn từ dâm ô ra, giữa họ không hề có bất cứ bức thư nào trao đổi về niềm mơ ước chủ nghĩa xã hội nhân đạo.

Giờ lại xem thái độ của Marx đối với mẹ và vợ mình. Tháng 12 năm 1863, Marx viết trong bức thư gửi Engels:

“Hai giờ trước, tôi đã nhận được một bức điện báo, nói mẹ tôi đã chết rồi. … dưới rất nhiều tình huống, điều mà tôi cần không phải là một người đàn bà già đó, mà là những cái khác. Tôi nhất định phải lên đường đến Trier để tiếp nhận di sản (ghi chú của người viết: Trier là nơi Marx sinh ra).”

Điều mà Marx quan tâm chỉ là di sản mà thôi. Ngoài ra, quan hệ giữa Marx và người vợ Jenny là không tốt, bà đã hai lần ly thân ông ta, nhưng sau đó lại trở về. Khi Jenny chết, Marx thậm chí còn không tham dự lễ tang.

Marx không bao giờ thực hiện nghĩa vụ nuôi gia đình; bất chấp mình có đủ tiền, Marx vẫn dựa vào Engels để sinh hoạt. Marx và vợ sinh được sáu người con, trong đó ba người chết vì thiếu dinh dưỡng, còn hai người con gái và một con rể thì tự sát (người con gái Eleanor từng nói khi Engels sắp chết rằng cô suy sụp khi biết Marx có con riêng và sau đó tự sát) [2]. Marx còn nát rượu nghiêm trọng [1].

Marx đối với người thân của chính mình còn tuyệt tình như vậy, đối với người khác thì có thể tưởng tượng được. Ai cũng biết Marx là người Do Thái, nhưng ông ta lại căm thù người Do Thái, còn viết riêng một cuốn sách bài Do Thái, gọi là “Về vấn đề Do Thái” (On the Jewish Question). Ông ta thù hận người Đức, người Trung Quốc, miệt thị: “Người Đức, người Trung Quốc, người Do Thái đều là kẻ bán hàng rong”. Ông ta gọi người Nga là “bị cơm”, gọi người Xla-vơ là “nhân chủng cặn bã”, là chủng tộc “phản động”, và nên bị hủy diệt trong cơn bão táp cách mạng thế giới.

Trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” và các cuốn sách khác, Marx tuyên bố phấn đấu vì giai cấp vô sản, thế nhưng lại gọi giai cấp vô sản là “ngu xuẩn, lưu manh, khó ngửi”, còn gọi người da đen là “đần độn”, thậm chí ủng hộ chế độ nô lệ ở Bắc Mỹ…

Ngày 9 tháng 1 năm 1960, tờ báo Đức “Reichsruf” đã tiết lộ một vụ bê bối lớn: Thủ tướng Áo Raabe đã từng bí mật gửi lãnh đạo Khrushchev của Liên Xô một phong thư gốc của Marx tìm thấy trong kho lưu trữ mật. Trong thư đã chứng tỏ rằng Marx từng là một kẻ mật báo lĩnh thưởng của cảnh sát Áo, ông ta từng là gián điệp trong đội ngũ cách mạng lưu vong tại Luân Đôn. Mỗi lần cung cấp một tin tức, Marx nhận được 25 đồng tiền thưởng. Phạm vi mật báo của Marx liên quan đến những người cách mạng lưu vong tại Luân Đôn, Paris và Thụy Sỹ [1].

Marx chết ngày 14 tháng 3 năm 1883, và được mai táng tại nghĩa trang Highgate (Highgate Cemetary) ở Luân Đôn, với chỉ 6 người tham dự tang lễ. Thế nhưng nghĩa trang Highgate này là trung tâm sùng bái Sa-tăng ở Luân Đôn, rất nhiều nghi thức đen tối sùng bái ma quỷ đã được cử hành tại nghĩa trang này.

Sự thực đã chứng tỏ rõ Marx là một tín đồ Sa-tăng giáo. Tất nhiên Marx không dám thừa nhận, và để che đậy, ông ta mới nói dối mình là người vô thần. Marx vận dụng thuần thục các mánh khóe của Sa-tăng — bịa đặt và lừa dối. Ở một góc độ khác, Marx là giáo chủ của đảng cộng sản, dùng vô thần luận, duy vật luận để che đậy diện mạo thật sự của ma giáo cộng sản, để mong đạt được mục đích hủy diệt tâm linh của nhân loại.

Mở đầu “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, Marx viết: “Một bóng ma đang ám ảnh Châu Âu: Bóng ma chủ nghĩa cộng sản”. Không ít người cảm thấy nghi hoặc về đoạn này. Hiện tại chúng ta đã minh bạch rồi, “bóng ma chủ nghĩa cộng sản” này kỳ thực là Sa-tăng trong tâm Karl Marx. “Cửu bình cộng sản đảng” đã nói rõ điều này cho mọi người, gọi là “tà linh cộng sản”.

Marx đối với nhân loại không hề có yêu thương, mà chỉ có thù hận. Hơn 100 năm qua, chủ nghĩa cộng sản thực hiện giấc mộng của tín đồ Sa-tăng Marx đã đem đến cho nhân loại tai ương và thống khổ vô cùng to lớn. May có “Cửu bình cộng sản đảng” khiến ngày càng nhiều người Trung Quốc thức tỉnh, thoái xuất đảng, đoàn, đội của Trung Cộng, thoát khỏi khống chế của Sa-tăng, từ đó được tân sinh.

Con đường thành ma của Karl Marx

Trong bài thơ “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair), Marx viết:

Thượng Đế đã lấy đi của ta tất cả,Trong sự nguyền rủa và tra tấn của định mệnh.Tất cả thế giới đã ra đi không trở lại!Ta không còn lại gì ngoài thù hận!Ta sẽ dựng ngai của ta ở trên trời cao,Lạnh lẽo và kinh khiếp làm sao khi ở trên đỉnh,Cho bức tường thành của sự mê tín khủng khiếp,Sự thống khổ đen tối nhất cho kẻ ngồi trên.Kẻ nhìn vào nó với đôi mắt khỏe mạnh,Sẽ trở thành xanh đen như chết và câm lặng;Chiếm cứ bởi sự mù quáng và lạnh lẽo của tử vong,Có lẽ niềm hạnh phúc sẽ chuẩn bị phần mộ cho hắn.

Toàn văn bản tiếng Anh bài thơ có thể được tra cứu tại: http://www.marxists.org/archive/marx/works/1837-pre/verse/verse11.htm

Vào thời học sinh, Marx đã viết một kịch bản, có lẽ là đáp án. Kịch bản này tên gọi là “Oulanem”. Để hiểu được đầu đề này thì phải biết sự việc như sau:

Sa-tăng giáo có một loại nghi thức tế lễ gọi là “tụ hội đen tối”. Trong nghi thức này, thầy tế của Sa-tăng giáo tiến hành tụng niệm vào lúc nửa đêm. Cây nến màu đen bị đảo ngược và đặt lên giá cắm nến, trong khi thầy tế mặc ngược áo trường bào, nhìn vào cuốn sách cầu nguyện và tụng niệm, nhưng thứ tự niệm là hoàn toàn đảo lại, bao gồm thánh danh của Thần, Chúa Jesus, và Đức Mẹ Maria, đều đảo lại để niệm. Một cây thập tự giá được treo ngược hoặc bị giẫm ở dưới chân; một vật thâu trộm thánh khí của giáo đường được khắc tên của Sa-tăng, dùng để trao đổi giả. Trong “tụ hội đen tối” này, một bộ Thánh Kinh sẽ bị thiêu hủy. Tất cả những người có mặt sẽ phát thề phạm vào bảy tội lớn trong giáo nghĩa của Thiên Chúa giáo, đồng thời thề vĩnh viễn không làm việc tốt. Sau đó, họ sẽ tiến hành túng dục cuồng hoan.

“Oulanem” chính là đem Thánh danh “Emmanuel” ra viết bậy bạ. “Emmanuel” là một tên của Chúa Jesus trong Thánh Kinh, theo tiếng Hebrew thì có nghĩa là “Thần đồng tại với chúng ta”. Phép thuật hắc ám cho rằng loại đảo ngược này là hữu hiệu.

Tác phẩm “Oulanem” của Marx có thể tra cứu trên mạng Marxist: http://www.marxists.org/archive/marx/works/1837-pre/verse/verse21.htm

Dù sao đây cũng chỉ là màn kịch đầu tiên (Act I), nội dung đằng sau vẫn còn chưa đưa lên mạng, tại sao vậy?

Để lý giải kịch bản “Oulanem”, chúng ta cần phải dựa vào một màn tự bạch kỳ dị của Marx. Trong bài thơ “Người diễn tấu” (The Fiddler), Marx viết:

Sao vậy! Ta lao xuống, lao xuống mà không trượtThanh kiếm đen máu của ta đâm vào tâm hồn ngươi.Thượng Đế khéo léo kia không muốn hay là quản,Nó nhảy vào não từ đám sương đen của địa ngục.Tới khi trái tim mê mẩn, tới khi cảm xúc dâng trào:Ta đã bán mình cho ma quỷ Sa-tăng.Ngài viết các ký hiệu, bấm thời gian cho ta,Ta chơi khúc quân hành Thần Chết nhanh và rảnh.

Đoạn này càng thể hiện rõ hơn nữa, Marx đã thừa nhận mình có khế ước với Sa-tăng. (Người viết bổ sung thêm: Marx đã thừa nhận “Sa-tăng cấp cho ông ta một thanh kiếm, lại cấp ấn ký cho ông ta” [1])

Bản tiếng Anh tác phẩm “Người diễn tấu” (The Fiddler) của Marx có thể được tham chiếu tại: http://www.marxists.org/archive/marx/works/1837-pre/marx/1837-wil.htm

Những câu này mang theo một hàm nghĩa đặc thù: Trong nghi lễ thăng cấp của Sa-tăng giáo, để thực hiện thuật phù thủy, một thanh kiếm sẽ được bán cho người thăng cấp. Còn kẻ thăng cấp trả tiền và dùng máu của mình để ký tên trên khế ước với ác ma; sau đó, khi người này chết, linh hồn anh ta sẽ thuộc về Sa-tăng.

Dưới đây là trích dẫn kịch bản “Oulanem” của Marx:

Họ cũng là Oulanem, cũng là Oulanem!Có cái chết vang trong cái tên đó, vang lênCho tới khi người ti tiện mang nó kết thúc.Nhưng đợi xem, ta đang có nó! Rõ như không khí,Chắc như xương ta, nó thăng lên từ linh hồn ta.…Nhưng ngươi, trong cánh tay trẻ khỏe của ta,Và chúng xoắn lên điên cuồng ở trước ngực.Trong bóng đêm, vực không đáy mở ra và nuốt trọn chúng ta,Nếu ngươi chìm xuống, hãy cười, ta sẽ theo ngươi,Và thì thầm với ngươi: “Đi xuống! Đi xuống với ta! Đồng chí!”

Trong Thánh Kinh mà Marx học ở đại học nói ma quỷ bị một vị thiên sứ quăng vào vực không đáy (Khải Huyền, 20:3). Vực không đáy này là dành cho ma quỷ và các thiên sứ sa ngã. Marx muốn đưa toàn nhân loại vào trong địa ngục này.

Trong kịch bản này, ai đang đại biểu cho lời thoại của Marx? Từ ngôn ngữ của người trẻ tuổi, chúng ta có lý do để nghĩ rằng: Ông ta muốn ném toàn nhân loại vào ngục không đáy, còn bản thân ông ta đang cười những người bị thuyết vô thần dụ dỗ. Ngoại trừ nghi lễ thăng cấp của giáo hội Sa-tăng ra, trên thế giới không có bất cứ một loại lý niệm nào như vậy.

Trong kịch bản “Oulanem”, khi Oulanem chết, Marx mô tả:

Tất cả đã mất! Thời giờ đã mãn, và thời gianDừng lại. Vũ trụ tầm thường này sụp đổ.Ngay khi ta siết chặt vĩnh hằng và hét lên,Câu nguyền rủa thật lớn vào tai con người.

Marx thích lặp lại câu nói của ác ma Mephistopheles: “Hết thảy những gì tồn tại đều nên bị hủy diệt”. Ông ta thích trích dẫn câu nói đó.

Hết thảy những thứ này là chỉ điều gì? Công nhân, nông dân, trí thức, thương nhân? Người tin chủ nghĩa cộng sản? Hay là toàn nhân loại? (Người viết bổ sung thêm: Nguyền rủa cả nhân loại đều bị hủy diệt, chỉ có ma quỷ Sa-tăng mới có ý tưởng như vậy [2])

Thành viên Sa-tăng giáo không phải là người duy vật, họ tin rằng có sự sống sau khi chết. … cho rằng sự sống sau khi chết chứa đầy thù hận đối với Đấng Tối Cao. Đối với ma quỷ, “vĩnh hằng” đồng nghĩa với “khổ hình”. Chính vì vậy ma quỷ mới trách mắng Chúa Jesus: “Hỡi Con Đức Chúa Trời, chúng tôi nào có gây sự gì với Ngài chăng? Ngài đến đây để hình phạt chúng tôi trước kỳ sao?” (Phúc Âm Matthew, 8:29). Marx cũng có cùng một sự lo lắng như vậy. Trong “Oulanem”, ông ta viết:

Vĩnh hằng! Nó là nỗi đau vĩnh hằng,Cái chết không thể tưởng tượng, đo lường được!Một mưu kế tà ác được trù tính để chế nhạo chúng ta,Không gì ngoài máy đồng hồ, cỗ máy câm lặng rung lênTrở thành lịch — trò hề của thời gian; trở thành,Chỉ là thứ gì đó nhờ đó ít nhất có thể xảy ra;Và để hủy diệt, chỉ có thể là hủy diệt!

