“Trời như hớp phải hơi men ngan ngát,”

“Trời như hớp phải hơi men ngan ngát,”

 “Đắm muôn ngôi tinh lạc xuống mười phương.”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Ga 20: 19-23; 14: 15-16, 23b-26

Hơi men ngát, đất trời như hớp phải. Ngôi tinh lạc, vũ trụ tâm tình diễn tả ngày Chúa đến có Thánh Thần ngự trị như “tinh lạc xuống mười phương” ở trình thuật.

Trình thuật, thánh Gioan nay diễn tả việc Chúa đến như nguồn năng lực đổ xuống muôn dân, không giới hạn. Chúa đến, lẽ đáng ra, sự việc không mang tính bạo lực nhưng chỉ thực hiện lời Ngài hứa hẹn. Chúa đến, lẽ đáng ra, ta không còn chối từ một hồi hướng. Và Chúa đến, lẽ đáng ra: xã hội chẳng buộc mọi người phải khước từ tặng cho người nghèo/hèn những thứ họ cần thiết. Chúa đến, hy vọng mọi người sẽ nhận được lời Chúa nhắn hãy đến với nhau trong thuận hoà, bất kể mình là ai, tốt xấu thế nào.

Chúa đến vào ngày Hiện Xuống vẫn là thế, nhưng sao bạo lực vẫn cứ lan tràn khắp nơi? Sao mọi người vẫn ra chai đá chẳng hồi hướng, trở về. Xã hội, vẫn chèn  ép người lép vế, thiếu thốn. Và, lòng người vẫn rẽ chia về văn hoá lẫn đạo giáo. Và, người người vẫn không biết gì thông điệp Chúa gửi, vẫn kiếm tìm sự thật, lại không thấy. Có người cứ tự hỏi: Lễ Hiện Xuống có thực sự xảy ra không? Phải chăng đó chỉ gồm một mớ tư tưởng rất không thực? Hoặc, ngày ấy rồi cũng đến trong tương lai?

Thật ra thì, lễ Chúa Hiện Xuống xảy ra vào một ngày rất thực, nhưng vì ảnh hưởng của Ngày này nên sự việc bị đình hoãn, vẫn chưa tới. Và, ân sủng ngày Chúa đến sẽ mang lại an bình/tử tế, phúc hạnh và liêm chính, cảm thông lẫn hoá giải và mọi nét đẹp vẫn chưa đến với người người. Tại sao thế? Nếu Chúa tặng ban cho ta ngày Hiện Xuống như thế, thì sao kết quả của ngày này vẫn chưa hiện thực?

Sở dĩ có chuyện như thế, vì Chúa muốn để cho con người tự mình thực hiện những gì mình phải làm theo cung cách tư riêng, tốt đẹp. Ngài vẫn muốn con người vận dụng tài năng, trí tuệ để sáng tạo điều tốt đẹp trong mọi sự theo cung cách đa dạng, đặc trưng hầu làm đẹp thế giới gian trần. Có như thế ta mới đi đến hiệp nhất đích thực rất quý giá. Chúa gửi Thần Khí đến vào ngày Hiện Xuống là để đảm bảo rằng Ngài vẫn ưu tư chăm sóc thế giới của Ngài, ngang qua ta. Vì thế nên, Hiện Xuống là sự việc quan trọng bởi chính đó là cơ hội để mọi người biết mà thực hiện những điều Chúa trông ngóng.

Thêm nữa, Hiện Xuống còn là cơ hội Chúa tặng ban Thần Khí của Ngài cho thế gian. Thần Khí Ngài vẫn ở với ta và hiện diện cả nơi mù mờ, nghịch ngạo để ta sống sao cho mọi người thất rằng Thần Khí Chúa vẫn hiện hữu. Ngõ hầu giúp ta làm việc ấy, Thần Khí Chúa không ra mặt dính dự vào mọi sự, nhưng vẫn ẩn khuất ở đâu đó để ta kiếm tìm. Và, một khi khám phá ra Ngài, ta mới xác tín, thuyết phục và hoạt động cho mình và cho người. Và, dù không xem không thấy bằng mắt thịt, ta vẫn sống có Thần Khí như Kitô-Khác để chứng tỏ ta là con Chúa, có Thần Khí ngự trị trong ta, ở với ta.

Lấy âm nhạc làm ví dụ, ta cứ suy như thế này: hãy hình dung ra cảnh tượng nhạc sĩ Beethoven vừa viết xong giao-hưởng-khúc tuyệt-vời rồi trao cho nhạc-công thành Viênna thực hiện biểu diễn. Thật tuyệt! Nhưng, làm sao lại như thế được. Bởi, tuy Beethoven là nhạc sĩ viết nhạc, nhưng ông lại chẳng bao giờ chơi thử nhạc bản đó và cũng chẳng nghe được tiết điệu của nhạc bản do mình sáng tác, vì ông bị điếc nặng! Vậy thì, chuyện gì sẽ xảy đến nếu tác-giả các giao-hưởng-khúc nổi tiếng những muốn nhạc của mình đạt kết quả? Đương nhiên, các nhạc trưởng đều quyết tâm qui tụ nhạc-công giỏi lập thành dàn nhạc thật hay để chơi bản giao hưởng ấy cho tốt. Và nhạc bản ấy, sẽ không là giao-hưởng-khúc tuyệt-tác cho đến khi dàn nhạc trổi cung điệu thánh thót đến phút chót. Và khi ấy, mọi sự tốt đẹp như: nét nhẹ nhàng tinh tế, bình an và phúc hạnh, hoà giải và cảm thông cùng với nét diễm kiều của sự thật đà tỏ hiện.

