Trận Chiến Từ Đàng Sau

Nhiều người đã ngạc nhiên và đặt câu hỏi: Tại sao hai tổng thống của hai cường quốc Tây phương lớn là Mỹ và Pháp lại quan tâm đến những người đồng tính và đưa họ lên hàng đầu trong chính sách của hai nước này? Để giải quyết một vấn nạn xã hội đang nóng bỏng? Để kiếm thêm phiếu trong những kỳ bầu cử sắp đến?

Không ai tin rằng đó là những mục tiêu mà hai đương kim tổng thống Mỹ và Pháp đang nhắm đến vì vấn đề người đồng tính đã có từ lâu rồi và không gây biến cố nào nghiêm trọng. Tỷ lệ của người đồng tính lại quá nhỏ, không gây ảnh hưởng gì đến các cuộc bầu cử. Vậy tại sao nó được đưa lên hàng đầu mặc dầu có nhiều tranh luận?

Một số tài liệu nghiên cứu nói rằng vấn đề người đồng tính nắm trong chủ trương thiềt lập "một trận tự mới" (new order) của nhóm siêu quyền lực (superpower) đang lãnh đạo thế giới. Trong khi Cộng Sản chủ trương dùng bạo lực cách mạng (revolutionary violence) để thực hiện một thế giới bình đảng không giai cấp, nhóm siêu quyền lực chủ trương khi dùng bạo lực khi dùng diễn biến hòa bình (peaceful evolution) để tạo dựng một trận tự mới mà họ cho rằng tự do hơn, tốt đẹp hơn.

Giấc mơ của Cộng Sản đã thất bại, trong khi nhóm siêu quyền lực tiếp tục tiến tới những mục tiêu của họ. Hợp thức hóa đồng tính là một trong những biện pháp tiến tới phá vỡ dần một trật tự cũ đã tồn tại từ khi có loài người, đó chế độ hôn nhân truyền thống. Đây là một trận chiến từ đàng sau. Nhưng tổ chức siêu quyền lực là tổ chức nào?

MỘT TRẬT TỰ MỚI CỦA THẾ GIỚI

Nhìn vào đồng dollar của Mỹ, chúng ta thấy phía bên trái là một vòng tròn ở giữa có hình kinh tự tháp, trên đầu kinh tự tháp là một con mắt với hai chữ Latin trên đầu là“ANNUIT COEPTIS” có nghĩa là “Năm Mới đã Bắt Đầu”. Ở dưới kinh tự tháp là một băng hình bán nguyệt có ghi dòng chữ bằng tiếng Latin “NOVUS ORDO SECLORUM”, có nghĩa là “Một Trật Tự Mới của Thế Giới”. Ở dưới nữa là ba chữ tiếng Anh: “THE GREAT SEAL” có nghĩa là “Đại Ấn Tín”, tức ấn tín của triều đại chúng ta. Ở giữa đồng tiền có 4 chữ Latin: “IN GOD WE TRUST” có nghĩa là "Trong Thượng Đế Chúng Tôi Tin Tưởng". Phía bên phải là một một con ó chân kẹp một nhành olive 13 lá biểu tượng cho 13 tiểu bang đầu tiên của Hoa Kỳ.

Trong tác phẩm “The Power of Myth” Joseph Campbell nói đó là những biểu tượng của nhóm Tam Điểm, một tổ chức siêu quyền lực của thế giới. The Power of Myth là một cuốn tài liệu gồm 6 phần được đài truyền hình PBS phổ biến năm 1988, ghi lại cuộc nói chuyện giữa nhà huyền thoại học Joseph Campbell (1904 – 1987) và ký giả Bill Moyer. Trong cuộc nói chuyên đó Joseph Campbell đã giải thích cho chúng ta có một khái niệm  về các biểu tượng, mục tiêu, tổ chức và hoạt động của nhóm Tam Điểm. Ba chữ “NOVUS ORDO SECLORUM” (Một trật tự mới của thế giới) ghi trên đồng dollar là tuyên ngôn của nhóm này.

1.- Tam Điểm là tổ chức nào?

Hiện nay có không dưới 50.000 tài liệu nói về tổ chức Tam Điểm, nhưng khó có thể xác định một cách chính xác lịch sử, cơ cấu tổ chức và hoạt động của nhóm này vì đây là một tổ chức bí mật, đứng đàng sau hậu trường để điều khiến nhiều biến cố trên thế giới.