Khi Marx viết “Oulanem”, cậu thanh niên trẻ này mới chỉ gần 18 tuổi. Lúc ấy, kế hoạch ấp ủ cả một đời của ông ta đã thể hiện rất rõ ràng. Marx không hề ảo tưởng vì nhân loại, vì giai cấp vô sản, hoặc vì chủ nghĩa xã hội mà phục vụ. Ông ta muốn hủy diệt cả thế giới, làm rung động cả thế giới, lấy đau đớn, rối loạn làm cơ sở để dựng ngai của ông ta.

Lời kết:Mars, chủ nghĩa cộng sản, đảng cộng sản, là tổ chức hữu hình mà Sa-tăng kiến lập tại thế gian con người. Kể từ khi sinh ra, nó đã lấy phản đối tín ngưỡng chính thống và văn hóa truyền thống làm mục đích, lấy phá hoại luân lý chính thường và đạo đức nhân loại làm căn bản, giết người hại mệnh, họa loạn thế gian. Phàm là người gia nhập tổ chức này, thì chính là thành viên của ma giáo (bị nhận ấn ký), chắc chắn phải uống rượu thịnh nộ của Thượng Đế, trở thành vật hy sinh của ma giáo. Bởi vậy xóa thú ấn, thoái xuất ma giáo cộng sản là điều rất quan trọng để được tân sinh.

Tham khảo tư liệu:[1] Von Richard Wurmbrand, Marx and Satan (Marx và Sa-tăng), Living Sacrifice Book Co (December 1986).

[2] David Allen Rivera, Final Warning: A History of the New World Order, Conspiracy (February 2004). Chương 6: Khởi nguyên của chủ nghĩa cộng sản.

[3] Rolv Heuer trong cuốn sách “Thiên tài và phú ông” đã giới thiệu khi Marx học đại học Berlin, cha Marx cấp cho Marx mỗi năm 700 đồng bạc tiền tiêu vặt. Đây là một con số rất lớn, bởi vì thời bấy giờ, chỉ 5% người có thu nhập hơn 300 đồng bạc/năm.

[chanhkien.org]

Dấu hiệu người đứng đầu Hội tam điểmSunday, November 18, 2012 9:58 PM

Các xã hội bí mật thường giao tiếp thông qua các biểu tượng, dấu hiệu và cử chỉ, để xác định mình cho các thành viên khác thuộc xã hội bí mật đó. Dưới đây là danh sách các hội viên của hội Tam Điểm (tên tiếng Anh là Masonic, một chi nhánh của Illuminati), những người đã được mô tả với ký hiệu bàn tay ẩn (Hidden hand). Bàn tay ẩn là dấu hiệu của "người đứng đầu" và được sử dụng trong các nghi lễ Tam Điểm khác nhau.

(Dấu hiệu của người đứng đầu trong Second Veil).

Nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử xuất hiện trong các bức ảnh với biểu tượng Tam Điểm trên. Dưới đây là một bức tranh tổng quan:

Đầu tiên là giáo chủ của chủ nghĩa cộng sản, Karl Marx.

Stalin

Harry Truman

Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ. Trong bộ đồng phục đầy đủ dấu hiệu của hội Tam Điểm.

Ronald Reagan Tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ.

George Washington

Wolfgang Amadeus Mozart

Wolfgang Amadeus Mozart

Napoleon Bonaparte

James Wilkes Booth,

Salomon Rothschild Người ám sát Abraham Lincoln.

Hosni Mubarak

Mustafa Kemal Atatürk

Paul von Hindenburg

Friedrich Nietzsche

James A. Garfield

Tổng thống thứ 20 của Hoa Kỳ.

.

Andrew Johnson Tổng thống thứ 17

của Hoa Kỳ Victor Hugo, nhà văn Pháp.

Franklin Pierce Tổng thống 14 của Hoa Kỳ.

Frederic Auguste Bartholdi,Kỹ sư thiết kế và sản xuất tượng Nữ thần Tự Do, thành phố New York.

Skull and Bones

Hội Illuminati tại Đại học Yale.

Để hiểu về mối quan hệ giữa Karl Marx và hội Tam Điểm, độc giả nên tham khảo bài viết sau: Mối liên hệ giữa Marx, Satan giáo và chủ nghĩa cộng sản.

Hội Kín Tại Hoa Kỳ - IlluminatiSunday, November 18, 2012 7:15 PM

Hội Illuminati là tên gọi nhiều cơ sở bí mật hay hội kín. Thông thường là hội kín Bavarian Illuminati, một hội của nhưng người đã được illuminated, thành lập từ cuối thế kỷ XVIII. Chữ illuminati, theo từ nguyên Hy Lạp có nghĩa là những người đã được rửa tội theo đạo Công Giáo. Mặt khác, theo tự điển Microsoft Encarta 2000, thì danh từ này chỉ một nhóm Công Giáo ly khai Alumbrados ở Tây Ban Nha. Gần đây nữa, tới cuối thế kỷ thứ XVIII danh từ này chỉ một hội kín do Adam Weishaupt sáng lập tại vùng Bavarian, nước Đức. Hội kín này chủ chương lấy lý trí để thắng những điều mà họ cho là huyền hoặc của tôn giáo. Hiện thời, Illuminati là danh từ chỉ một nhóm tài phiệt, tự coi mình là những người sinh ra đã ‘ngộ’, dùng tiền bạc khuynh đảo trật tự xã hội dần tiến tới đích cuối cùng là thống trị toàn thể thế giới – New World Order. Nhóm illuminati liên kết cùng với nhóm Bilderburg, có nhóm Council of Foreign Relations cùng nhiều nhóm khác nữa. Khác với những nhóm kể trên, nhóm Illuminati mang thêm mầu sắc huyền bí của một hội kín cổ, có một lịch sử ngoài 225 nãm, liên tiếp là những vụ tạo phản, conspiracy.Vụ tạo phản đầu tiên chính là cuộc sống của Adam Weishaupt. Ông ta rửa tội thành tín đồ công giáo, rồi thành một giáo sư dậy luật giáo hội Canon Law tại đại học Inglecot, rồi lại bỏ đạo Công Giáo theo phe Luciferian tạo phản. Năm 1770, Adam Weishaupt khởi công thảo một kế hoạch để đưa ý thức hệ Lucifeian bao trùm toàn thể nhân loại, sau khi xã hội đương thời đã bị một cơn bão chuyên chế ma quái tàn phá.

Weishaupt hoàn tất kế hoạch này ngày 1 tháng 5 năm 1776. Kế hoạch này đòi hỏi sự sụp đổ của mọi chính quyền quốc gia địa phương cùng giáo quyền tôn giáo hiện thời. Mục tiêu là chia rẽ quần chúng thành những phe phái đối lập, trên mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, khiến dễ bề tạo nên những cuộc nội chiến, để làm suy yếu mọi thành phần tham chiến, rồi cuối cùng tiêu diệt tất cả những tiềm lực của chính phủ cùng phe đối lập và những cơ sở tôn giáo.

Kế hoạch Adam Weishaupt đề nghị để phái Illuminate thi hành gồm bốn giai đoạn như sau:

1. Dùng tiền bạc, sắc đẹp để mua chuộc những người đang có trong tay những địa vị then chốt trong mọi giai cấp và ngành chuyên môn của chính quyền. Dùng mọi cách để kiểm soát đối tác, như áp lực chính trị, đe dọa về tài chính, phanh phui trước dư luận, kể cả bạo động hay gây đổ máu.

2. Tuyển chọn thành viên Illuminati trong giới giáo sư, sinh viên các trường cao đẳng, đại học, có khả năng xuất chúng, con nhà thế phiệt, có khuynh hướng hướng ngoại, và khuyến khích cho họ theo học những ngành học có tính cách quốc tế, bằng những học bổng, tựa như Rhodes Scholarship. Tạo cho họ ấn tượng là những người có tài cao thiên bẩm có quyền hưởng đặc ân trên mọi người khác.3. Đặt những sinh viên xuất sắc đã được tuyển chọn vả huấn luyện cùng những illuminati đã mua chuộc được vào nhưng địa vị đứng trong hậu trường như các cố vấn chuyên môn/đặc biệt của các chính phủ. Những người này đều có nhiệm vụ tạo ra những kế hoạch hay những chiến lược, theo chiều hướng phục vụ mục tiêu cuối cùng, của Illuminati: tạo ra một chính phủ độc nhất thống trị toàn cầu. Vậy nên, những kế hoạch tạo ra, về lâu về dài sẽ khuynh đảo chính quyền đã chọn họ làm cố vấn.4.

Tìm cách kiểm soát báo chí đại chúng để thuyết phục họ một chính phủ thống trị toàn cầu là giải pháp duy nhất cho những khó khăn trước mặt. Cố gắng làm chủ hay kiểm soát mọi đài vô tuyến truyền thanh và truyền h́ình.Qua bốn điểm do Adam Weishaupt nêu ra trên đây, và nhìn vào hiện tại, ít ai không nhận ra là hệ thống truyền thông ở khắp nơi trên trái đất này đang bị kiểm soát trên mọi tầng lớp; cũng như mọi cấp chính phủ dều bị xâm nhập và kiểm soát như Adam Weishaupt dự tính.

Nhìn lại chuyển biến của lịch sử từ khi Hội Illuminati bắt đầu hành động, lúc đó Anh Quốc và Pháp quốc là hai đại cường. Thế rồi nhiều cuộc chiến tranh thuộc địa bùng nổ, kể cả cuộc Revolutionary War tại Hoa Kỳ đã làm suy nhược đế quốc Anh. Tại Pháp, cuộc cách mạng năm 1789 lật đổ vương quyền tại Pháp.Weishaupt ra lệnh khởi động cuộc cách mạng tại Pháp từ nãm 1784. Người phụ tá là nhà vãn Zwack, gốc người Đức, ghi lại lệnh đó như một tờ truyền đơn dấu trong một cuốn sách nói về lai lịch của tổ chức Illuminati cùng kế hoạch của Weishaupt và sai người cầm tay tới Robespierre, một người Pháp đã được Weishaupt ủy thác điều hành cuộc cách mạng của nước Pháp. Trên đường từ Đức qua Pháp, liên lạc viên này bị xét đánh chết. Cảnh sát tìm thấy cuốn sách và nộp lên nhà chức trách Bavarian.Sau khi nghiên cứu cuốn sách, nhà chức trách Bavarian ra lệnh khám nhà Weishaupt, và trụ sở hội Tam Điểm vừa thành lập và có liên quan chặt chẽ với Weishaupt. Cuộc điều tra cho thấy là những tài liệu tịch thu là bằng chứng của một kế hoạch của Illuminati nhằm khuynh đảo chính quyền.Nãm 1785, chính phủ Bavarian đặt Illuminati ra ngoài vòng pháp luật và đóng cửa Hội Tam Điểm địa phương. Nãm 1786 chính phủ này còn trònh bày chi tiết của kế hoạch tạo phản viết thành cuốn The Original Writing of The Order and Sect of the Illuminati, xuất bản và gửi cho những người lãnh đạo nhà nước và tôn gíao tại Âu Châu.Đồng thời Weishaupt ra lệnh cho thành viên Illuminati phải xâm nhập vào những tổ Blue Masonry của hội Tam điểm, và tạo ra một hội kín trong lòng những hội kín khác. Chỉ có những hội viên Tam điểm có khuynh hướng hoạt động trên diện quốc tế hay tỏ ra là kể dối đạo Chúa mới được tuyển lựa tham gia vào nhưng hoạt động này. Trong việc xâm nhập vào những tổ Tam điểm tại Luân Đôn, Weishaupt đã mời John Robison, một giới chức cao cấp trong hội Tam Điểm tại Scotish Rite, nguyên là giáo sư khoa học thiên nhiên tại đại học Eidingburgh và là thư ký thường trực hội Royal Society of Eidinburgh. John Robison không đồng ý với đường lối hoạt động của Hội Illuminati, nhưng im lặng thâu thập tài liệu về Hội này.

Cách mạng Pháp bùng nổ, theo đúng như dự trù ban đầu, vì lệnh thay đổi ngày khởi nghĩa vào năm 1984 không tới tay người thừa hành. Cùng năm đó Robison xuất bản cuốn sách dưới tựa đề Proof of Consiracy to Destroy All Governments and Religions, nhưng lời khuyến cáo này cũng không có hiệu quả. Napoleon Bonaparte

Tiếp tục việc đánh đổ các vương quyền tại Âu Châu, nhóm Illuminati dùng một cánh tài phiệt tài trợ cho Napoleon, và một nhóm khác tài trợ cho các nhà ngân hàng Anh và Đức cùng nhiều nước khác, trong những năm Napoleon làm mưa làm gió tại Âu Châu và Bắc Phi.