Và khi Thần Khí Chúa Hiện Đến với con người, mọi sự thể cũng sẽ hệt như thế. Mọi sự kiều diễm/tốt đẹp sẽ được biểu tỏ vào ngày Chúa Đến, nhưng không là kết quả của Hiện Xuống, mà là hậu quả của những gì ta có thể làm để việc Chúa Đến được diễn ra. Tựa hồ như lĩnh vực âm nhạc, điều đó như thể một phần của Giao-hưởng-khúc nọ chưa được chơi cho dứt. Đây chỉ là một phần của giao-hưởng-khúc được trì hoãn, sẽ chơi sau. Vị nhạc trưởng, sẽ xin thính-giả đến thưởng lãm phần còn lại của nhạc bản, vào lần tới. Cũng thế, Lễ Hiện Xuống là để nhắc ta chuyện tương lai, ta dựng xây.   

Đôi lúc ta lại nghĩ mình hoạt động trong tình huống có khuôn thước lịch sử có giới hạn, nên cũng chỉ gật đầu vội vã thông qua với người Do-thái ở Cựu-ước, và tập trung nhiều vào Đức Kitô của thời ấu thơ, vội nhảy vào thời điểm Ngài công khai hoạt động, chú trọng nhiều đến sự chết và sống lại của Ngài, rồi thêm vào đó chuyện Ngài về Trời và rồi Ngài gửi Thần Khí đến với muôn người trong ngày Hiện Xuống, chỉ thế thôi. Còn lại một việc, là: ta chỉ tìm đường về quê trời, sau đoạn kết của câu chuyện đời.

Khuôn thước lịch-sử ra như thế, nếu là lịch-sử cứu độ, e rằng cũng bức bách, hạn hẹp. Thật sự, thì: ta cần khuôn thước lớn rộng, bao gộp nhiều công đoạn để thực thi việc Hiện Xuống của Thần Khí trong tất cả lịch sử hay tiểu sử của mỗi người. Không chỉ quan tâm mỗi khuôn thước thánh-sử của Giáo hội ta mà thôi, nhưng của mọi nhóm hội/đoàn thể trong đó người người vẫn cứ làm mọi việc nhưng không nói ra, nhưng để Chúa tỏ cho ta thấy Ngài muốn ta làm gì vào Lễ Hiện Xuống, rất Ngũ Tuần. Ta đang ở trong tình huống có Hiện Xuống thời hiện tại, có bối cảnh một đại lễ đang bày cho ta việc để làm.

Nhìn vào thánh Hội hôm nay, lúc này, ta thấy rằng Hội thánh đang bận bịu rất nhiều việc, nhưng đã chắc gì ta đang theo khuôn thước của Hiện Xuống, có Thần Khí chỉ dẫn. Hội thánh ta cũng đang hoạt động thật đấy, nhưng vẫn đẩy lùi thế giới ra bên ngoài. Hôm nay, mừng ngày Chúa Hiện Đến, có lẽ Hội thánh, tức toàn thể các kẻ tin chứ không chỉ hệ cấp giáo quyền mà thôi cũng nên nhớ, rằng: mọi sự ở trần gian là một phần của tổng thể có Chúa, có ta, có cả Thần Khí cùng hoạt động trong Chúa và với Chúa. Hội thánh hôm nay cũng cần một nền giáo dục mới cho công tác ấy. Hội thánh cần mời mọi người lâu nay bị bỏ rơi ở bờ rìa, hãy cùng tham gia công việc chung của mọi người. Công việc thánh-hoá toàn thể thánh hội, như đã từng xảy ra trong ngày Chúa Hiện Đến.

Làm được thế, ta sẽ có cuộc di dân khá lớn rộng không phải từ nước này qua nước nọ, mà từ vai trò này qua chức năng khác, trong tổng thể. Và hiện nay đang có dấu hiệu cho thấy sự việc như thế đang dần dà tỏ hiện một lễ Hiện Xuống và Hiện Đến với muôn người.

Nay, cũng là lúc ta nên để mọi căng thẳng, trầm thống đi chơi nơi khác. Hãy đặt để thành công/hy vọng, chứ không phải thất bại/tuyệt vọng vào mọi sự việc, trong tâm-can mọi người. Quan trọng là: mọi thành phần trong hội thánh cũng như ngoài đời, ta hãy cùng nhau thực hiện mọi sự tốt đẹp theo hướng tích cực. Đó mới là chuyện quan trọng. Và, quan trọng hơn cả, là: tất cả chúng ta sẽ tỏ cho mọi người biết, là: ta có thể và có quyết tâm làm được việc đó, theo cung cách rất Hiện Xuống. Và, đó chính là thành phẩm của Thần Khí Chúa đang ở trong ta và mọi người.

