Suy tư tuần thứ 25 thường niên năm nay

Suy tư tuần thứ 25 thường niên năm nay, lại cũng thấy nhà thơ những ngâm rằng:
“Anh buồn tự thuở giăng lên núi,”
 Ấy độ tôi hoài ước lại mong”.
Thơ ngâm rồi, người lại hát:
“Con đường xưa em đi
người ta kéo dây chì, thế là anh hết đi.
Đưa em về bên Tây nguyên,
xích lô nàng không chịu đi, Nàng đòi đi taxi!”

Xem ra, có ngâm và có hát những lời như thế, cũng chỉ để tỏ-bày với bạn bè/người thân về một ý/từ rất thân thương nơi nhà Đạo. Thế đó, còn là lời thân chúc xin được gửi đến thánh Hội Nước Trời, rất hôm nay.
Mai Tá
www.giadinhanphong.com
 
Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 25 mùa Thường niên năm A  21-9-2014
 
“Anh buồn tự thuở giăng lên núi,”
 Ấy độ tôi hoài ước lại mong”.
(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)
 
Mt 20: 1-16
Nơi đời người, rất nhiều người cứ thấy buồn “tự thuở giăng lên núi”, giống nhà thơ. Trong nhà Chúa, chẳng ai còn thấy buồn đến độ như thế. Nhưng vẫn vui hoài, “những ước và mong”.
Trình thuật hôm nay thánh-sử Mát-thêu ghi lại dụ ngôn thợ làm vườn nho người kẻ sau gia-nhập nhóm làm vườn, như mọi người. Nhưng, lại cũng có người buồn nhiều hơn vui, vì nhiều thứ. Thứ dễ thấy nhất là cảm thấy như chủ vườn đối xử không đồng đều, nên mới buồn.
Chuyện người đời, phim ảnh cũng kể lại những tình-huống buồn vui vì người đời đối xử rất khác nhau như câu truyện về người anh hùng ở cuộc chiến có tên là Forrest Gump, rất oái oăm.  
“Phim truyện Forrest Gump có lúc được kể là ‘niềm hân hoan của người tham chiến’. Vào một lúc nào đó, truyện phim nói về sự việc: “sao người chót hết lại có thể về trước nhất”. Câu chuyện này, rút từ những điều mà cuốn phim đã để lại trong đầu, của người xem.
Forrest Gump rồi cũng chết. Và, cũng lên thiên đàng. Vừa tới nơi, đã thấy thánh Phêrô đưa ra 3 câu hỏi bắt buộc anh phải giải mã trước khi vào cửa. Ba câu ấy, là: -1) Ngày nào trong tuần bắt đầu bằng chữ T? -2) Một năm gồm bao nhiêu giây? -3) Tên gọi của Thiên Chúa là gì?
Forrest trả lời ngay lập tức: ‘Thưa, 2 ngày trong tuần bắt đầu chữ T là: hôm nay và ngày mai. Thánh Phêrô nói: Ta không nghĩ thế, nhưng con vẫn có điểm. Thế câu tiếp là gì? – Con nghĩ, câu trả lời độc nhất là 12. -12 ư? –Thưa, đó là ngày 2 tháng Giêng, 2 tháng Hai… - Khoan, Ta biết là con đang cò cưa với câu này. Thế còn câu hỏi cuối? – Vâng, đó là Andy! – Andy à? Thôi được, cứ coi như 2 câu đầu con cũng biết cách trả lời rồi. Nhưng sao lại đặt tên gọi cho Chúa là Andy? –Thưa, đó là câu trả lời dễ nhất. Con học điều đó trong bài ca vịnh…ANDY đi với tôi, ANDY tới với tôi, ANDY bảo tôi thuộc về Ngài’  Nghe thế, thánh Phêrô bèn mở cửa ngọc và hối: “Vào đi Forrest, vào lẹ đi!”     
            Tin Mừng hôm nay, cũng kể về người thợ đến đầu giờ cũng được trả lương y như người đến sau buổi xế. Như thế, thì đàn chim ban sớm cũng đã không nhận ra là chúng có thể đến trễ và cũng được bấy nhiêu đồ ăn. Bằng giọng điệu cay cú, ta có thể dùng danh xưng gọi các tay thợ làm vườn đến vào buổi xế là “Giô-ni đi tàn tàn”. Và, sự thể là: nếu ta buộc phải đối đầu với tình huống tương tự, ta cũng sẽ là người ngồi đó mà càm ràm.
            Với Hội thánh tiên khởi, câu chuyện hôm nay mang tính quan trọng, là vì người Do thái, qua bao thế hệ, vẫn cứ mỏi mòn ngồi chờ Đấng Mê-sia sẽ đến. Và, tựa như người thợ đến từ đầu giờ, cộng đoàn khi xưa là các nhà tiên phong đáp ứng lời mời của Đức Giêsu Chúa đã lao động cho hiện trường Vương Quốc của Đức Chúa. Dưới mắt người Do thái đi theo Chúa vào thời đầu, kể cả thánh Phêrô, ai cũng ngỡ ngàng khi thấy Đức Chúa đã mời gọi cả người ngoài luồng đến để sống và phục vụ cho Vương Quốc của Ngài.
Với đầu óc giàu tưởng tượng, ta thấy ngay là: một số đàn chim ban sớm vẫn mang nặng cảm giác dày vò cay cú, khi thấy đám “Giôni đi tàn tàn” lại được trao cho trọng trách trông nom sứ vụ truyền giáo rất rộng. Điều này hẳn đã vượt ngoài sức tưởng tượng, của nhiều người. Vì thế, vẫn có người thắc mắc hỏi rằng: sao lại xảy ra như thế được!
            Tìm hiểu kỹ, ta thấy truyện kể hôm nay cho thấy tính khí thất thường nơi con người chúng ta. May cho ta, Chúa vẫn rất mực độ lượng. Ngài có lòng khoan dung, đại độ không ai sánh tày. Trong khi đó, nhìn lại mình, nhìn người khác, vẫn chỉ thấp thoáng một vài gương lành, do đã bắt chước cách hành xử cao quý của Đức Kitô thật đấy, nhưng vẫn chưa đậm nét. Nơi Đức Chúa là cả sự sung mãn, tràn đầy.Tràn đầy yêu thương. Ngập tràn tha thứ. Đầy ắp những xót xa. Những sung mãn về sự công chính.
Tự thân, Chúa vượt quá tầm tay với mà ta có thể kêu cầu, đòi hỏi hoặc mơ ước. Nên, ta vẫn không hết bỡ ngỡ đứng trước các hành xử đảo ngược lòng ao ước đợi trông. Đảo ngược tính sợ hãi vẩn vơ. Đảo, cả những đồn đoán khó tin của người phàm. Chúng ta vẫn không ngừng tìm kiếm Đức Chúa vĩ đại đầy ấn tượng. Tựa như khoa học giả tưởng do ta sáng chế. Trong khi đó, Chúa đến với ta chỉ như kẻ bần hàn, đói rét. Ngài đến, rất trần trụi. Lạnh căm. Lạnh căm, như người ốm o gầy mòn, mang hình hài thân phận của người tù, ốm đói. Nhưng, Chúa tỏ lộ chân lý của Ngài ngang qua những người làm ta kinh ngạc. Vào thời điểm dễ làm ta sửng sốt.
            Đó còn là lý do tại sao nhiều người cứ mải quyết đoán: Đức Chúa chỉ hoạt động theo cách thân quen tại nơi chốn, qua con người, hoặc vào thời điểm ở thể chế rất dễ nhận. Việc Ngài làm, thường kết thúc ở cuối đường ranh khôn ngoan, tin tưởng. Tin vào Đạo. Tin vào Lời.
            Trong cuốn “Những thứ bạn kiếm được mà không phải trả tiền”, tác giả Michael McGirr đã biện luận: thế giới hôm nay đang có khủng hoảng về niềm tin. Đây không là phương thức ta thường nghĩ. Trong bối cảnh lật lại bàn cờ, McGirr khẳng định là: khủng hoảng niềm tin nằm ở chỗ: người ở ngoài truyền thống vẫn cảm nghiệm được tình thương yêu của Đức Chúa. Quả thật, Chúa luôn yêu thương, dẫn dắt Hội thánh. Nhưng, Ngài không bị ràng buộc bởi Giáo Hội. Ngài bận tâm lo toan để đoan chắc rằng: ai người chậm chạp, đến trễ, vẫn có cơ-hội được ngang bằng với người đến sớm. Vẫn nhận được món hời hệt như đàn chim ban sớm.
Dẫu thế nào, ta hãy nên, thay vì phẫn nộ về cái-gọi-là sự bất công này, hãy chăm lo mà cảm tạ Chúa vì nhờ vào Ngài ta mới trở nên lớn lao, cao trọng. Cảm tạ Ngài, đã tỏ ra công minh, chính trực với thần dân. Cũng chẳng nên hỏi: khi nào và làm sao ta nắm được Lời. Bởi vì, Lời không “gớm ghiếc” và cũng chẳng “bất công”. Lời chẳng “thấy Tôi tốt bụng mà đâm ghen tức”. Duy có điều, là: vì ta chưa hiểu thế thái nhân tình, nên chưa hiểu rõ được Lời.
Cảm-nghiệm những điều vừa kể, tưởng cũng nên ngâm lại lời thơ còn bỏ dở ở trên, nay tiếp tục:
 