Tiếng súng của những cuộc chiến tranh của Napoleon vừa ngưng, nhóm Illuminati thấy rõ sự suy nhược của các quốc gia tham chiến như đã dự tính, và tin chắc là nhưng quốc gia đó sẽ vui lòng chấp nhận một giải pháp hoà bình bằng mọi giá. Do đó, nhóm Illuminati triệu tập Congress of Vienna. Tại hội nghị này Hội Illuminati đưa ra đề nghị thành lập một hội quốc gia liên, một hình thức của một chính phủ thống trị toàn thể thế giới. Họ tin tưởng rằng đề nghị sẽ được mọi vương quyền chấp nhận, vì những vương quyền này mang ơn Hội illuminati quá nhiều. Nhưng riêng có Nga Hoàng nhận ra mưa sâu của Hội và hậu quả là biến cố năm 1917, toàn thể gia đình Sa Hoàng đều bị sát hại.Sau hội nghị Vienna, Hội Illuminati nhận ra là chưa đến lúc thực hiện một chính phủ thống trị toàn cầu, mục tiêu cuối cùng của tập đoàn, họ bèn thay đổi mục tiêu, cũng cố địa vị, bằng cách thắt chặt hơn việc kiểm soát hệ thống tài chính của những quốc gia Âu Châu.

Trong mục đích kiểm soát tài chính, họ loan tin thất thiệt, ngày trận Waterloo đã tới giai đoạn chấm dứt, là Napoléon đã chiến thắng. Thị trường chứng khoán tại Anh hốt hoảng. Giá mọi cổ phần xuống tới mức gần zero. Trong không khí hoảng loạn đó, ngân hàng International Bankers, mua vào với gía 1 xu mhưng cổ phần đáng giá 1 đồng. Như vậy, họ hoàn tất việc kiểm soát nền kinh tế không riêng một Anh quốc mà dường như toàn thể Âu Châu.

Tức thì sau cuộc đàm phán tại Vienna, ngân hàng International Bankers lập một ngân hàng mới gọi tên là Bank of England, mà Hội Illuminati kiểm soát toàn diện, và tiếp tục kiểm soát cho tới ngày nay.Năm 1830 Weishaupt từ trần, nhưng trước ngày đó ông đã soạn thảo một bản tu chỉnh kế hoạch tạo phản của Hội Illuminati, bản tu chỉnh mang nhiều tên khác nhau nhằm mục đích tổ chức, tài trợ, hướng dẫn, kiểm soát mọi cơ sở quốc tế bằng cách đặt người vào những vị trí điều động then chốt trên hàng đầu.Năm 1848, Karl Marx soạn thảo bản Tuyên Ngôn Cộng Sản, Communist Manifesto cùng với một nhóm trí thức của Hội Illiminati.

Đồng thời giáo sư Karl Ritter thuộc đại học Frankfurt, viết một bản phản đề, cũng cùng với một nhóm trí thức khác cũng thuộc Hội Illuminati. Mục đích chính là chia rẽ nhân loại ra thành hai phe đối lập, để tạo nên một cuộc chiến tranh tàn sát lẫn nhau và đặc biệt làm kiệt quệ mọi tổ chức chính trị cùng tôn giáo có sẵn.Sau khi Karl Ritter từ trần, nhóp Illuminati đã dùng tư tưởng của triết gia Friedrich Wilhelm Nitzsch để tạo ra đường lối phân biệt sắc tộc cho cánh Nazi, trong thế chiến

.Karl Marx – FreeManson

Năm 1834, Hội Illuminati chọn nhà lãnh đạo cách mạng người Ý Giuseppe Mazzini (Mà thực ra ông ta là người sáng lập nên MAFIA nước Ý) để lãnh đạo chương trình cách mạng thế giới. Giuseppe Massini thi hành sứ mệnh này cho tới ngày ông chết nãm 1872. Trước khi từ trần, ông đã đưa một viên tướng người Hoa Kỳ, tên là Albert Pike vào Hội Illuminati. Tướng Pike tin tưởng như bị mê hoặc vào ý niệm một chính phủ thống trị toàn cầu, và sau đó trở thành người lãnh đạo phe Luciferian.Trong hời gian từ 1859 tới 1871, tướng Pike hoàn tất một kế hoạch quân sự làm nền tảng cho ba cuộc chiến tranh và những cuộc cách mạng khắp thế giới, mà Hội Illuminati tin chắc là sẽ giúp họ thực hiện được mục tiêu cuối cùng: thống lĩnh toàn cầu, trong thế kỳ XX.Trận chiến thứ nhất của Hội Illuminati là gây ra cuộc cách mạng tháng 10 tại Nga, đúng như nguyện ước của nhóm chủ chương ngân hàng International Bankers, sau khi Nga Hoàng đã phá vỡ hội nghị Vienna. Ngôi vua của Sa Hoàng bị lật đổ, và nước Nga trở thành chiến khu của Cộng Sản vô thần, lan rộng khắp vùng Đông Âu lật đổ vương quyền và làm suy yếu mọi tôn giáo để tạo ra liên bang Sô Viết.Trận chiến thứ hai, gây nên do sự khấy động giữa phát xít và nhóm chính trị lập quốc Do Thái, Zionists. Trong cuộc chiến này Hội Illuminati chủ chương giúp cộng sản bành trướng cho tới khi trở thành một lực lượng tương đương với lực lượng của phe theo Ky Tô giáo.Trận chiến thứ ba là gây khuấy động để gây môt cuộc chiến giữa thế giới theo đạo Hồi và phái chính trị Zionists. Mục đích của cuộc chiến này là đưa Do Thái, Hồi Giáo, Zionists đồng thời lôi cuốn mọi quốc gia khác vào cuộc chiến cho tới lúc tất cả mọi phe đều mệt mỏi kiệt quệ về cả kinh tế và quân sự cũng như tinh thần chiến đấu. Đó là lúc Hội Illuminati đứng ra thành lập chính phủ toàn cầu. Tại Hoa Kỳ, từ sau thế chiến I, Hội Illuminati hoạt động dưới danh hiệu Council on Foreign Relations, CFR. Vai chủ động CFR thực sự là những hậu duệ của những người đã tạo nên Hội Illuminati, dấu mặt đổi tên. Tổ chức tuơng tự tại Anh hoạt động dưới danh hiệu British Institute of International Affairs. Nhiều chi nhánh khác ở Pháp ở Đức hoạt động dưới những danh hiệu khác nhau nhưng theo đuổi cùng một đường hướng. Tất cả những tổ chức này đều đặt dưới quyền điều động của Hội Illuminati.

Trong chính phủ toàn cầu tương lai, người của Hội Illuminati, trong nhóm đầu não CFR, cùng nhóm điều khiển Liên Hiệp Quốc, một vài nhà tỷ phú, một vài nhà khoa học đã có công phục vụ Hội sẽ giữ những vai trò lãnh đạo. Tất cả nhân loại sẽ là nô lệ của Illuminati.Hội Tam Điểm, Hội kín bí ẩn nhất Thế giớiSunday, November 18, 2012 7:18 PM

Hội tam điểm (FreeManson) hay còn gọi là hội kín Illuminati là 1 hội có từ xa xưa , ko ai biết chắc chắn nó bắt đầu từ đâu , theo tiếng Latin có nghĩa là những người được thần linh khai sáng. Illuminati có lẽ là hội kín bí mật nhất trong số các hội kín trên thế giới. . Hình như nó là 1 hội của các người thợ chuyên xây cất các thánh đường xa xưa vốn chứa nhiều điều bí ẩn . Các đoàn viên đều phải giữ bí mật nghề nghiệp nên dần dần trở thành 1 hội kín .

Các hội viên đều được tuyển chọn trong những phần tử trí thức và quyền quí . Mỗi hội viên khi gia nhập đều phải qua 1 nghi lễ rửa tội và nhận 1 con vật làm hộ mệnh . Mục tiêu của hội này là triệt hạ tất cả những tôn giáo , nhất là Thiên Chúa Giáo, liên kết mọi quốc gia dân tộc thành một đế chế toàn cầu.

Không dừng lại thời xa xưa đó, Illuminati ngày nay còn được xem là đã xâm nhập tận trong các trung tâm quyền lực ở Mỹ. Marcus Allen của tờ Nexus Magazine cho rằng toàn bộ hệ thống chính trị ở Hoa Kỳ và Anh là do... một nhóm trí thức ưu tú thuộc Illuminati kiểm soát.

Ở Mỹ, Illuminati được xem là có chân rết trong Hội đồng Ngoại giao, một hội đồng hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ (xem The Illuminati and the council on foreign relations, Myron Fagan), và một hội kín mang cái tên rất “hình sự” là Skull and Bones” (Sọ và xương người). Đề quyết này cũng tương tự như việc cho rằng ở Pháp hội Tam Điểm len lỏi tận trong các chính quyền. Dấu vết cụ thể nhất của Illuminati ở Mỹ chính là những dấu chỉ bí mật trên tờ giấy bạc 1 đôla Mỹ. Phía sau tờ giấy bạc này ta thấy bên trái có một kim tự tháp chưa xây xong, còn thiếu hòn đá chóp; trên có hình con mắt, con mắt thấy hết mọi sự. Phía dưới tháp có khẩu hiệu “Novus ordo seclorum” (có nghĩa là “trật tự mới toàn cầu”). Bên phải có con chim phượng hoàng, mang một tấm vải vuông trước bụng; trên đó thường có vẽ những biểu tượng bí ẩn. Nếu đúng là như thế, thế lực của Illuminati quả là đáng gờm khi khẩu hiệu và biểu hiệu của họ không hiểu vô tình hay cố ý mà được in trên giấy bạc 1 đôla.

Trong hơn 200 năm qua, hội kín đầy bí ẩn này đã chất chứa vô số giai thoại nổi tiếng .Mục đích tối hậu của hội kín này là lật đổ thế quyền và thần quyền khắp nơi, cải biến bản chất của con người và thống trị toàn thế giới, liên kết mọi quốc gia dân tộc thành một đế chế toàn cầu. Chính vì thế, Illuminati còn được dùng đồng nghĩa với “trật tự thế giới mới” (New World Order).

Thường thì Illuminati hoạt động trong bóng tối, bí mật kiểm soát các vấn đề của thế giới, trong hậu trường chính trị. Lực lượng của Illuminati bao gồm những trí thức có thế lực và những chính khách cấp tiến, trong đó có cả những văn tài thế giới như Goethe và Herder... Có nhiều ý kiến cho rằng thành viên của hội này cơ bản được lôi kéo từ hội Tam Điểm dù không có bằng cớ chứng minh cho liên hệ này.

Illuminati tỏa ra khắp các nước châu Âu dưới dạng nhóm bán công khai. Ở Anh có hội Fabian và hội Round Table; ở Mỹ có Hội đồng Ngoại giao. Illuminati còn được xem là có chân trong Câu lạc bộ Rome mà đằng sau các tổ chức này là một thành phần cốt yếu gồm các nhà băng quốc tế; đặc biệt là các tập đoàn tài chính Rothschild và Rockefeller.

Illuminati tồn tại dưới nhiều danh xưng, nhiều hình thức bí mật, bán bí mật, công khai, với nhiều cơ quan có “bảng hiệu” khác nhau. Một vài nguồn tin cho rằng Bavarian Illuminati vẫn tồn tại cho đến hôm nay, dù rất ít chứng cứ cho thấy hội kín này của Weishaupt tồn tại đến thế kỷ 19. Tuy nhiên, một vài hội nhóm đã dùng cái tên Illuminati để gọi cho hội nhóm mình như Grand Lodge Rockefeller của David Goldman (Mỹ), Orden Illuminati của Gabriel López de Rojas (Tây Ban Nha), và The Illuminati Order của Solomon Tulbure (Mỹ).

Tại Việt Nam Hội Illuminati du nhập từ thời Toàn quyền Pháp P.Pasquier (1937) và bành trướng tại miền Bắc vào thời Thống Chế Petáin . Đến thời Bảo Đại dưới chính phủ Trần Văn Hữu và Nguyễn Văn Tâm hội lại càng hoạt động mạnh và xâm nhập vào bộ máy chính quyền.Sự tột cùng của tội ácSunday, November 18, 2012 7:16 PMHủy hoại đạo đức của nhân dân,khiến cho dân chúng đấu tố,chém giết nhau trong cuộc cách mạng văn hóa, mổ cắp nội tạng học viên Pháp Luân Công, xúi giục diệt chủng ở Campuchia... Đó là những tội ác kinh hoàng của ĐCSTQ mà chúng ta khó có thể tưởng tượng nỗi. Bài viết sau đây vạch trần tội ác của chúng.

Văn hóa cổ truyền Trung Quốc vốn là kính trời đất, tin rằng thiện có thiện báo, ác có ác báo. Thế nhưng thời đại cách mạng văn hóa (1966 – 1976) chính quyền Trung Quốc đưa ra học thuyết “đấu trời đấu đất” khiến người ta không còn tin vào trời đất nữa, nó cũng phá bỏ văn hóa truyền thống dân tộc, tín ngưỡng của nhân dân, các tôn giáo đều bị đàn áp, chùa chiền tượng Phật bị phá bỏ. Nó không muốn nhân dân tôn thờ hình tượng của Phật hay Thần, mà chỉ treo ảnh của Mao Trạch Đông mà thôi.Về tại sao ĐCSTQ phá hoại văn hóa truyền thống, “triết học” của ĐCSTQ và văn hóa truyền thống chân chính của Trung Quốc là hoàn toàn tương phản. Văn hóa truyền thống giảng kính Trời kính Thần, giảng “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, giảng “dân là quý, xã tắc là thứ nhì”; thế nhưng ĐCSTQ không giảng thế, chỉ giảng “lợi ích của đảng”. “Thiên địa quân thần sư” cũng không thiết, chỉ có bạo quân của ĐCSTQ, những cái khác không cần, do đó những điều này đều bị ĐCSTQ đả đảo trong “đại cách mạng văn hóa”. Bản chất của tà giáo ĐCSTQ là phản truyền thống Trung Hoa, phản dân tộc Trung Hoa, phản nhân loại.