Thuật ngữ Tam Điểm được dịch từ tiếng Anh là “Freemasonry” và tiếng Pháp là“Franc-maçonnerie”, có nghĩa là “Nền tảng tự do”. Sở dĩ người Việt dịch là Tam Điểm bởi vì người ta tìm thấy trong các thư từ của những người thuộc tổ chức Tam Điểm viết cho nhau thường gọi nhau bằng “Sư huynh” (Frère) hay “Sư phụ” (Maitre) viết tắt là F hay M với ba dấu chấm làm thành hình tam giác đều, biểu tượng của tổ chức mà chúng ta thấy trên đồng dollar của Mỹ.

2.- Tổ chức của Tam Điểm

Về tổ chức, đơn vị cơ sở của Tam Điểm hiện nay được gọi là “Private Lodge” hay “Constituent Lodge” (hội quán chi nhánh), còn ban lãnh đạo tại mỗi quốc gia hay tiểu bang là “Grand Lodge” do một “Masonic High Council” (Hội Đồng Cấp Cao) lãnh đạo. Cơ quan lãnh đạo trên toàn thế giới được gọi là “Masonic High Council the Mother High Council of the World”. Chúng ta chỉ biết địa chỉ văn phòng của các tổ chức cơ sở, còn từ cấp tiểu bang hay quốc gia trở lên đều được giữ kín.

Một tài liệu được công bố năm 1992 cho biết số hội viên của Tam Điểm ở Mỹ là 5 triệu, Anh 7 triệu, Úc 7 triệu. v.v. Không ai có thể biết số hội viên của Tam Điểm trên thế giới hiện nay.

Người ta nói nhiều nhân vật lãnh đạo thế giới là hội viên của hội Tam Điểm, chẳng hạn như các tổng thống Washington, Thomas Jefferson, Grant, Abraham Lincoln, Franklin Roosevelt, Trumann, Lyndon B. Johnson… của Mỹ; thủ tướng Winston Churchill của Anh; Paul Doumer, Mendès France, François Mitterrand của Pháp, v.v. Nhiều người tin rằng hai tổng thống của Mỹ và Pháp hiện nay là Barack Obama và Francois Hollande đều là hội viên của Tam Điểm.

3.- Tam Điểm và Một Trật Tự Mới

Thuật ngữ “Môt Trật Tự Mới” của Tam Điểm bao gồm nhiều lãnh vực, từ chính trị, kinh tế, quân sự đến văn hóa, xã hội. Tam Điểm cho rằng những trật tự hiện có trong các tôn giáo và văn hóa cổ truyền không còn thích hợp với thời đại mới nữa.

Chiến thắng đầu tiên của Tam Điểm là chấm dứt chế độ quân chủ ở Tây phương và tách rời giáo quyền ra khỏi thế quyền, đưa tới cuộc cách mạng Pháp 1789 và các cuộc cách mạng tiếp theo.

Lúc đầu giữa Giáo Hội La Mã và Tam Điểm có một sự đối kháng rất quyết liệt, nhưng sự đối kháng đã giảm dần khi cả hai nhận ra rằng còn những đối kháng khác quan trọng hơn như Đức Quốc Xã và Cộng Sản chẳng hạn. Cuốc chiến giữa Tam Điểm với Đức Quốc Xã và Cộng Sản là cuộc chiến một mất một còn. Cả Đức Quốc Xã lẫn Cộng Sản đã sụp đổ.

Kế hoạch toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện nay là một trong những trật tự mới do Tam Điểm đề xướng và đang cố gắng thực hiện nhưng khó thành công. Sự vùng dậy của khối Hồi Giáo đã làm nhiều kế hoạch của Tam Điểm phải ngừng lại. Chiến thuật hiện nay của Tam Điểm là tiêu diệt các lãnh tụ Hồi Giáo có chủ trương hình thành một khối Hồi Giáo thống nhất và phân hóa khối Hồi Giáo ra thành nhiều mãnh để dễ chi phối.