Trong tâm tình cảm nghiệm sự việc như thế, ta hãy cùng nhau hát lên lời thi ca mà ngâm rằng:

 

“Trời như hớp phải hơi men ngan ngát,

Đắm muôn ngôi, tinh lạc xuống mười phương.”

Cả trời bỗng tiêu diêu như báu vỡ:

Nên tiếng vang thầm, dội đến thâm tâm.”

(Hàn Mặc Tử - Nguồn Thơm)

 

            Thâm tâm ta, thâm tâm người nay thấm nhuần Thần Khí, như báu vỡ. Vỡ hơi men. Vỡ cõi lòng, hầu nhận thức rằng Chúa vẫn còn Hiện Xuống, như “tinh lạc đến với muôn người”, không chỉ mỗi ta, mà cả thánh Hội.              

    

            Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch

Chuyện Phiếm đọc trong tuần lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống Năm C 19-5-2013

 

“Tôi yêu em, buổi đầu tiên biết yêu”..
Tôi ngu ngơ, ôm ấp bao mộng mơ ...
Nhưng hôm nay, bao mộng mơ vỡ tan,
Con tim như phế tích hoang tàn”

(Lê Hựu Hà – Nỗi Đau Người Để Lại)

 

(Kn 3: 16-19)

            Có thể nói mà không sợ sai lầm, rằng: đâu chỉ mình tôi và bạn, ta có mỗi “Con tim như phế tích, hoang tàn”, mà hầu như tất cả mọi người xưa nay cũng đâu chắc gì mình “ôm ấp bao mộng mơ” theo kiểu nghệ sĩ từng làm thơ hoặc viết nhạc để hát ca rộn ràng lên như thế.

            Rộn ràng, với nghệ sĩ, không chỉ là “mộng vỡ tan”, nhưng còn là lời tả oán, khi ta hát:    

 

“Em ra đi, bỏ rơi tôi trong lạnh lùng,
Không phân vân..thương tiếc hay bâng khuâng ...
Lúc trái tim chưa học hết tiềng yêu ...
Lúc trái tim chưa thuộc hết vần yêu ...”

Cuộc đời đôi lúc trớ trêu, người không yêu sao ta vẫn yêu?
Tình cho đi không ai lấy lại bao giờ ...
Người vừa tặng ta khổ đau, tình tặng ta thêm bao nỗi sầu
Giờ còn chi khi ta mất trong đời nhau?...”
(Lê Hựu Hà – bđd)

 

            Thật ra thì, khổ đau, âu sầu hoặc nỗi chết, đâu phải do mọi người hoặc chính mình đem đến cho ai hết. Và câu hát “Giờ còn chi, khi ta mất trong đời nhau?” vẫn có thể là câu hỏi trong đời, rất muôn thuở. Bởi, chính tôi hay bạn, ta vẫn thường hỏi chỉ một câu như thế, nhưng nào nhận được lời đáp trả, ở đâu đó?

            Lại cũng có những câu hỏi không lời đáp giống như thế, dù bạn và tôi, ta có nói theo kiểu sẻ san trong thánh lễ tưởng niệm tại nhà thờ họ lẻ ở đất Úc tối hôm 26/4/13 như sau:

 

“Thật ra, đứng ở đây, tôi không có tư cách để giảng giải hoặc chia sẻ Lời Chúa như thày sáu hay thày cả, mà chỉ là “thày chạy” tức cũng là thày dòng vào một dạo, nhưng lại chạy khỏi Dòng tu, để đi vào giòng đời tìm kiếm Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu nơi lòng người, nhất là những người khác niềm tin với tôi. Minh định thế rồi, nay xin mạn phép được sẻ san đôi ba cảm nghiệm của người con Chúa từng đi vào đời sống với người đời, nhất là với người thân trong gia đình “nhà hiếu” không cùng niềm tin tôn giáo với mình.

 

Vì là cảm nghiệm, nên việc sẻ san đây chỉ mang tính tư riêng/cục bộ, thôi. Và cũng vì là cảm nghiệm về sống Đạo giữa đời với bà con thân thuộc không cùng Đạo Chúa, nên những điều nói ra hôm nay dứt khoát không mang tính thần học hoặc tu đức gì hết, chỉ là lời kể lể có chút “phiếm Đạo”, thế nên nếu có gì hơi quá hoặc tư riêng sao đó, xin quý vị niệm tình tha thứ.

 

            Cảm nghiệm của tôi, là một người rể trong hiếu-quyến hôm nay, là thế này:

Xưa nay, mỗi lần có bạn bè/người thân nào đó ra đi về miền vĩnh hằng có Chúa có cha, có cả Phật hiền, chừng như các cụ nhà ta đều bảo rằng: “Nghĩa tử là nghĩa tận”. Câu này, mang rất nhiều ý nghĩa, cũng còn tuỳ trường hợp và hoàn cảnh của mỗi người; nhưng với riêng tôi, thì “nghĩa tận” bao hàm 3 cung cách, đó là: tận trung, tận hiếu và tận tình.