ĐCSTQ như thể có oán thù sâu nặng với văn hóa truyền thống Trung Hoa; những bức tượng phù điêu lưu ly Thiên Tôn trên đỉnh núi Vạn Thọ ở Di Hòa Viên tránh được một phen cướp bóc của liên quân tám nước xâm lược Bắc Kinh năm ấy, thế nhưng không thể thoát khỏi bàn tay quỷ dữ “phá tứ cựu” của ĐCSTQ, toàn bộ đều bị hồng vệ binh đập vỡ. Hồng vệ binh phá miếu thờ Thanh Hoa Viên, khiến cố cung trở thành “huyết lệ cung”; hồng vệ binh phá Định Lăng của triều Minh, đem ba bộ hài cốt của Hoàng đế Vạn Lịch và Hoàng hậu từ trong lăng tẩm giơ lên “đập nát thành tro”. Trong cuộc điều tra về bảo tồn văn vật năm 1958 tại Bắc Kinh, trong số 6.843 nơi có cổ tích văn vật thì 4.922 nơi bị phá sạch, 538.000 bộ văn vật các loại bị phá hủy,….Ảnh: Đề tự "Thanh Hoa Viên" trong miếu thờ Đại học Thanh Hoa bị đập nátẢnh: Cố cung bị hồng vệ binh sửa thành "huyết lệ cung"

Ở gần Thổ Lỗ Phiên, Tân Cương có một động Thiên Phật; các bức bích họa trong động đều là những tác phẩm nghệ thuật quý giá, cuối cùng bị phá hoại toàn bộ. Điện chính của Viêm Đế Lăng và các kiến trúc phụ thuộc gặp phải phá hoại nghiêm trọng, ngoại trừ lăng mộ thì tất cả đều biến thành bình địa. Mộ Khổng Tử bị san phẳng, bia lớn “Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Văn Tuyên Vương” bị hủy. Thân tượng Phật Thích Ca Mâu Ni trong đền Jokhang ở Tây Tạng bị hủy mất khuôn mặt; thánh địa Đạo giáo lớn nhất toàn quốc, nơi Lão Tử từng giảng kinh và gần 100 đạo quán ở xung quanh bị phá hủy….

Ảnh: "Biển đỏ" khủng bố trên quảng trường Thiên An Môn.ĐCS Trung không chấp nhận tín ngưỡng, quá khứ đã đàn áp thô bạo Phật Giáo, Cơ đốc giáo. Ngày nay tại Trung Quốc các học viên Pháp Luân Công tu luyện chiểu theo nguyên lý Chân Thiện Nhẫn, họ đều là những người tốt trong xã hội, thế nhưng chính vì thế mà họ bị đàn áp thật dã man tại Trung Quốc, thủ đoạn mà chúng sử dụng là độc ác nhất từ cổ chí kim, chúng tôi xin đưa ra 2 thủ đoạn độc ác nhất hiện nay:Mổ cắp nội tạng ngừơi đang sốngNăm 2000, La Cán mang theo mật lệnh của Giang Trạch Dân đến các nơi truyền mật lệnh trấn áp Pháp Luân Công: bôi nhọ thanh danh, vắt kiệt tài chính, hủy hoại thân thể, đánh chết tính là tự sát, không tìm thân nguyên, trực tiếp hỏa tảng. Chính bởi mật lệnh diệt chủng của Giang Trạch Dân mà tại Trung Quốc đại lục trào dâng một làn sóng tội ác bí mật giết hại các học viên Pháp Luân Công, thậm chí mổ lấy nội tạng sống từ họ. Một mặt thực hiện mật lệnh của Giang Trạch dân, một mặt lấy nội tạng sống mang lại lợi ích kinh tế lớn; được thúc đẩy bởi hai động cơ này, mổ lấy nội tạng sống từ học viên Pháp Luân Công đã trở thành tội ác ngất trời bao phủ toàn Trung Quốc đại lục.Tháng 3 năm 2006, hành vi tàn bạo mổ lấy nội tạng sống từ các học viên Pháp Luân Công của Chính quyền Trung Quốc đã bị phơi bày: khu Tô Gia Đồn thuộc thành phố Thẩm Dương, tỉnh Liêu Ninh là một trại tập trung bí mật của ĐCSTQ, giam giữ 6.000 học viên Pháp Luân Công kiên định tín ngưỡng “Chân-Thiện-Nhẫn”. Đồng thời tại nơi này tụ tập rất nhiều bác sĩ, với mục đích cưỡng bức mổ lấy nội tạng từ các học viên Pháp Luân Công vẫn còn sống để đem bán; thi thể các học viên Pháp Luân Công bị lấy mất nội tạng được bí mật hỏa thiêu tại chỗ. Hành vi bạo ngược khiến cả người và Thần phẫn nộ này được gọi là “tội ác chưa từng thấy trên Trái đất”, khiến toàn thế giới chấn động.Tô gia đồn

Một bản Giấy chứng tử, ảnh tư liệu của theepochtimesTrại tập trung Tô Gia Đồn bắt đầu đưa vào vận hành từ năm 2001; nó có một hệ thống mổ lấy nội tạng, bao gồm nơi giam giữ, nơi kiểm tra sức khỏe, và nơi phẫu thuật lấy nội tạng; nó có thể tiêu dùng nội tạng ngay tại bản địa hoặc vận chuyển đến nơi khác. Theo lời tiết lộ của nhân chứng, nơi giam giữ của trại tập trung Tô Gia Đồn ban đầu là công sự nằm dưới lòng đất, còn nơi kiểm tra sức khỏe và nơi phẫu thuật lấy nội tạng chính là Bệnh viện Tắc động mạch tại quận Tô Gia Đồn, tỉnh Liêu Ninh. Sau đó ĐCSTQ xây dựng thêm khu nhà giam quy mô lớn Khang Gia Sơn cho Tô Gia Đồn, khu nhà giam này chính là nơi giam giữ chính của trại tập trung.

Tranh sơn dầu: “Tội ác mổ cắp nội tạng”.Trại tập trung Tô Gia Đồn đã cung cấp cho các bệnh viện ghép tạng ở Thẩm Dương một nguồn tạng lớn dị thường; 10 bệnh viện có triển khai cấy ghép tạng ở Thẩm Dương đã trở thành nơi tiêu dùng bản địa cho số tạng bắt nguồn từ trại tập trung Tô Gia Đồn. Các đơn vị chủ yếu là Bệnh viện Đa khoa Quân khu Thẩm Dương, Bệnh viện Không quân 463, bệnh viện trực thuộc Đại học Y khoa Trung Quốc và bệnh viện trực thuộc Học viện Y học Thẩm Dương, v.v. Để tiêu dùng nội tạng ngay tại chỗ, Bệnh viện Không quân 463 đã không ngừng quảng cáo trên các phương tiện truyền thông, tới 3,4 lần trong một ngày về phẫu thuật ghép thận; người hiến tạng cho bệnh viện có thể được tìm thấy ngay trong ngày. Chỉ với 26 bác sĩ và y tá, Khoa Tiết niệu Bệnh viện 643 đã thực hiện hơn 1.000 ca ghép thận chỉ trong mấy năm, ở đằng sau không biết là máu của mấy trăm người. Bệnh viện trực thuộc Đại học Y khoa Trung Quốc đã thành lập Trung tâm Trợ giúp Mạng lưới Cấy ghép Quốc tế Trung Quốc (CITNAC), ra sức lôi kéo người ngoại quốc tới tiêu thụ nội tạng xuất phát từ trại tập trung Tô Gia Đồn, câu chào hàng đầu tiên trên trang mạng là: “Tại nơi đây, chúng tôi có thể nhanh chóng tìm được người hiến tạng; trước khi bệnh tình trở nên cam go, xin các bạn hãy liên hệ với chúng tôi.” Trong phần “những câu hỏi thường gặp”, người ta vô tình bắt gặp một đoạn vấn đáp như sau:Hỏi: Tụy được dùng cho cấy ghép có đến từ bệnh nhân “chết não” hay không?Đáp: Nội tạng của chúng tôi không đến từ bệnh nhân “chết não”, bởi vì nội tạng kiểu như vậy có thể ở tình trạng không tốt.Hỏi: Tiếp nhận tạng thận khi cấy ghép, liệu có thể bị nhiễm một số bệnh tật, chẳng hạn như AIDS hay viêm gan hay không?Đáp: Về việc này thì bạn khỏi phải lo. Cấy ghép tạng thận quan trọng nhất chính là vấn đề tổ chức phối hình. Trước khi tiến hành cấy ghép thận sống, trước tiên phải kiểm tra chức năng tạng thận và tế bào bạch cầu của người hiến để đảm bảo tính an toàn của tạng thận. Do đó có thể nói so với cấy ghép tạng thận thi thể ở Nhật Bản, chỗ chúng tôi càng thêm an toàn tin cậy.Ở đây họ đã ngang nhiên thừa nhận nguồn tạng của họ là đến từ đâu rồi, điều họ làm chính là “cấy ghép thận sống”.Hệ thống mổ lấy nội tạng ở trại tập trung Tô Gia Đồn còn thông qua vận chuyển hàng không để phân phối nội tạng đến các trung tâm cấy ghép trên toàn quốc. Địa điểm phẫu thuật lấy nội tạng nằm cách sân bay quốc tế Đào Tiên của Thẩm Dương gần 10 km, ngoài ra không quân cũng tham gia vào quá trình chuyên chở nội tạng sống.Trong những năm ĐCSTQ tà ác bức hại Pháp Luân Công, các trại tập trung mổ lấy nội tạng giống như Tô Gia Đồn không chỉ có một, mà có rất nhiều trại tập trung phân bố tại nhiều nơi ở Trung Quốc đại lục.Tội ác mổ cắp nội tạng của ĐCSTQ là một hành vi vô cùng tàn nhẫn; “Kẻ với gương mặt dính đầy máu” chính là những bác sĩ tử thần khoác áo blouse trắng của ĐCSTQ. Trước hết họ rạch một đường dài lên lồng ngực hoặc ổ bụng của nạn nhân, sau đó tách các tổ chức nhân thể xung quanh nội tạng; đối với học viên Pháp Luân Công, họ chỉ dùng rất ít hoặc thậm chí không dùng thuốc mê, sau đó bơm dịch làm lạnh để rửa nội tạng, các nội tạng sống được hạ nhiệt độ tới 0-4°C, sau đó bị lấy hẳn ra ngoài. Thời gian phẫu thuật khoảng 2 giờ đồng hồ; đây là một hành vi sát nhân phi thường tàn nhẫn. Trong hầu hết thời gian phẫu thuật, người bị mổ cắp nội tạng ở trong trạng thái hấp hối nhưng chưa chết và phải vùng vẫy trong tuyệt vọng.Biểu đồ: Xu thế biến hóa số ca ghép gan của Trung Quốc (Nguồn: Báo cáo năm 2006 về đăng ký ghép gan tại Trung Quốc).Từ biểu đồ trong «Báo cáo năm 2006 về đăng ký ghép gan tại Trung Quốc», chúng ta có thể thấy cơ bản xu thế biến hóa số ca ghép gan tại Trung Quốc trong những năm vừa qua. Số lượng ở đây chỉ là một phần trong tổng số ca ghép gan tại Trung Quốc đại lục, chủ yếu là đăng ký tại các bệnh viện dân sự Trung Quốc. Mặc dù tuyệt đại đa số các bệnh viện quân y Trung Quốc không hề đăng ký, nhưng chúng ta cũng có thể thấy được phần nào xu thế biến hóa: Sau khi ĐCSTQ tà ác bức hại Pháp Luân Công, số ca ghép gan tại Trung Quốc tăng lên nhanh chóng, số lượng mỗi năm gần như đều tăng lên theo cấp số nhân. Quá trình phát triển này là phù hợp với 5 mốc thời gian mà chúng ta đã phân tích trong dự ngôn, đặc biệt sau khi tội ác tại trại tập trung Tô Gia Đồn bị phanh phui, ĐCSTQ không thể không giải quyết vấn đề trại tập trung ở các nơi. Do đó sau tháng 7 năm 2006, nguồn cung nội tạng tại Trung Quốc đại lục giảm đi rõ rệt; năm 2006 số ca ghép gan đột nhiên giảm 30%, trái ngược với tăng trưởng cấp số nhân ở những năm trước. Điều ấy chứng tỏ: Biên độ tăng trưởng lớn của số ca ghép tạng tại Trung Quốc đại lục trong những năm trước là dựa trên mổ lấy nội tạng các học viên Pháp Luân Công. Năm 2004, Trung tâm Ghép tạng Đông phương tại Thiên Tân đã hoàn thành tổng cộng 507 ca ghép gan, vượt kỷ lục thế giới về số ca ghép gan của Trung tâm Cấy ghép thuộc Đại học Pittsburgh, Hoa Kỳ. Trong hai năm 2005 và 2006, số ca ghép gan ở đây đều vượt mức 600. Tuy nhiên nửa đầu năm 2007, họ chỉ hoàn thành vẻn vẹn 15 ca ghép gan, mà Trung tâm Ghép tạng Đông phương này 2 năm trước từng thực hiện tới 24 ca ghép gan và thận trong vòng 1 ngày. Từ đó có thể thấy, những “thành tích” trong quá khứ của họ là hoàn toàn dựa vào những trại tập trung mổ lấy nội tạng sống từ các học viên Pháp Luân Công, đến khi rất nhiều trại tập trung bị buộc phải đóng cửa thì nguồn cung nội tạng của họ cũng đã “cạn kiệt” rồi.Sau khi tội ác mổ cắp nội tạng học viên Pháp Luân Công của ĐCSTQ bị phanh phui, những trại tập trung ở các nơi được ĐCSTQ yêu cầu xử lý nốt số tù nhân trước tháng 7 năm 2006, trung tâm ghép tạng tại các nơi của ĐCSTQ tiến hành ghép tạng một cách điên cuồng. Trên thực tế, đây là phối hợp với các trại tập trung mổ lấy nội tạng để giết người diệt khẩu: Ngày 28 tháng 4 năm 2006, Bệnh viện Tương Nhã tại Hồ Nam đồng thời tiến thành 17 ca phẫu thuật ghép tạng trong 1 ngày. Cũng ngày hôm ấy, Bệnh viện Nhân dân tỉnh Hồ Nam quảng cáo rầm rộ trên các phương tiện truyền thông về cấy ghép miễn phí gan và thận cho 20 người, bệnh nhân có thể đăng ký với Khoa Gan mật qua điện thoại; để tiêu thụ nốt số tạng trong trại tập trung, họ đã không tiếc biếu miễn phí.Để kết thúc phần này, chúng tôi đưa ra đây lời thú nhận của bác sỹ quân đội nói trước vợ của mình: “Em không thể hiểu nổi nỗi dằn vặt mà anh phải chịu đựng. Những học viên Pháp luân công đó vẫn còn sống trên bàn mổ. Có lẽ phần nào anh sẽ thanh thản hơn nếu họ đã chết, nhưng đằng này họ là người sống.”Cưa đầu người lấy não tẩm bổCuối tháng 3 năm 2006, sau khi tội ác mổ cắp nội tạng học viên Pháp Luân Công của ĐCSTQ tà ác bị phanh phui, tại Đại Loan Khẩu thuộc trấn Thán Sơn Lĩnh, huyện tự trị dân tộc Tạng Thiên Chúc của tỉnh Cam Túc, người ta phát hiện 121 chiếc đầu lâu bị người ta giết hại. Bấy giờ cảnh sát địa phương ĐCSTQ nói dối rằng những chiếc đầu lâu này là đầu khỉ; Cục trưởng Phân cục Công an Kiểm lâm huyện Thiên Chúc Kỳ Thuận Quốc còn nói: “Những chiếc đầu khỉ này có thể là bị người ta ăn hết não rồi vứt đi”. Tuy nhiên bên trong khoang miệng những chiếc đầu lâu này có cả răng giả, nhìn thấy rất rõ ràng, có chiếc đầu lâu còn để râu; những chiếc đầu lâu này lưu lại y nguyên nét mặt bi thảm trước khi bị sát hại, khiến người ta không nỡ nhìn, phi thường khủng bố. Những chiếc đầu lâu này đều bị người ta cưa ngang từ phần lông mày, vết cắt rất phẳng. Từ bức ảnh hiện trường có thể thấy những chiếc đầu lâu này hiển nhiên là di cốt của những người bị “cưa đầu sống để ăn não”.