Một vấn đế quan trọng khác đã được Tam Điểm quan tâm là phá vỡ nền tảng gia đình truyền thống đã có từ lâu trong Khổng Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo và các nền văn hóa khác. Tam Điểm đã đi từ giải phóng tình dục đến giải phóng con cái ra khỏi guồng máy gia đình. Tục giao “Trẻ nhờ cha già cậy con” áp dụng ở Trung Hoa và Việt Nam từ xưa, nay được đổi thành “Trẻ nhờ welfare già cậy nursing home”! Đồng tính được nhận ra là một công cụ tốt có thể làm lung lay nền tảng gia đình truyền thống.

THỰC TRẠNG CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH

1.- Một vài diễn biến lịch sử

Trước đây, hai người cùng giới yêu nhau và làm tình với nhau được gọi là tình dục đồng giới tính (homosexual). Ngày nay phạm vi của đồng tính được mở rộng, bao gồm cả những người đồng tính nam nữ, song tính và chuyển giới (lesbian, gay, bisexual, transgender được viết tắt là LGBT), Trong bài này, chúng tôi dùng chữ đồng tính để chỉ tất cả những người thuộc các loại nói trên.

Từ xưa, đồng tính bị coi là một thứ bệnh lý hay là một hiện tượng luyến ái “không bình thường”, “không tự nhiên" hoặc "lệch lạc". Quan niệm này thường đưa tới sự kỳ thị hay ngăn cấm các hiện tượng  đồng tính.

Dưới thời Đức Quốc Xã, Hitler ra lệnh loại trừ những người đồng tính vốn bị coi như là những cặn bã của xã hội. Tổ chức Gestapo (Mật vụ của Đức) lập danh sách những người đồng tính và đưa họ vào các trại tập trung. Từ 1933 đến 1945, có khoảng 100.000 nam đồng tính bị bắt giam. Trong các trại tập trung, những người đồng tính bị bắt mang một cái băng màu hồng hình tam giác (Rosa Winkel) và bị đối xứ tàn bạo. Người ta ước lượng có khoảng 5.000 đến 15.000 người đồng tính bị chết trong các trại này. Sau khi chế độ Đức Quốc Xã sụp đổ, những người đồng tính đã tập họp lại thành các tổ chức để bảo vệ và đòi hỏi các quyền của họ.

Từ năm 1973, Hiệp hội Tâm thần học Mỹ không còn xem đồng tính luyến ái là một bệnh tâm thần nữa. Và trong những thập kỹ qua, một "nền văn hóa đồng tính" đã được hình thành tại các nước Tây phương. Một số quốc gia đã cho phép những người đồng tính có quyền kết hôn cũng như nhận con nuôi. Nhưng sự xuất hiện của HIV/AIDS từ giữa thập niên 1980 đã tạo thành những vấn đề mà người đồng tính phải đương đầu.

2.- Con số người đồng tính hiện nay

Tìm kiếm tài liệu thống kê chính xác về người đồng tính trên thế giới, kể cả tại các nước Tây phương, là chuyện rất khó vì sự biểu lộ của họ thường không công khai.

Nhiều tổ chức thăm dò cho biết tại các quốc gia Âu Châu, số người đồng tính là từ 1% đến 5% dân số. Riêng ở Pháp, tạp chí Têtu ước lượng khoảng từ 5% đến 10%.

Tại Hoa Kỳ, ngày 17.2.2013 cơ quan thăm dò Gallup đã công bố kết quả một cuộc thăm dò tại 50 tiểu bang cho thấy thủ đô Washington là nơi có tỷ lệ đồng tính cao nhất: 10% dân số. Trong khi đó ở California là 4,0% và New York 3,8%. North Dakota có tỷ lệ này thấp nhất: 1,7%. Tính chung số người đồng tính ở Mỹ là khoảng 3,5% dân số.

Tại các nước Châu Á, đồng tính chưa trở thành vấn đề lớn. Tài liệu cho biết số người đồng tính ở Trung Quốc chiếm khoảng 0,17% dân số, còn ở Việt Nam từ 0,06% đến 0,15%.

Hiện nay có trên 80 nước xem đồng tính là tội phạm ở những mức độ khác nhau. Tại 8 nước là Iran, Mauritania, Nigeria, Pakistan, Ả Rập Saudi, Sudan, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, và Yemen, đồng tính có thể bị tội tử hình.

Tại Châu Á hiện chưa có quốc gia nào chấp nhận hôn nhân hay kết hợp dân sự đồng tính.