 

Tận trung, thì đối với dân con sống dưới chế độ dân chủ, ở ngoài đời, là trung thành với vua, quan, lãnh chúa. Còn với Đạo Chúa của tôi, thì tận trung lại có nghĩa trung tín với Chúa với Cha trên trời, bằng cung cách tin, yêu & phục vụ người đồng loại của mình.

 

Tận hiếu, thì dĩ nhiên: người Việt mình ai cũng vì có cha/có mẹ để vinh danh và tỏ lòng hiếu thảo đến tận cùng đời mình. Nhưng với riêng tôi, trong trường hợp sống và hành xử hiếu đễ với thân sinh ra mình, thì quyết tâm của tôi, là: muốn trung thành và yêu thương vợ hiền, thì phải có hiếu với vợ (ấy chết) với bố mẹ vợ mình nữa! Nói thế, là bởi: ngay từ ngày “chạm ngõ” và cưới hỏi người mình yêu, tôi đã trải qua đợt sát hạch khá gay go. Thoạt vào lúc các cụ nhận thấy tôi tuổi Mùi và nhạc mẫu của tôi lại tuổi Mão, như khoa Tử vi Đẩu số có nói: đó là tam hợp. Nói nôm na, thì: vì thấy tôi tuổi con dê hiền lành chất phác, lại từ Dòng Chúa Cứu Thế chui ra, nên nhạc mẫu của tôi bèn tự nhủ: Ừ! Anh chàng này làm rể nhà mình được đấy. Tôi cho điểm A, tức: Đạt!

 

Còn, Tận Tình, tức: tận tâm đến cùng với cuộc tình, dù tình đó có là tình vợ/chồng, tình con rể với mẹ vợ, hoặc tình Chúa, tình người, hoặc tận tình với nguời của Chúa, và với nhau. Và, tối hôm nay, vì là buổi tâm tình đặc biệt về một trong “tứ thân phụ mẫu” cuối cùng của tôi, ở đây tôi xin nhấn mạnh đến chữ “tận tình” giữa tôi và mẹ vợ.

 

Hẳn bạn bè/người thân hoặc độc giả xa gần đọc và nghe “Chuyện Phiếm Đạo Đời” còn nhớ là cách đây khaỏng 6 năm, tôi đã khởi đầu sự nghiệp viết và lách bằng một bài “luận phiếm” có đầu đề lấy từ câu nói của cụ bà nhà tôi thường hay dùng, đó là câu: “Ấy Là Kể Chuyện!” Bài này kể về nhiều thứ, nhiều chuyện: chuyện yêu thương, tha thứ, chuyện tình người đối xử với nhau cho phải Đạo. Thế thì, trong bài có kể một chuyện khá ý nghĩa về các hành xử của con người, trong đời, chuyện tình người rất “tận tình”, đó là câu chuyện xảy ra hồi thế chiến thứ 2 gần chấm dứt khi đó có anh lính Đức nọ quyết gom dân làng ở Pháp còn sống ra bức tường làng để xử bắn, bất kể người đó có là đàn bà hay con trẻ. Kịp khi ấy, có thiếu niên nọ vội dùng dăm ba tiếng Đức học được ở trường, lại đã đứng ra xin anh đội trưởng cho mình chết thay người chị có con nhỏ, phải chăm sóc. Và cuối truyện lại có đoạn: chính tác giả có mặt trong truyện đã đứng ra xin bà con tha chết cho người đội trưởng này khi cuộc chiến đã kết thúc. Tóm tắt, thì: ý chính của câu chuyện phiếm đầu tay hôm ấy, chỉ muốn nói: trong chuỗi ngày dài sống Đạo giữa đời với người cùng Đạo, cùng chánh kiến hoặc khác đạo/khác cuộc tình, thì dù sao đi nữa, mình vẫn nên “tận tình”, tức đi đến cùng bằng tình thương yêu hết mọi người như yêu chính mình. Và, khi đã tỏ bày tình yêu thương đến tận cùng rồi, thì cũng đừng quên thứ tha cho cả người mình yêu hoặc những người chẳng yêu mình đi nữa.

 

Về triết lý sống Đạo làm người, tôi không chỉ học được từ trường Dòng hoặc từ Đạo Chúa mà thôi, nhưng còn từ cụ bà nhạc mẫu của tôi nữa. Bằng chứng là: trong chuỗi ngày trải dài đời mình, thì: sau khi mất đi người mẹ ruột vào năm 1978, tôi lại được nhạc mẫu từng kể cho nghe chuyện đời người và người đời, cụ còn kể cả về Đạo làm người và làm con Chúa/con Phật. Những chuyện mà cụ cứ gọi bằng ngôn từ rất nôm na, như: “Ấy Là Kể Chuyện!”, thôi.