Ảnh: Đầu người bị cưa sống để ăn não (1)

Ảnh: Đầu người bị cưa sống để ăn não (2) Vì các bức ảnh đầu lâu này đã bị phơi bày trên các phương tiện truyền thông nên ĐCSTQ không thể không thừa nhận chúng là đầu người, cũng không dám nhắc lại phán đoán của cảnh sát hiện trường: “Những chiếc đầu khỉ này có thể là bị người ta ăn hết não rồi vứt đi”. Kỳ thực chỉ cần đổi “đầu khỉ” thành “đầu người” thì sự thật mà ĐCSTQ giấu kín như bưng sẽ rõ như ban ngày: Những người này là bị một đoàn thể tà ác áp dụng phương pháp tương tự với ăn “não khỉ”, dùng cưa điện cưa sống đầu họ, ăn hết não rồi vứt đi.Người ta tin rằng nạn nhân là những học viên Pháp Luân Công bị giam giữ bất hợp pháp tại các trại tập trung, và một phần là những người theo Cơ đốc giáoThực ra, việc ĐCSTQ dùng não người làm thuốc bổ đã có lịch sử lâu hơn. Trong thời kỳ Khmer đỏ ở Campuchia, ĐCSTQ đã lấy “phương pháp bảo vệ sức khỏe” này dạy cho Khmer đỏ, đồng thời đem khí cụ lấy não sống chuyên dụng cấp cho Khmer đỏ. ĐCSTQ chuyên môn phái các “bác sĩ” tới chỉ đạo Khmer đỏ cách sử dụng khí cụ lấy não, cũng như cách điều phối thuốc bổ từ não người. Điều này chứng minh rằng tự bản thân ĐCSTQ đã có “lịch sử lâu đời” “dày công tôi luyện” về phương diện này.Chúng ta biết rằng Lý Chí Tuy, bác sĩ riêng của Mao Trạch Đông, từng viết một cuốn sách vạch trần những vụ bê bối của ông ta: «Mao Trạch Đông và bác sĩ riêng Lý Chí Tuy», và tuyên bố sẽ viết một cuốn sách còn chấn động hơn nữa. Chưa đến 2 tuần sau, Lý Chí Tuy bị ĐCSTQ ám sát trong nhà vệ sinh tại tư gia. Hiển nhiên, các cán bộ ĐCSTQ không muốn việc họ dùng não người làm thuốc bổ bị tiết lộ.

Ảnh: Khí cụ lấy não mà ĐCSTQ cấp cho Khmer đỏ.

Ảnh: Học trò ĐCSTQ—Khmer đỏ lấy não tù nhân Campuchia (1)

Ảnh: Học trò ĐCSTQ—Khmer đỏ lấy não tù nhân Campuchia (2) Với những tội ác như thế , thử hỏi đó đã là tột cùng của tội ác hay chưaNói về luật pháp tại Trung Quốc, thực ra dưới luật pháp của chính quyền, thì chính là “thẩm phán bắt tội mưu sát để tiến hành mưu sát”. Vấn đề này được phân ra làm hai tình huống. Tình huống thứ nhất chính là dưới pháp luật của chính quyền, coi mạng người như cỏ rác là chuyện xảy ra như cơm bữa. Hệ thống công an-kiểm sát-tư pháp của chính quyền hoàn toàn không có khái niệm nhân quyền, đối với kẻ tình nghi thì tra tấn bức cung là một hiện tượng phổ biến. Do đó, trong khi điều tra phá án, ĐCSTQ thường dùng tra tấn bức cung để khiến những người vô tội phải thừa nhận tội giết người, sau đó kết án tử hình họ, Ví dụ năm 1994, tại thôn Khổng Trại ở ngoại ô thành phố Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc, có một người thôn nữ nọ bị kẻ gian giết hại; công an sau đó đã đưa thôn dân Nhiếp Thụ Bân ở gần đó tới xét hỏi. Sau khi chịu đựng đủ loại tra tấn và đánh đập để ép cung, Nhiếp Thụ Bân cuối cùng đã phải thừa nhận toàn bộ, kết quả bị tòa án kết án tử hình; án tử hình được thực thi vào năm 1995. 10 năm sau, hung thủ thực sự của vụ án này là Vương Thư Kim mới bị cảnh sát ở vùng khác bắt được; hắn đã thừa nhận toàn bộ hành vi sát nhân năm xưa, thế nhưng Nhiếp Thụ Bân vô tội đã sớm bị hệ thống tư pháp giết chết rồi. Cục Công an này thậm chí còn khoe khoang: “Các án mạng phàm trong phạm vi quản lý của chúng tôi thì đều bị phá hết, không có án tồn đọng bao giờ.” Lại như trong án mạng năm 2006 tại huyện Hưng Nhân, tỉnh Quý Châu, công an khẩn cấp điều tra phá án, bắt được một người hàng xóm là tù phạm mãn hạn mới được thả ra, đúng là “đối với hành vi phạm tội thì thú nhận hết”. Thế nhưng rất nhiều người cho rằng nghi phạm chính là vì bị công an đánh đập bức cung tàn nhẫn tới mức phải chịu làm “con dê thế mạng”, bởi vì chính công an đã thừa nhận vụ án này là “đầy rẫy thiếu sót”. Cách làm này của công an Trung Quốc kết quả là hết thuốc chữa.Một tình huống khác chính là, ĐCSTQ lợi dụng cái gọi là “pháp luật” để giết người trong thời kỳ đầu kiến lập chính quyền, tùy tiện bịa đặt tội danh “phản cách mạng” hoặc “gián điệp” là đã có thể kết án tử hình, chế tạo khủng bố đỏ. Ở một phương diện khác, mỗi khi ở Trung Quốc có kháng nghị dân chủ thị uy, ĐCSTQ lại phái đặc vụ tới chế tạo sự kiện bạo lực tại hiện trường, thậm chí không tiếc giết người, lấy cớ trấn áp “bạo loạn phản cách mạng” để thảm sát vô số quần chúng kháng nghị. Cuối cùng, ĐCSTQ tra tấn bức cung một số “hung thủ bạo loạn” và đem họ xử tử.Khi Pháp Luân Công hồng truyền tại Trung Quốc Đại Lục với nguyên lý Chân Thiện Nhẫn, đến năm 1999 đã có 100 triệu người Trung Quốc theo tập môn này, giúp nâng cao đạo đức trong nhân dân. Thế nhưng ĐCSTQ. Không những không thừa nhận “Chân-Thiện-Nhẫn”, ĐCSTQ còn tuyên truyền “giả, ác, bạo”, khiến đạo đức tại Trung Quốc trượt dốc không phanh.Một xã hội coi tiền bạc là tối thượng, mọi người đều chạy theo lợi, chỉ vì tiền mà bất chấp cả nhân cách và nhân tính; đây cũng chính là hiện tượng phổ biến tại Trung Quốc ngày nay. Như trước đã nói, dưới sự thống trị của tà giáo ĐCSTQ, danh xưng “Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” chính là đồ giả; hơn nữa những thứ giả khác còn lan tràn khắp nơi, nào là thương hiệu giả, thuốc lá giả, rượu giả, văn bằng giả, sữa giả, trứng gà cũng giả, thậm chí cả nghiên cứu khoa học cũng toàn là giả. Toàn bộ Trung Quốc biến thành một xã hội lừa đảo chạy theo tiền, chỉ để có tiền mà bất chấp lương tâm. Trước đây thuốc lá giả, rượu giả thì cũng chỉ là chất lượng sản phẩm không tốt, mạo nhận nhãn hiệu nổi tiếng, còn hiện tại thì nào là thuốc lá nhiễm độc, rượu nhiễm độc, thực phẩm nhiễm độc, thịt heo nhiễm thạch tín, sữa nhiễm melamine v.v. tất cả chỉ là vì cầu tài mà hại mệnh. Đạo đức xã hội xuống dốc chính là kết quả tất yếu của việc ĐCSTQ tà ác bức hại tín ngưỡng “Chân-Thiện-Nhẫn”.Sắc dục tràn lan tại Trung Quốc, chính là bắt nguồn từ trong một xã hội tuyên dương “giả, ác, bạo”. Ở bề ngoài, ĐCSTQ trấn áp hành vi mại dâm; loại “trấn áp” này chính là công an cảnh sát Trung Quốc “phạt tiền” để bỏ túi riêng. Trên thực tế, hệ thống công an-kiểm sát-tư pháp Trung Quốc vừa là kẻ bảo hộ, vừa là kẻ hướng lợi từ ngành công nghiệp mại dâm; cảnh sát-kỹ nữ-khách làng chơi đã trở thành một loại quan hệ cộng sinh. Cái gọi là “cải cách” của ĐCSTQ đã bỏ hàng trăm triệu công nhân Trung Quốc lại đằng sau; họ không dễ kiếm việc, cuộc sống gian nan, việc gì cũng có thể làm chỉ để kiếm sống qua ngày. Điều này đã gián tiếp tạo nên một đội quân “gái mại dâm” với hàng chục triệu người phân bố khắp toàn quốc, còn có người bị bán ra nước ngoài; tại Trung Quốc, đâu đâu cũng là cảnh tượng “kỹ nữ phồn vinh”. Thế nhưng ngành công nghiệp mại dâm tại Trung Quốc lại là một loại bạo lực phi nhân tính, ở đâu cũng có thể thấy; rất nhiều thiếu nữ vô tội bị bán làm kỹ nữ, thậm chí cả trẻ vị thành niên cũng không tha. Có người ước tính chỉ riêng tỉnh Quảng Đông đã có hàng vạn thiếu nữ bị ép làm gái mại dâm; chỉ để kiếm lời và hưởng lạc, rất nhiều người đã vứt bỏ nhân tính và đạo đức của chính mình.Ngọai tình trở nên phổ biến, những “hình mẫu” cán bộ ĐCSTQ rõ ràng là đã đổ thêm dầu vào lửa. Nguyên cựu Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân là một đại dâm tặc, rất nhiều tình nhân của ông ta như Hoàng Lệ Mãn, Tống Tổ Anh, v.v. nhờ cặp với ông ta mà trở nên phát tài; thế là sau đó, quan chức các cấp của ĐCSTQ cũng không chịu thua. Cục trưởng Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc Khâu Hiểu Hoa không chỉ dính líu đến trùng hôn, có con riêng, mà còn ngoại tình với 29 phụ nữ khác; Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Giang Tô Từ Kỳ Diệu còn phá vỡ kỷ lục, bao nuôi 140 tình nhân, trong đó có một đôi là mẹ con. Bí thư Thị ủy thành phố Thiên Môn, tỉnh Hồ Bắc Trương Nhị Giang có quan hệ bất chính với 107 phụ nữ; Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp Dệt tỉnh Hải Nam Lý Khánh Phố từng viết một cuốn nhật ký chơi gái dày 95 trang. Hiện tại, gần như quan tham Trung Quốc nào cũng đều cũng đều bao nuôi tình phụ, cuối cùng phát triển tới mức mà quan chức nào không có một, hai tình phụ thì bị các quan chức khác không coi ra gì. Chính “sự thối rữa” của các quan chức ĐCSTQ này đã kéo theo nền đạo đức toàn bộ xã hội băng hoạiÁnh Sáng / Tổng hợp Nguồn: tindachieu.com[Video] Bản chất tà giáo của đảng cộng sản Trung QuốcFriday, November 16, 2012 5:10 AMĐảng cộng sản Trung Quốc về cơ bản là một tà giáo làm hại nhân loại. Mặc dù đảng cộng sản Trung Quốc chưa bao giờ tự gọi mình là một tôn giáo nhưng nó có tất cả các đặc điểm của một tôn giáo. Khi mới bắt đầu thành lập, nó coi chủ nghĩa Mác-xít là chân lý tuyệt đối trên thế giới. Nó sùng bái và tôn thờ Mác như vị thánh tinh thần của mình. Nó hô hào nhân dân tham gia vào một cuộc đấu tranh suốt cuộc đời vì mục đích là xây dựng một "thiên đường cộng sản trên thế giới".