GIẢI PHÁP CHO ĐỒNG TÍNH

Từ ngàn xưa, những định chế hôn nhân khác nhau đã được thành lập, có khi thành văn có khi bất thành văn, với hai mục tiêu chính là (1) di truyền nói giống và (2) dưỡng dục con cái. Mạnh Tử đã từng nói: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”, tức bất hiếu có ba điều, trong đó không có con nối giòng là tội nặng nhất.

Tình mẫu tử được coi là một bản năng thiên phú được ban cho người phụ nữ để thực hiện sứ mạng dưỡng sinh. Chính tình yêu thương con cái là sợi dây liên kết gia đình lại thành một khối chặt chẽ, và sự tan vỡ sẽ ảnh hưởng đến vấn đề dưỡng dục con cái. Đạo hiếu đã giúp xây dựng đại gia đình trong đó “trẻ nhờ cha già cậy con”. Vì thế, lễ thành hôn thường được cử hành theo một nghi thức trọng thể với lời chúc “trăm năm hạnh phúc”. Tất cả những tập tục và quy định trên là để bảo vệ gia đình. Không có chỗ đứng nào cho đồng tính trong những định chế hôn nhân như thế.

Tuy nhiên, sau biến cố do chế độ Đức Quốc Xã gây ra cho những người đồng tính, người ta đã nghĩ đến việc hình thành một định chế để bảo vệ các quyền của người đồng tính. Nhưng một cuộc tranh luận gay cấn đã xảy ra: Đa số nhận định rằng mục tiêu của kết hợp giữa hai người đồng tính và giữa hai người khác tính có rất nhiều điểm không giống nhau,  nên phải có những định chế khác nhau. Một số lại cho rằng việc thiết định hai quy chế riêng cho hai trường hợp sẽ tạo ra sự bất bình đẳng. Đây chỉ là một lối ngụy biện nhưng lại được một số nhà lãnh đạo chính trị ủng hộ.

Hiện nay có 21 quốc gia đã hình thành quy chế riêng cho người đồng tính và gọi đó là "sự kết hợp dân sự", tiếng Anh là Civil UnionCivil Partnership hay Domestic Partnership. Có 4 tiểu bang của Hoa Kỳ cũng đã đi theo giải pháp này là Delaware, Hawaii, Illinois and New Jersey.

Trái lại, có 14 quốc gia cho rằng việc hình thành một định chế riêng cho người đồng tính là bất bình đẳng, nên quy định rằng người đồng tính được kết hôn theo hôn nhân truyền thống, đó là các quốc gia Hà Lan, Bỉ, Tây Ban Nha, Canada, Nam Phi, Argentina, Uruguay, Na Uy, Iceland, Thụy Điển, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, New Zealand và Pháp. Tại Hoa Kỳ, đã 5 tiểu bang cho phép những người đồng tính được kết hôn là Connecticut, Iowa, Massachusetts, Vermont, New Hampshire và District of Columbia.

Như vậy còn rất nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ chưa đi vào cuộc chiến.

RỒI SẼ ĐI VỀ ĐÂU?

Hiện nay, người dân Hoa Kỳ đang đợi phán quyết của Tối Cao Pháp Viện liên quan đến hai vụ kiện về tình cách bất hợp hiến của luật cấm hôn nhân đồng tính, đó là vụ “United States v. Windsor” từ New York và vụ “Hollingsworth v. Perry” từ California.

Người ta thường ví các Thẩm Phán TCPV Hoa Kỳ như những người mặc áo hai túi, muốn tuyên bố hợp hiến thì bốc túi bên này, còn muốn tuyên bố bất hợp hiến thì bốc túi bên kia. Cách nào cũng có thể lập luận suôn sẻ cả. Bốc túi nào là tùy thuộc vào chủ trương của nhóm siêu quyền lực đứng sau hậu trường. Chúng tôi sẽ có bài phân tích khi phán quyết của TCPV được công bố.

Trong khi đó nhiều tổ chức tôn giáo và xã hội vẫn tiếp tục nghiên cứu và xử dụng những phương thức tâm lý hay tôn giáo để giúp những người đồng tính giảm bớt ham muốn của mình, tránh xa những quan hệ đồng giới hoặc thay đổi thiên hướng tình dục. Các nhóm ex-gay (như nhóm Exodus International) được thành lập để giúp những người đồng tính trở lại cuộc sống như những người bình thường.

Ngày 9.6.2023

Lữ Giang