 

Đó là chuyện đầu đời và suốt cuộc đời, tôi được hân hạnh gặp, sống và nghe cụ bà nhạc mẫu kể chuyện suốt. Còn, đây là chuyện cuối đời của cụ: chiều hôm trước ngày cụ ra đi, theo thường lệ, chúng tôi vào thăm cụ ở viện, tôi chào cụ nhưng không thấy cụ tỏ bày điều gì. Thấy lạ, nhà tôi sợ rằng cụ bị bệnh lẫn nặng không nhớ được cả chàng rể hiền mà cụ vẫn thương mến, bèn hỏi: “Bà biết ai không?”, thì được cụ trả lời: “Thì, Chú Tá chứ ai!”, chỉ mỗi thế. Vâng. Nhưng, trong cái “chỉ mỗi thế” này, tôi nghe như cụ muốn nói thêm điều gì đó với riêng tôi, mà vì hơi tàn sức cạn, cụ chỉ nói được có thế.

 

Sáng hôm sau, tức cách đây đúng một tuần lễ, gần 9 giờ sáng, tôi đang chuẩn bị cho một buổi sáng thường lệ trong tuần, thì nhận được cú điện thoại do nhà tôi gọi gấp bằng một giọng mếu máo,khóc oà: “Bố ơi! Bà mất rồi!…”

 

Được hung tín, tôi vội lấy taxi trực chỉ phòng bệnh của cụ thì được biết: cụ đã ra đi vế chốn “Tây Phương cực lạc” chừng mươi phút. Hiện diện bên cụ lúc đó, chỉ có mình tôi là người đầu tiên chạy đến khi cụ qui tiên thôi! Tôi nhìn thẳng vào diện mạo của cụ để xem cụ có tỏ bày điều gì qua sắc mặt hoặc cung cách nào đó hay không, mới nhận ra rằng: cụ đi rất an nhàn/thanh thản như thể muốn nói lời cuối với riêng tôi, rằng:”Rõ Thật Hết Truyện!” 

           

Vâng! “Rõ Thật Hết Truyện” để nói. Hết cả những chuyện để bảo: “Ấy là Kể Chuyện!.” Và, cuối cùng thì, sau cả 100 năm cuộc đời toàn những nghe và kể đủ thứ chuyện trên đời rồi, thì nay nhạc mẫu của tôi ra như muốn bảo với con cháu và bạn bè người thân trong/ngoài Đạo, rằng: “Rõ Thật Hết Chuyện!”. Hết, cả chuyện đời người và người đời. Nhưng vẫn còn một chuyện để ta có thể nhắn bảo với nhau, rằng: “Nghĩa tử là nghĩa tận!” Chữ tận ở đây, không là tận thế, hoặc tận cùng của sự sống, mà là tận tụy hết mình vì Tình thương yêu mọi người.

 

Vậy thì, tối nay, tôi lại xin phép được chuyển trao thông điệp của cụ bà nhạc mẫu của tôi và cũng là người Mẹ thứ hai của tôi, đến bạn bè/người thân xa gần, trong đó có những người mà nhạc mẫu của tôi cũng rất thân và gần cận, lời nhắn nhủ cuối hết, đó là: “Rõ thật hết chuyện!” Hết cả chuyện đời lẫn chuyện người. Nhưng vẫn còn đó chuyện tình người và tình Chúa/Phật trong tôi và trong quý vị mãi thiên thu, nhiều kiếp. Quý vị và tôi đang quyết tâm sống trọn kiếp người của dân con Đức Chúa hay Phật tử thần thành hay Đạo nào đó, thì cũng xin nhớ cho rằng: “Nghĩa tử là nghĩa tận”, có nghĩa là: tận trungtận hiếu và tận tình với hết mọi người, trong yêu thương. Thiện tai! Thiện tai! Thiện thiện tai! Amen” (Tâm tình san sẻ của người con rể mang tên Trần Ngọc Tá, trong thánh lễ tưởng niệm nhạc mẫu của anh tối 26/4/13 ở Úc.)

 

            San sẻ tâm tình về một mất mát, cũng hệt như sẻ san tình tự về cuộc đời có khổ đau, sầu buồn đầy những giòng nhạc vẫn được hát:

 

“Khi yêu em, tôi nguyện yêu suốt đời ...
Nhưng riêng em, yêu giông như trò chơi ...
Che cơn đau, tôi lặng thing mỉm cười ...
Mai xa nhau, tôi vẫn yêu người ...
Bao năm qua, xót xa đã quen nhiều rồi
Hôm nay yêu, mai nói câu chia phôi
Nước mắt kia vỗ về khuyên hãy cười ...
Để nỗi đau yên lòng thấy mình vui ...”

(Lê Hựu Hà – bđd)

 

            San sẻ về tình người đi Đạo, vào lúc có mất mát, khổ đau, sầu buồn lại sẽ là và vẫn là những sẻ và san của đấng bậc vị vọng chuyên trách việc Giải mã thắc mắc trong sống đời Đạo ở đời, rất như sau:

 

“Tôi có người bạn, nay được bác sĩ cho biết sẽ phải ngồi xe lăn đến mãn đời. Chị rất ít di chuyển đây đó vì thấy khó khăn trong vận động và cả đến chuyện nói năng nữa. Chị là người Công giáo, nhưng vẫn thấy khó chấp nhận tình trạng đau khổ đang xảy đến với mình. Theo cha, tôi phải giúp chị như thế nào? Làm gì để cho chị bớt khổ? Câu hỏi của một giáo dân ngoan đạo, nhưng không biết nhiều).