[Video] Lịch sử giết chóc của Đảng Cộng sản Trung QuốcThursday, November 15, 2012 3:52 PMLịch sử 60 năm của đảng cộng sản được viết bằng máu và những lời dối trá. Những câu chuyện đằng sau lịch sử đẫm máu này vừa cực kỳ bi đát vừa ít được biết đến. Dưới sự thống trị của đảng cộng sản Trung Quốc, khoảng 60 đến 80 triệu người dân Trung Quốc vô tội đã bị giết hại, để lại đằng sau những gia đình tan nát của họ.

Câu chuyện Xô Viết (Thuyết Minh - 8 tập)Sunday, November 18, 2012 7:19 PMBộ phim Câu chuyện Xô Viết nhấn mạnh đến những mối liên hệ mật thiết của chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa Phát xít trong lịch sử bằng những bằng chứng khó chối cãi được. Giới phê bình tán dương công lao của đạo diễn người Latvia Edvin Snore, người đã bỏ ra 10 năm để xây dựng lên Câu chuyện Xô Viết. Những nạn nhân và nhân chứng Xô Viết đã tích cực tham gia trong bộ phim này để nói lên sự thật, những sự thật khủng khiếp mà họ đã từng trải qua cũng như chứng kiến dưới chế độ cộng sản. Và những di chứng do nó gây ra vẫn còn nhức nhối, âm ỉ tới hiện tại.

Xem phần 1:

Phần 2:

Phần 3:

Phần 4:

Phần 5:

Phần 6:

Phần 7:

Phần 8:

Chủ nghĩa cộng sản đã giết hại hơn 100 triệu người trên thế giới nàySunday, November 18, 2012 7:19 PMNăm 2006, Hội đồng châu Âu công bố nghị quyết lên án chủ nghĩa cộng sản. Nghị quyết này xác định “chủ nghĩa cộng sản đã phạm nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân loại”.

Theo sử gia Pierre Rigolout làm việc ở Viện Xã hội Lịch sử Paris, Pháp quốc thì: “Marx chủ trương cần diệt chủng” và theo sử gia George Watson làm việc ở Viện Đại học Cambridge, Anh quốc thì: “Marx là cha đẻ của nạn diệt chủng chính trị hiện đại”. (RFA online ngày 14-5-2010)Do đó mà sau khi chủ nghĩa Mác-Lênin ngự trị trên quả đất này đến khi nó bị loài người tiến bộ loại bỏ thì nó đã giết hại trên 100 triệu người:Tổng thống Bush đã tham gia lễ khánh thành một Đài kỷ niệm nạn nhân Cộng sản khắp thế giới. Trong buổi lễ ngày hôm nay được tổ chức tại thủ đô Washington, tổng thống Bush nói rằng, thế giới sẽ không bao giờ biết hết được tên của tất cả những nạn nhân đã chết trong tay người Cộng sản.“Nhưng tổng thống nói rằng, mọi người có bổn phận tưởng nhớ họ và vinh danh kỷ niệm của hơn 100 triệu người gồm cả đàn ông, đàn bà và trẻ em đã chết dưới chế độ Cộng sản trên khắp thế giới”. (VOA online ngày 12-6-2007)

Chủ nghĩa Mác-Lênin bắt đầu thực hiện qua cuộc cách mạng của nước Nga năm 1917 theo ông Hồng Lĩnh kể:“Tháng Hai 1917 là tháng tập hợp tất cả điều kiện cho một cuộc nổi loạn quần chúng. Nga hoàng dùng quân đội đàn áp tạo ra một chuỗi rối loạn kéo dài cho tới tháng mười. Cung điện Mùa Đông bị tấn công vào đêm 24 rạng 25 tháng 10. Sau đó, Lénine chiến thắng vào 7 tháng 11, tuyên bố lập trật tự xã hội bằng tàn sát cũng như đày ải. Vô thần và duy vật bắt đầu gieo rắc đau khổ cho nhân loại kể từ ngày 7-11-1917 (lịch grégorien) hay 25-10-1917 (lịch julien) cho tới ngày tàn là ngày 25-12-1991, tiếp theo biến cố bức tường Bá Linh đổ vào đêm 9-11-1989”. (Đàn Chim Việt online ngày 15-9-2009)Thế chiến lần thứ 2 bắt đầu. Ngày 1 tháng 9 năm 1939 chiến hạm của Đức bắt đầu nã pháo vào Ba Lan rồi sau đó tới Hồng quân của Liên Xô, do vậy mà hai bên cùng thi nhau tàn sát dân địa phương. Lúc đầu Liên Xô trút hết tội diệt chủng cho quân Hitler, nhưng sau này với chứng cứ rành rành nên nước Nga không còn chạy chối được nữa.“Ngày 17-9-1939 Hồng quân Liên Xô cũng tràn vào nước Ba Lan từ phía Đông. Mười ngày sau, chính quyền Ba Lan sụp đổ và rút lực lượng còn lại chạy theo hướng Đông-Nam ra nước ngoài…“Sau đó, Liên Xô bắt chừng 1 triệu rưỡi người Ba Lan đi đày ở vùng Siberia và bắn chết 22 nghìn tù binh Ba Lan ở rừng Katyn, bất chấp Công ước quốc tế về chiến tranh. Khi vụ thảm sát bị phát hiện, Matxcơva đổ tội cho quân Đức. Mãi đến thời Gorbachev nước Nga mới nhận lỗi về vụ này.” (BBC online ngày 6-5-2005)Chính vị tổng thổng đương nhiệm nước của Nga Medvedev đã mạnh mẽ lên án cố lãnh tụ đảng CS Liên Xô Stalin như sau :“Hồi trung tuần tháng Tư, trong khi trả lời phỏng vấn của đài truyền hình Rusia Today, ông Medvedev đã nói với vai trò của Stalin trong việc giết hại gần 22.000 binh sĩ Ba Lan tại khu rừng Katyn. Không chỉ có binh lính Ba Lan mà cả người Ucraina, Belorusia và cả những người Nga chống đối cũng bị Stalin ra lệnh sát hại. Và tổng thống Medvedev đã gọi ông ta bằng một từ không thể chính xác hơn: “Tên giết người”. (Đàn Chim Việt online ngày 11-5-2010)“Thực tế này được Mikhail Gorbachev, cựu tổng thống Liên Xô, xác nhận: Stalin đã tắm máu! Bản thân tôi đã thấy những án tử hình đã do chính ông ta ký hàng loạt. Cùng với Molotov, Voroshilov, Kaganovich và Zhdanov. Họ là năm kẻ giết người năng nổ nhất. Molotov luôn thêm vào: sửa từ “10 năm” thành “tử hình”. Hàng loạt!”. (RFA online ngày 14-5-2010)Năm 2006, Hội đồng châu Âu công bố nghị quyết lên án chủ nghĩa cộng sản. Nghị quyết này xác định “chủ nghĩa cộng sản đã phạm nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân loại”.“Các tài liệu lưu trữ cho thấy, đã có hàng trăm ngàn người bị giết, hàng triệu người bị tước đoạt tài sản, ông Vladimir Bukovsky- một nhà văn Liên Xô, đồng thời là người chuyên nghiên cứu về tội ác của các chính quyền cộng sản, kể lại trong“Câu chuyện Sô Viết”: “…Rồi họ bắt đầu giết khoảng 10% dân số, họ chọn lựa rất kỹ lưỡng. Họ làm việc này không chỉ để tiêu diệt kẻ thù. Họ giết người để thiết lập lại cơ cấu xã hội. Một phương pháp xây dựng xã hội. Tất cả trí thức, những công nhân tốt nhất, các kỹ sư tốt nhất đều bị họ giết hết”. (RFA online ngày 14-5-2010)Phóng viên Trần Văn của đài RFA viết loạt bài “Vì sao chủ nghĩa cộng sản bị cáo buộc chống nhân loại”, trong phần 2 có đoạn:“Giới sử gia ước đoán, suốt 21 năm lãnh đạo Liên Xô, Stalin đã giết từ 20 triệu đến 40 triệu người…“Các sử gia ở Liên Xô, ở châu Âu xác định Stalin là thủ phạm chính của nạn đói kéo dài từ 1932-1933 khiến 7 triệu người Ukraina thiệt mạng…“Đạo diễn Edvins Snore đã tìm nhiều đoạn phim tài liệu, nhiều hình ảnh lưu trữ cho thấy, đàn ông, đàn bà, người gìa, trẻ em quắt queo, hình hài hoàn toàn biến dạng. Bảy triệu con người hoặc đã chết, hoặc đang thoi thóp vì đói và đã bị ném xuống những hố lớn rồi lấp đất như người ta vẫn chôn súc vật bị dịch”. (RFA online ngày 14-5-2010)Theo bài báo “Di họa cộng sản nhức nhối và cay đắng” của nhà báo Lê Diễn Đức thì:“Từ tháng 8-1937 đến tháng 10-1938, chỉ riêng trong nhà tù tại Ủy ban an ninh quốc gia, chế độ Stalin đã bắn bỏ 20.760 người, trong đó có khoảng 1.000 người lãnh đạo tôn giáo. Giáo chủ giáo phận St. Petersburg Serafin cũng bị giết vào thời gian này…“Phong trào này đã“phát hiện” đa số trong 1,7 triệu hồ sơ“những tên phản cách mạng” trong giai đoạn 1937-1938. Hơn 700 ngàn người bị giết. Theo Alexandr Solzhenitsyn, nhà văn đoạt giải thưởng Nobel văn học, có khoảng 60 triệu người đã bị giết trong chế độ Xô Viết trong giai đoạn từ 1917 đến 1956”. (BBC online ngày 12-8-2007)Chủ nghĩa Mác-Lê được Mao Trạch Đông triển khai một cách sắt máu hơn và tàn bạo hơn, ông Lý Nhuệ (Li Rui) người thư ký riêng nói về lãnh tụ họ Mao nầy như sau:“Chế độ độc tài của Mao còn kinh khủng hơn Stalin vì ông muốn kiểm soát não trạng của con người. Mao Trạch Đông vượt hơn mọi hoàng đế vì ông khiến người dân tuân lời cả trong suy nghĩ – không hoàng đế nào trên thế giới làm được như vậy. Theo Lý Nhuệ, Mao từng nói: “Ta là Tần Thuỷ Hoàng và Marx”…“Trong phong trào Đại Nhảy Vọt năm 1958, ước tính 30 triệu người đã chết đói”. (BBC online ngày 8-9-2006)Theo chuyện “Bí Mật Cuộc Đời Mao Trạch Đông” do bác sĩ Lý Chí Tuy, là bác sĩ chữa bệnh cho Mao viết và Trần Ngọc Dung dịch, đoạn viết về tội ác diệt chủng của Mao như sau:“Còn về chủ nghĩa phiêu lưu? Bước Nhảy Vọt của Mao đem đến nạn đói bi thảm nhất trong lịch sử Trung Hoa với con số lên đến bốn mươi ba triệu người chết. Cuộc Cách mạng Văn hóa thì đẩy đất nước vào tình trạng hỗn loạn, tiêu huỷ đời sống người dân, phá hại gia đình, làm vỡ tan tình bằng hữu và toàn bộ cơ cấu xã hội Trung Hoa”. (BMCĐMTĐ – trang 569)Phân tích tà thuyết Marxist của đảng Cộng sản Trung QuốcSunday, November 18, 2012 7:19 PM

Các-mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Xta-lin, và Mao Trạch Đông

Kể từ khi học thuyết cộng sản của Marx ra đời, nó đã ngay lập tức vấp phải sự phản đối từ những người thuộc dòng chủ lưu truyền thống trong xã hội. Marx sau đó đã buộc phải lưu vong. Ông ta đã bỏ chạy từ Đức qua Pháp. Sau khi bị chính phủ Pháp trục xuất, ông ta tới nước Bỉ và lại bị trục xuất lần nữa. Sau đó ông ta quay sang Anh. Bất cứ nơi nào ông ta đến, nổi loạn, bạo lực và cách mạng bèn theo sau. Ngọn thủy triều của chủ nghĩa cộng sản đã lan khắp Châu Âu tới mức mà từng khống chế một nửa Châu Âu. Bóng ma tà ác thậm chí còn âm thầm lan sang tận Trung Quốc, mảnh đất cổ xưa ở Đông phương với 5.000 năm văn hóa và lịch sử. Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã mang đến tai ương cho dân tộc Trung Hoa trong vài thập niên.