 

            Hỏi chuyện đạo với đấng bậc trong đạo, là chuyện thường ngày ở huyện, không gì khó. Nhưng, hỏi về chuyện chấp nhận khổ đau với tư cách là giáo dân buôn nhiều hơn vui, gửi đấng bậc vui nhiều hơn buồn, thật cũng khó. Tuy là thế, đấng bậc nhà Đạo mình chẳng quản ngại khó khăn để san sẻ tâm tình với tư cách là đấng bậc, thật cũng khó, như sau:

 

“Một trong những việc, mà theo tôi, cũng rất khó cho người cùng Đạo thấy được giá trị của những đớn đau sầu buồn, họ vẫn cam lòng chịu đựng. Tôi cảm tạ Chúa đã soi dọi ánh sáng của niềm tin người Công giáo lên thực tại của cuộc sống đã và vẫn ảnh hưởng lên mọi người trong chúng ta. Nói cho cùng, thì khổ đau và nỗi chết đều là hậu quả của tội nguyên tổ, chính vì thế nên, tất cả chúng ta đều trải nghiệm chuyện ấy cách này hay cách khác. Nhớ lại sự việc xảy đến theo sau hành động của người đầu tiên phạm tội, là: Ađam phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được của ăn, thức uống, và Evà, người bạn đồng hành với ông trong cuộc sống cũng phải cưu mang sanh con đẻ cái cách đau đớn và cả hai người đầu đời đều phải trải nghiệm nỗi chết, giống mọi người. (x. Khởi nguyên 3: 16-19)

 

Về đớn đau/sầu khổ, ta có thể chia ra làm hai thể loại chính, đó là: đau khổ thể xác và đau khổ đạo đức. Về thể xác, mọi người đều phải trải qua mọi nỗi đớn đau như: tật bệnh, đau nhức, mệt mỏi, tật nguyền, đói khát, trúng lạnh hoặc cảm sốt vv..Buồn đau đạo đức được cảm nghiệm trong trí óc và tâm can nhiều hơn, như: Nỗi đau mất mát người thân, khổ ải của ai đó rất gần gũi với mình, gia đình gẫy đổ, ưu tư tiền bạc, tài chánh xảy đến với kế hoạch mình dự tính, niểm cô đơn lẻ bóng, ân hận về những sai sót, bị người khác xử ép, vv..

 

Theo cung cách nào đó, thì khổ đau sầu buồn sẽ luôn là bí mật mà ta không thể hiểu tường tận, chí ít là khi nỗi khổ đau ấy về con trẻ hoặc người tốt lành, hạnh ngộ. Thế nhưng, một phần của lời đáp cho bí nhiệm này khác là do từ một người vô tội sống trên địa cầu thực tiễn, của Đấng cũng đã trải nghiệm những tháng ngày khổ đau đến cực độ, đó là Đức Giêsu Kitô. Vào lúc hấp hối trên thập giá, Đức Giêsu cũng đã kêu lên: “Lạy Thiên Chúa tôi! Lạy Thiên Chúa tôi! Vì sao Người lại bỏ tôi? (Mc 15: 34; Tv 22:1) lại cũng là lời lẽ nói lên tâm trạng hoang mang, bối rối của nhiều người suốt nhiều thời.

 

Tuy nhiên, ngang qua nỗi thống khổ, cái chết và Phục Sinh của Ngài, Đức Giêsu đã cứu độ trần gian khỏi tội nguyên tổ và tái tạo chúng ta đưa vào tình thân thương bằng hữu thánh thiêng và theo cách nào đó, Ngài đã cứu độ chính sự đau khổ, và Ngài đem lại cho khổ đau ấy một ý nghĩa và giá trị mới. Chính vì thế mà Ngài từng chúc phúc cho những người chịu đau khổ bằng quả quyết: “Phúc thay ai sầu khổ,
vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an…, Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,
vì Nước Trời là của họ.”(Mt 5: 5, 1012) Lại cũng có những phương cách trong đó khổ đau đích thực là ân huệ.

 

Trước hết, nó củng cố sức mạnh của cá tính. Chúng ta đều biết rằng những ai lướt thắng được nghịch cảnh trong đời rồi cứ thế tiếp tục hoàn tất nhiều sự việc tốt đẹp. Khổ đau họ gặp phải sẽ góp phần lớn lao để kiến tạo bản sắc tư riêng của mình.

 

Thứ đến, khổ đau giúp cho người đau khổ cảm thông với những ai đang sầu buồn, tang tóc, khổ sở. Chỉ khi nào ta có kinh qua và trải nghiệm những giai đoạn đớn đau trong đời mình, thì lúc đó ta mới cảm kích những gì người khác đã kinh qua, trải nghiệm và đem đến cho họ lòng xót thương đích thực, Cụm từ “Lòng xót thương”, cuối cùng ra, cũng mang ý nghĩa rất từng chữ, là: “cùng đau khổ với người ấy.”

 

Thứ ba nữa, là: việc chịu đựng khổ đau giúp ta chỉnh sửa mọi sơ hở, lỗi lầm, tội vạ. Chúng ta ai cũng phạm tội và trước khi đi vào chốn thiên cung, thiên quốc, ta đều phải chỉnh sửa sao đó các lỗi phạm như thế, ở đây lúc này hay ở chốn luyện hình. Đau khổ là một trong nhiều phương cách hay nhất đẻ ta làm việc ấy, miễn là ta chấp nhận nó từ Thiên Chúa, cách yêu thương. Làm như thế, sẽ rút ngắn thời gian ở chốn luyện hình hoặc vứt bỏ nó đi, có như thế thì đau khổ trở thành “Chốn luyện hình của ta nơi dương thế.”

 

Thứ tư nữa, là: đau khổ kết nối ta vào với Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chịu khổ vì ta trên thập giá, Ngài mời gọi ta làm như thế khi Ngài phán bảo: Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16: 24) Ngay như thánh Phaolô cũng từng xác chứng việc thánh-nhân kết nối với Chúa ngang qua đau khổ, khi thánh-nhân bảo: Tôi đã cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá.”(Gal 2; 19)

 

Thứ năm nữa, là: ta có thể dâng hiến mọi khổ đau cho người khác được hạnh phúc. Khi ta chấp nhận như thế để dâng hiến cho ai đó đã quay đầu lại niềm tin, hoặc cho người đau yếu, tật bệnh, cho cả những người đang tìm việc để kiếm sống, thì ta hẳn biết là lời cầu của ta sẽ được đoái nhậm bởi lẽ việc ấy được nối kết với sự hy sinh của ta trong đau khổ. Điều này đem lại cho chính khổ đau mục đích mới mẻ.                  

 

Cuối cùng, khổ đau đem lại lợi ích cho những ai đang trông nom chăm sóc người đau khổ. Sự tử tế, kiên nhẫn và lòng đại độ mà họ chứng tỏ cho người đó cũng được dâng lên chính Chúa, như thánh Mát-thêu từng viết: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25: 35-36). Bằng vào việc dâng lên Chúa tình thương yêu ngang qua người đang đau khổ, người chăm sóc sẽ lớn lên trong sự thánh-hoá, nên xứng đáng với phần thưởng vĩnh cửu.

 

Vì những lý do nêu trên, đau khổ như Chúa nói, thực sự là mối phúc thật. Đây chính là kho báu Chúa gửi, thế nên đừng phung phí nó.” (x. Lm John Flader, The Value of Suffering, The Catholic Weekly, 28/4/2013, tr. 10)       

 

San sẻ ý nghĩa khổ đau, sầu buồn từ đấng bậc mô phạm, đạo mạo rất kinh điển thì cũng đừng quên tâm tình sẻ san của các nghệ sĩ qua giòng nhạc vẫn được hát, những lời rằng:

 

“Cuộc đời đôi lúc trớ trêu, người không yêu sao ta vẫn yêu?
Tình cho đi không ai lấy lại bao giờ ...
Người vừa tặng ta khổ đau, tình tặng ta thêm bao nỗi sầu
Giờ còn chi khi ta mất trong đời nhau...
Cuộc đời đôi lúc trớ trêu, người không yêu sao ta vẫn yêu?
Tình cho đi không ai lấy lại bao giờ ...
Người vừa tặng ta khổ đau, tình tặng ta thêm bao nỗi sầu
Giờ còn chi khi ta mất trong đời nhau...”

(Lê Hựu Hà – bđd)

 

San sẻ ý nghĩa và tâm tình về ý nghĩa và sự thật của cuộc sống theo cung cách khác nhau giữa người nhà Đạo và nghệ sĩ ngoài đời, là như thế. Như thế là như thể lời sẻ và san của các nghệ sĩ và/hoặc cụ “đạo” từng hiểu biết hoặc trải nghiệm về khổ đau/sầu buồn trong đời, còn là thế. Thế nhưng, lại có vị cũng diễn tả thực chất cuộc đời cũng hơi “sầu buồn” nhưng theo cung cách rất khác, như sau:

 

“Tôi quen gia đình nhà White khi mới vào đại học. Họ hoàn toàn khác gia đình tôi, mặc dù vậy ở bên họ, lúc nào tôi cũng cảm thấy hết sức thoải mái. Jane White với tôi thoạt tiên là bạn trong trường, rồi kế tới cả gia đình đón tiếp tôi - một người ngoài - như thể đón một người em họ mới tìm ra.

 

Ở nhà tôi, mỗi khi có chuyện gì không hay xảy ra, luôn luôn nhất thiết là phải tìm cho ra thủ phạm để trách mắng.“Cái này là ai làm đây?”. Mẹ tôi sẽ hét lên như thế trong nhà bếp hỗn độn như bãi chiến trường. “Đó là tại con đó, Katharine!”. Cha tôi sẽ đay nghiến mỗi khi con mèo biến mất hoặc cái máy giặt không làm việc.