Ngày nay, làn sóng cộng sản tà ác đã thoái trào trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, ĐCSTQ vẫn bám vào học thuyết tà ác của Marx và tiếp tục lừa dối nhân dân. Một trong những lý thuyết của ông ta là cái gọi là “chủ nghĩa duy vật lịch sử.” Nó tuyên bố rằng vật chất quyết định ý thức con người, và động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của xã hội là đấu tranh giai cấp. Nó cũng tuyên bố rằng xã hội loài người đã tiến hóa từ chế độ chiếm hữu nô lệ tới phong kiến, chủ nghĩa tư bản, sau đó là chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Những lý thuyết này đã được chứng minh là sai lầm và bị đa số người dân trên thế giới chối bỏ. Nhưng ĐCSTQ vẫn giả vờ rằng đây là chân lý tối thượng và sử dụng nó để chống lại người dân Trung Quốc. Kết quả là, nhiều người Trung Quốc đã ý thức hay vô thức coi đây là chân lý và dùng nó để phán xét đúng – sai khi họ đối mặt với vấn đề nào đó. Quan niệm kiểu như vậy đã hằn sâu trong trí óc họ.

ĐCSTQ đã cố tình chia triết học ra làm hai loại, đó là chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật. Nó tùy tiện tuyên bố rằng chủ nghĩa duy tâm là sai còn chủ nghĩa duy vật là đúng, và những thứ như vậy đã được viết trong sách giáo khoa. Theo thuyết duy vật của Marx, nhân loại phải có một sinh hoạt vật chất, chẳng hạn như ăn và mặc trước khi họ có đời sống tinh thần, và do đó vật chất quyết định ý thức. Điều này đã mê hoặc người dân. Chẳng lẽ một người không thể có niềm tin của chính mình khi anh ta không có đủ thức ăn? Liệu con người phải có một đời sống vật chất giàu có trước khi họ theo đuổi một cảnh giới tư tưởng cao thượng?

Chúa Jesus nói:

“Con người sống không phải vì thức ăn. Con người sống vì lời nói phát ra từ Thần.”

Tuy nhiên, thuyết duy vật của Marx đã làm người ta tin vào một hình thức cực đoan của chủ nghĩa duy vật, dẫn dắt họ truy cầu lợi ích vật chất, từ đó hủy diệt nhân tâm, thiện niệm và chính niệm mà con người có được từ Thần. Nó đã biến người ta thành những cái xác biết đi mà không có một niềm tin nào. Marx phản đối tất cả các tôn giáo và nói rằng tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Một cuộc điều tra mới đây cho thấy 80% người dân trên thế giới tin vào một tôn giáo nào đó và 20% còn lại thì không. Đa phần những người trong 20% này hiện đang sống tại Trung Quốc. Đây là kết quả của hàng thập kỷ bị tẩy não bởi chủ nghĩa vô thần và đàn áp tôn giáo của ĐCSTQ. Một người nếu không có niềm tin nào thì rất dễ làm điều xấu, bởi vì anh ta không có cái cảm giác kính ngưỡng, không có ước thúc nội tâm và dám làm mọi thứ.

Tiếp theo, chúng ta hãy tìm hiểu xem ĐCSTQ phê phán những ai, những người được coi là “nhà triết học duy tâm”. Họ là Plato, Socrates, Lão Tử và lục tổ Huệ Năng của Thiền Tông,… Họ nằm trong số những nhân vật tinh anh nhất trong lịch sử nền văn minh nhân loại. Những điều họ để lại là kho tàng tinh thần quý giá của nhân loại. Tại sao họ lại bị đối xử như những nhân vật phản diện và “phong kiến” dưới thời thống trị của ĐCSTQ? Đó là vì ĐCSTQ có dã tâm. Để cưỡng chế một bộ các học thuyết cộng sản hoàn toàn đối nghịch với văn hóa truyền thống của nhân loại, đặc biệt tại Trung Quốc, nơi kế thừa 5.000 năm văn hóa thâm sâu, ĐCSTQ đã cố gắng phá hủy hoàn toàn tín ngưỡng truyền thống của xã hội Trung Quốc. Dưới góc độ người bình thường, những nhân vật tinh anh của văn hóa nhân loại này là các triết gia. Nhưng dưới cái nhìn của giới tu luyện, họ thực sự là những đạo nhân hay bậc đại đức. Mỗi lời mà họ nói ra đều là những triết lý thâm sâu. Lão Tử nói: “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật”, thực ra ông đang mô tả lý giải thâm thúy về vũ trụ. Nhưng ĐCSTQ lại nhạo báng và phê phán những lời này, và coi chúng là điển hình về sai lầm của “triết học duy tâm.”

Để phá hủy một cách có hệ thống văn hóa truyền thống của nhân loại cũng như đức tin vào Thần, Marx đã gắng sức cổ súy “thuyết tiến hóa” của Darwin và tuyên bố rằng con người tiến hóa từ khỉ vượn chứ không phải “được tạo ra bởi Thần” như các tôn giáo tin tưởng. Mục đích của ông ta là cắt đứt mối liên hệ giữa người và Thần, để từ đó trải đường cho chủ nghĩa vô thần.

Để cổ súy cho tà thuyết Marxist về đấu tranh giai cấp, ĐCSTQ đã thổi phồng vai trò của khởi nghĩa nông dân trong các sách giáo khoa lịch sử, rằng lịch sử Trung Quốc cổ đại chỉ là lịch sử của khởi nghĩa nông dân, như thể là tất cả Hoàng đế trong các triều đại khác nhau đều là “kẻ thù của nhân dân” và đàn áp bách tính. ĐCSTQ cũng lừa dối người dân Trung Quốc bằng cách tuyên bố rằng sự mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ, giữa nhà tư bản và công nhân là không thể hòa giải được. Để tìm kiếm bằng chứng ủng hộ học thuyết cách mạng bạo lực, nó đã dạy người dân Trung Quốc rằng đa số dân chúng sống trong xã hội phong kiến hay tư bản đều vô cùng khổ cực. Thực ra, mối quan hệ giữa nhân dân và người cai trị trong xã hội cổ đại là hài hòa hơn nhiều so với những gì xảy ra dưới thời thống trị của ĐCSTQ. Những bậc đế vương thời cổ đại cai trị anh minh hơn nhiều so với ĐCSTQ. Mặc dù vẫn có những cuộc khởi nghĩa nông dân hay chiến loạn, nhưng chúng không thường xuyên xảy ra như những gì ĐCSTQ nói, và hầu hết thời gian mảnh đất Trung Hoa tồn tại trong thái bình thịnh trị. Nếu không phải như vậy, làm sao Trung Quốc có thể phát triển để trở thành quốc gia thịnh vượng và giàu có nhất thời cổ đại, cả về mặt văn hóa và kinh tế? Trung Quốc đã thụt lùi rất nhiều dưới thời thống trị của ĐCSTQ. Nó có nguyên nhân trực tiếp từ những chiến dịch đấu tranh giai cấp bằng bạo lực liên miên, hết cuộc vận động chính trị này tới cuộc vận động chính trị khác, sự ngược đãi và tra tấn hàng triệu người trong vài thập niên (tất nhiên, cũng có những lý do lịch sử khác nữa). Vào thời cổ đại, khi thiên tai nhân họa xảy đến, để cầu tiêu tai giải nạn, các bậc đế vương được dạy là phải tự kiểm thảo lỗi lầm khi cai trị đất nước và tìm ra hành vi cư xử thất đức của mình. Thế còn ĐCSTQ, nó đã từng thừa nhận lỗi lầm nào với nhân dân chưa? Bất kể lỗi lầm mà nó tạo ra nghiêm trọng đến thế nào, nó luôn luôn tuyên bố rằng nó là “tuyệt đối đúng đắn”. Khi mà đại dịch SARS phát triển tràn lan, chẳng phải ĐCSTQ đã tuyên bố rằng bệnh dịch đã được khống chế dưới sự lãnh đạo của nó hay sao?

Hiện nay hầu hết người dân Trung Quốc, không kể nam hay nữ, già hay trẻ đều rất thuộc những bài viết của Marx hay Lenin. Đó là bởi vì những thứ này được dạy liên tục trong trường học và người ta buộc phải nhớ nó để không bị thi trượt môn chính trị. Thậm chí nếu một người không bao giờ đi học trong các trường tại Hoa Lục thì những gì mà người đó nghe, thấy và đọc trên truyền hình, phát thanh và báo chí cũng thường là những thứ này. Những điều như vậy còn kinh khủng hơn trong thời Cách mạng Văn hóa. Do đó, người dân tại Trung Quốc rất giỏi hô hào những khẩu hiệu to tát, dối trá và sáo rỗng. Những từ ngữ như vậy phát ra từ miệng của họ trước khi họ kịp nhận thức ra nó.

Bài viết này nhằm khuyến khích nhiều người hơn nữa vạch trần hoàn toàn bản chất tà ác của học thuyết Marxist, để từ đó giúp người Trung Quốc thoát ly khỏi ĐCSTQ càng sớm càng tốt.

Dịch từ: http://www.pureinsight.org/node/3513Tấm lòng của Eleanor Marx đối với Freddy, người con vô thừa nhận của Karl MarxSunday, November 18, 2012 7:20 PMTrong gia đình của Karl Marx, người đối xử với Freddy [tức là Frederick Demuth, đứa con trai vô thừa nhận của Karl Marx] với tấm lòng nhân hậu nhất chính là Jenny Julia Eleanor Marx (1855-1898), thứ nữ và là bí thư của Karl Marx.

ELEANOR MARX

Ngay sau khi Helen Demuth chết (1890), để lại cho đứa con trai của mình một món tiền vỏn vẹn £95 [đó là tất cả những đồng xu lẻ mà bà đã cóp nhặt được trong cả một đời làm đầy tớ cho gia đình Karl Marx], Eleanor viết thư gửi cho chị Jenny Laura Marx (1845–1911) để nói đến những điều sai lầm trong quá khứ và diễn tả một cảm tưởng tội lỗi. Trong thư có đoạn:

Freddy đã ứng xử một cách đáng kính phục về mọi phương diện, và sự khó chịu của Engels đối với Freddy thì vừa bất công vừa khó hiểu. Trong chúng ta không ai muốn đối diện với cái quá khứ của mình, bằng xương bằng thịt, em đoán thế. Em biết chính em luôn luôn gặp Freddy với một cảm giác tội lỗi và sai lầm. Ôi cuộc đời của người đàn ông ấy! Nghe ông ta kể lại mọi chuyện thì em cảm thấy cả một sự đau đớn và nhục nhã.

Sau đó, Eleanor cùng với Laura và người anh rể Charles Longuet đã có giúp đỡ tiền bạc cho Freddy. Năm 1892, Eleanor viết cho Laura một bức thư khác, có đoạn:

Có lẽ em quá "cảm tính" — nhưng em không thể ngăn được cảm nghĩ rằng Freddy đã chịu đựng sự bất công to lớn suốt cả đời ông ấy. Không phải là điều tuyệt diệu hay sao khi mình quay lại để nhìn mọi sự một cách thẳng thắn, bởi dường như chúng mình quá hiếm khi thực hành những điều tốt lành mà chúng mình rao giảng — cho những kẻ khác?Trước khi chết, Karl Marx có thuyết phục Engels giúp đỡ cho Freddy, nhưng khi Engels chết, trong di chúc đề ngày 29 tháng Bảy, 1893, và sau đó, trong phần bổ sung di chúc ngày 26 tháng Bảy, 1895, Engels để lại tài sản cho nhiều người, kể cả cho những đứa con của Jenny Marx và Charles Longuet (người Pháp), nhưng không hề để lại một xu cho Freddy. Chính Eleanor cùng với Laura và người anh rể Charles Longuet đã dàn xếp để chia lại một phần đất đai của Engels cho Freddy.Cuối năm 1897 cho đến trước khi tự tử vào năm 1898, Eleanor đã viết một loạt thư gửi chị Laura. Trong đó có những đoạn:

Em không nghĩ chị và em đã là những người quá độc ác — tuy nhiên, về chuyện của Freddy thân yêu, thì hình như chị em mình đã gánh chịu mọi hình phạt.Em nói với chị những điều mà giờ đây em không hề nói với bất kỳ ai khác. Đáng lẽ em đã nói với dì Nymmy [tức là Helen Demuth, mẹ của Freddy] thân yêu của em, nhưng vì em đã không nói, nên em chỉ còn chị để em nói.Là một người giàu tình cảm, Eleanor Marx, thứ nữ kiêm bí thư của Karl Marx, đã tự tử vì tình. Năm 1898, cô phát hiện tình nhân của cô, ông Edward Aveling, một kẻ nổi tiếng mèo mả gà đồng, đã lén lút làm đám cưới với Eva Frye, một nữ diễn viên trẻ. Cô tuyệt vọng. Edward Aveling đề nghị cả hai cùng tự tử, và chính ông cung cấp thuốc độc. Nhưng rốt cuộc ông không chịu tự tử, nên cô đành tự tử một mình vào ngày 31 tháng Ba năm ấy. Bốn tháng sau, Edward Aveling chết vì đau thận.