 

Ngay từ khi còn nhỏ, anh chị em chúng tôi vẫn hay nói với nhau là trong nhà mình còn một người nữa là ông Trách Mắng.

 

Mỗi tối ngồi vào bàn nhớ dọn cả cho ông ấy một phần ăn! Nhưng gia đình nhà White lại không bao giờ quan tâm đến ai vừa gây ra việc gì, họ chỉ thu dọn những mảnh vỡ và tiếp tục sống vui vẻ. Tôi chỉ thực sự hiểu hết nét đẹp của nếp sống này vào mùa hè mà Jane qua đời.

 

Ông bà White có sáu người con, ba trai, ba gái. Vào tháng bảy, ba người con gái nhà White và tôi quyết định làm một chuyến đi từFlorida đến New York. Hai cô lớn nhất, Sarah và Jane đều là sinh viên. Người nhỏ nhất, Amy, thì vừa mới có được bằng lái xe. Tự hào vì điều đó, cô rất mong đến chuyến đi để được thực tập.

 

Hai cô chị chia nhau lái suốt chặng đầu của chuyến đi, đến một khu thưa dân cư họ mới cho Amy lái. Thế rồi cô bé đột nhiên đi lạc vào đường ngược chiều, đã vậy mà Amy vẫn tiếp tục cho xe chạy băng băng không dừng lại. Một chiếc xe tải đã không kịp dừng lại nên lao thẳng vào xe chúng tôi. Jane chết ngay tại chỗ.

 

Khi ông bà White đến bệnh viện, họ thấy hai cô con gái còn sống sót của mình nằm chung một phòng. Đầu Sarah thì quấn băng còn chân Amy thì bó nạng. Hai ông bà ôm lấy chúng tôi khóc buồn vui lẫn lộn khi gặp lại các con. Họ lau nước mắt cho các con và thậm chí còn trêu Amy khi thấy cô bé học sử dụng nạng.

 

Với cả hai cô con gái, đặc biệt là với Amy, họ nói đi nói lại: “Bố mẹ mừng biết bao khi thấy con còn sống.”Tôi vô cùng kinh ngạc, không có kết tội, không có trách mắng ở đây.

 

Về sau, tôi hỏi ông bà sao lại không có một lời kết tội nào đối với việc Amy đã đi vào đường cấm. Bà White bảo: “Jane đã mất rồi và chúng tôi thương nhớ nó kinh khủng, nhưng nói hay làm gì thì có mang Jane về được đâu. Trong khi đó Amy còn cả một cuộc đời trước mặt. Làm sao nó có thể sống một cuộc đời hạnh phúc nếu cứ cảm thấy rằng chúng tôi oán trách nó vì nó đã gây ra cái chết của chị gái?”

 

Họ nói đúng, Amy tốt nghiệp đại học và lấy chồng vài năm sau đó. Cô trở thành mẹ của hai bé gái, và bé lớn nhất tên là Jane.

 

Tôi đã học được từ gia đình White một điều thực sự quan trọng trong cuộc sống: Trách mắng quả thật không cần thiết, đôi khi đó còn là một việc hoàn toàn vô ích.” (Không rõ tác giả)

    

Cuối cùng thì, có diễn giải, cảm kích hoặc sẻ san tâm tình về cuộc sống khá “sầu buồn” hay không, cuộc đời người vẫn là thế. Là thế, tức là nó vẫn diễn tiến đúng chức năng thành phần của chính nó. Ngõ hầu đối đầu với nó theo cung cách rất đúng cách, chi bằng ta cứ trở về với Lời dạy của Bậc thánh hiền từng căn dặn, rằng:

 

“Hỡi anh em là những kẻ được Chúa yêu mến,

chúng tôi phải luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa về anh em,

vì Thiên Chúa đã chọn anh em ngay từ lúc khởi đầu,

để cứu độ anh em nhờ Thần Khí thánh hoá và nhờ lòng tin vào chân lý.

Chính vì thế mà Người đã dùng Tin Mừng chúng tôi loan báo mà kêu gọi anh em,

để anh em được hưởng vinh quang của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô.

Vậy, thưa anh em, anh em hãy đứng vững

và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho anh em bằng lời nói hay bằng thư từ.

Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta,

Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta,

niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp,

xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh,

để làm và nói tất cả những gì tốt lành.”

(2Thes 2:13-17)

 

                Đàng rằng, đoạn trích ở trên không có ý ám chỉ rằng: thánh Phaolô đề cập đến tính thiết yếu và “phúc hạnh” của khổ đau/sầu buồn nơi đời người. Nhưng, thánh-nhân cũng như đấng bậc hiền lành sống ở đời, cũng có những nhận định sâu sắc và thực tiễn để giúp mình/giúp người sống trọn vẹn kiếp người. Kiếp sống, của những người vui hưởng trọn vẹn đạo làm người. Đạo trong đời.

 

            Trần Ngọc Mười Hai

            Vẫn luôn tự nhủ

            cuộc đời con người có những điều

            chính mình vẫn chưa hiểu hết

            và sống trọn, sống cho hết

                đạo làm người, rất “nghĩa” tận.