-------Tài liệu: Terrell Carver “Gresham’s Law in the World of Scholarship”, trên website http://marxmyths.org/terrell-carver/article.htm[tienve.org]Marx (chuyên ăn bám) + Engels (tư sản thứ thiệt)Sunday, November 18, 2012 7:20 PMChủ nghĩa cộng sản, trớ trêu thay, đã được sáng tạo bởi một người chuyên ăn bám và một người tư sản thứ thiệt. Karl Marx chính là một người chuyên ăn bám, và Friedrich Engels chính là một người tư sản thứ thiệt.

Engels và Marx

Engels và Marx

Karl Marx, một người chuyên ăn bámTừ khi còn trẻ, Karl Marx đã biểu lộ thái độ của một người chuyên ăn bám. Năm 1835, cha của ông trợ cấp cho ông theo học luật tại đại học Bonn và mong ông trở thành luật sư. Nhưng suốt một năm đầu tiên ở Bonn, Marx lại bỏ thì giờ ra để ăn nhậu, chơi bời, tán chuyện triết lý và làm những bài thơ mà chính ông sau này đã thú nhận là “bắt chước và tầm thường” (“imitative and mediocre”). Ông học hành rất ít, nhưng thường xuyên quậy phá và uống rượu. Ông đã bị bắt giam một ngày vì tội gây náo động; và trong một cuộc đánh lộn tay đôi, con mắt bên phải của ông bị thương vì ăn một cú đấm. Suốt một năm ở Bonn, ông vay mượn tiền bạc của nhiều người để tiêu xài phung phí và gây ra rất nhiều món nợ khiến cha của ông phải đứng ra trang trải cho ông, rồi lập tức mang ông ra khỏi Bonn, và gửi ông đến đại học Berlin.Ở Berlin, Marx bỏ hẳn ngành luật, chuyển sang học triết và đậu tiến sĩ, nhưng ông lại theo nghề viết báo. Nghề viết báo không đủ nuôi sống ông, nhưng ngay sau khi ra trường mới được 2 năm, ông lấy vợ và đẻ 7 đứa con liên tục (trong đó có 4 đứa chết yểu). Vì thế, ông và cả gia đình ông đã sống bám vào sự trợ cấp đều đặn của Engels. Ngoài món trợ cấp đều đặn ấy, Marx còn thẳng thừng xin xỏ tiền bạc của Engels và những người khác liên tục với một thái độ lợi dụng không biết xấu hổ. Không chỉ ăn bám vào tiền bạc của người khác, Karl Marx còn ăn bám cả sức lao động của người khác. Ông đã không hề trả một đồng lương cho bà Helen Demuth, người đã làm đầy tớ suốt đời cho gia đình ông và đã đẻ cho ông một đứa con trai mà ông không thừa nhận.Mỉa mai thay, khi Helen Demuth qua đời năm 1890, bà được chôn chung một nấm mộ với vợ chồng Karl Marx tại nghĩa trang Highgate ở London. Ở thế giới bên kia, bà sẽ được ông trả nợ, hay bà vẫn tiếp tục làm đầy tớ không lương và đẻ con vô thừa nhận?

Friedrich Engels, một người tư sản thứ thiệtFriedrich Engels (1820-1895) là con trai của một doanh nhân phát đạt. Thế nhưng, năm 1840, lúc ông được 20 tuổi, ông tuyên bố từ bỏ con đường doanh nghiệp, và trở thành một người thù ghét ý thức tư sản. Điều khôi hài nhất là, 10 năm sau đó, chính Engels lại quay về với cha của ông để... kiếm tiền, vì nghề viết lách không đủ để sống và nuôi ông bạn Karl Marx chuyên ăn bám.Năm 1864, sau khi cha của ông qua đời, ông kế thừa doanh nghiệp của cha, và bắt đầu có dư tiền để sống thoải mái và nuôi cả gia đình của Karl Marx. Ngày 1 tháng Bảy, 1869, Engels bán cổ phần kinh doanh của mình và thu được một tài sản kếch sù. Ông viết thư cho Karl Marx:

Hurrah! Today I finished with sweet commerce, and I am a free man! [A ha, sướng quá! Hôm nay tớ chấm dứt cái doanh nghiệp ngọt ngào, và tớ là một người tự do!]

Nên nhớ rằng Engels răn dạy giai cấp công nhân hãy tháo bỏ xiềng xích để được tự do, nhưng chính ông thì lại được tự do khi có rất nhiều tiền!Eleanor Marx, con gái của Karl Marx, chứng kiến sự khoái trá của Engels ngày hôm đó, đã kể lại như sau:

Tôi sẽ không bao giờ quên câu nói khải thắng 'Đây là lần cuối', mà ông reo lên trong lúc ông lê đôi ủng hai da trong buổi sáng cuối cùng ông đang trên đường đi đến công ty. Vài giờ sau, khi chúng tôi đứng nơi cửa để đợi ông về, chúng tôi thấy ông đi qua cánh đồng nhỏ trước nhà ông. Ông hớn hở vung gậy trong không khí và hát ca, và khuôn mặt nở rộ một nụ cười.

Tháng Chín, 1870, Engels dời lên sống ở London, gần bên nhà Karl Marx, và gặp Karl Marx hàng ngày. Ông có rất nhiều tiền, nên suốt 25 năm còn lại của đời ông, ông sống cực kỳ sung sướng, luôn thưởng thức các món ăn hảo hạng, uống rượu vang hảo hạng và giao du rất hào sảng.Trước khi ông chết, ông viết di chúc để lại tất cả tài sản và nhà đất cho các con và cháu của Karl Marx, nhưng không để lại một đồng xu nào cho Frederick Demuth (đứa con trai vô thừa nhận của Karl Marx).Phương diện tình ái của Engels cũng sặc mùi tư sản. Ông yêu hai chị em Mary Burns và Lydia Burns. Ông quan hệ ái tình với Mary, tậu cho Mary một ngôi nhà ở Manchester. Rồi khi ông lên London, ông sống chung với Lydia. Ông gọi Lydia là “my wife” (vợ của tôi), nhưng ông không bao giờ cưới Lydia.Là một người tư sản thứ thiệt nhưng lại đi rao giảng ý thức vô sản, Engels sống như một kẻ đạo đức giả. Trong cuốn The Origin of the Family, Private Property, and the State (1884), ông cho rằng hình thức hôn nhân một chồng một vợ (monogamous marriage) phát sinh từ nhu cầu của xã hội giai cấp (class society) trong đó người đàn ông làm chủ người đàn bà và làm chủ gia đình để bảo đảm tài sản của mình sẽ được kế thừa bởi con cái của mình. Ông rêu rao rằng trong một xã hội cộng sản, quan hệ giữa người và người sẽ thoát khỏi sự ràng buộc của tài sản. Thế nhưng, suốt hơn 30 năm, cuộc sống của cả gia đình Karl Marx rõ ràng bị ràng buộc bởi tài sản của Engels. Và khi Engels mất, không có vợ con, thì chính ông viết di chúc để bảo đảm rằng người nào trong đám con cháu của Karl Marx sẽ kế thừa những thứ gì trong tài sản của ông! [tienve.org]Tính cách của Karl MarxSunday, November 18, 2012 7:20 PMTình cờ tìm thấy một cuốn sách rất lý thú của Paul Johnson, cuốn Intellectuals (“Những nhà trí thức”) do Weidenfeld & Nicolson xuất bản năm 1988, tôi kinh ngạc khi đọc những mô tả về tính cách của Karl Marx. Xin được thuật lại ở đây vài nét để mời những ai mê Marx thưởng thức:

1. Marx, một kẻ ích kỷ, suốt đời chỉ biết lợi dụng người khácJohnston mô tả Marx là một kẻ có thói lợi dụng không biết xấu hổ (shameless exploitation) đối với “bất kỳ ai ở gần”, trước hết là lợi dụng ngay “những người thân trong gia đình của chính ông”. (trang 7)Khi còn là một sinh viên, Marx đã không ngừng đòi hỏi người cha ốm yếu và cần cù của ông phải cung cấp tiền bạc cho ông tiêu xài. Nếu cha của Marx không đáp ứng kịp những đòi hỏi ấy, thì Marx giận dữ gào thét vào mặt cha. Khi cha chết, Marx không hề xúc động, không hề đi dự đám tang, nhưng chỉ tìm đến mẹ để tiếp tục đòi tiền.Sau đó, Marx chuyển sang lợi dụng Engels. Johnston mô tả việc ấy như sau:

Engels là đối tượng mới của sự lợi dụng. Từ giữa những năm 1840, khi họ vừa quen biết nhau, cho đến khi Marx chết, Engels đã trở thành nguồn lợi tức chính cho gia đình của Marx. Có lẽ Engels đã đưa cho Marx hơn một nửa lợi tức mà ông kiếm được. . . Mối quan hệ giữa hai người gần như tan vỡ trong năm 1863, khi Engels cảm thấy thái độ xin xỏ vô tâm của Marx đã đi quá trớn. Engels giữ hai cái nhà ở Manchester, một cái để làm nơi giải trí cho các doanh nhân, một cái thì dành riêng cho cô tình nhân, Mary Burns. Khi cô ấy chết, Engels đau khổ sâu sắc. Ông cuồng nộ khi nhận từ Marx một bức thư vô cảm. . . Trong bức thư đó, Marx chỉ viết vài chữ nhắc sơ sài đến sự mất mát ấy của Engles, rồi lập tức chuyển ngay sang vấn đề quan trọng hơn, tức là đòi hỏi tiền bạc. Không có gì minh hoạ cái bản chất ích kỷ dị hợm của Mark rõ ràng hơn nữa. (trang 75)

2. Marx, một kẻ bóc lột, bạc bẽo, đạo đức giảMarx luôn mồm hô hào tranh đấu cho quyền lợi của người lao động, nhưng chính ông lại là một kẻ bóc lột ghê tởm. Ông đã không hề trả một xu cho Helen [hoặc Helene, Helena] Demuth — người đã làm đầy tớ suốt đời cho gia đình ông —, hơn nữa, ông còn lạm dụng tình dục Helen, làm cô ta có chửa, đẻ ra một đứa con trai nhưng không được lấy họ Marx. Và ông đối xử với đứa con trai ấy một cách tàn tệ. Johnston mô tả việc ấy như sau:

Trong tất cả những bài nghiên cứu của ông về những sự bất công của chế độ tư bản ở Anh quốc, Marx đã phát hiện rất nhiều trường hợp những người lao động bị trả lương thấp, nhưng ông chưa bao giờ phát hiện trường hợp một người lao động không hề được trả một đồng lương. Thế nhưng, người lao động ấy có thật, ở ngay trong nhà ông. Khi Marx với gia đình cùng tản bộ trong những ngày Chủ Nhật, với y phục tề chỉnh, thì ở đàng sau có một phụ nữ vóc người thấp nhỏ mang giỏ thức ăn và các vật dụng khác. Đó là Helen Demuth, mà mọi người trong nhà gọi là “Lenchen”. Sinh năm 1823, thuộc tầng lớp nông dân, từ năm lên 8 tuổi cô đã làm đầy tớ cho gia đình Wesphalen [tức là gia đình quyền quý bên vợ của Marx]. Cô được cho ăn mặc nhưng không được trả một đồng xu nào.Năm 1845, Nam Tước Phu Nhân [tức là mẹ vợ của Marx], cảm thấy buồn rầu và lo lắng cho ái nữ của mình vừa lấy chồng, đã sai cô đầy tớ Lenchen, lúc ấy 22 tuổi, theo hầu hạ cho Jenny Marx [tức là vợ của Marx] để giúp cho Jenny Marx khỏi cực nhọc. Thế rồi Lenchen ở lại làm đầy tớ trong gia đình Marx cho đến khi chết năm 1890. . .Lenchen là một người lao động cực kỳ chuyên cần, không chỉ nấu nướng và giặt giũ mà còn giúp tính toán việc chi tiêu trong nhà, một việc mà Jenny không có khả năng làm. Marx không bao giờ trả cho cô một xu.Năm 1849-1850 [lúc Lenchen được 26-27 tuổi] là giai đoạn đen tối nhất của gia đình Marx, khi Lenchen biến thành hầu thiếp của Marx và mang thai. . . Đẻ ra một đứa con trai. . .Marx lảng tránh trách nhiệm, ngay từ lúc đó và mãi mãi, và chối từ những lời đồn đoán rằng ông là cha của đứa bé. . . Đứa con trai ấy được đem gửi cho gia đình Lewis, một gia đình thuộc giai cấp lao động, nuôi giùm. Nhưng nó vẫn được đến nhà Marx để thăm mẹ nó. Tuy nhiên, nó bị cấm không được đi vào cửa trước, và bị bắt buộc chỉ gặp mẹ nó ở trong nhà bếp. . .Cuối cùng, Marx thuyết phục Engels giúp đỡ một cách riêng tư cho Freddy [tức là Frederick Demuth, tên đứa con rơi ấy], như một lối che đậy cho câu chuyện gia đình của Marx. (trang 79-80)

Helen Demuth (“Lenchen”) – Karl Marx – Jenny Marx

Frederick Demuth (1851-1929)đứa con vô thừa nhận của Karl Marx [Theo tienve.org]