            “Anh buồn tự thuở giăng lên núi,”
   Ấy độ tôi hoài ước lại mong.
   Ai biết lòng anh thương nhớ đâu?
   Gần nhau không nói, nói không sầu.
   Cầm tay hỏi mộng, buồn như tủi,
   Thầm hiểu anh thôi, lặng cúi đầu.”
   (Đinh Hùng – Cặp Mắt Ngày Xưa)
 
Cuối cùng thì, cứ gần nhau đi dù không nói. Nói làm gì, khi anh đã “thầm hiểu” nên hãy cứ “lặng cúi đầu” mà suy-nghĩ về dụ ngôn Chúa Kể, để coi đó như bí kíp sống ở đời. Bí kíp, dựa nhiều trên chọn lựa của mỗi người, tùy tình thân thương đối xử với nhau mà thôi.
 
Lm Richard Leonard sj
Mai Tá lược dịch.
 
Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 25 mùa Thường niên năm A 21-9-2014
 
“Con đường xưa em đi
người ta kéo dây chì, thế là anh hết đi.
Đưa em về bên tây nguyên,
xích lô nàng không chịu đi, Nàng đòi đi taxi!”
(Hát nhái bài Con Đường Xưa Em đi của Hồ Đình Phương)
 
(Mt 5: 21-24)
 
            Rõ ràng “Con đường xưa em đi”, là để em cùng anh và mọi người dùng nó mà đi, dù cho người ta có kéo dây chì hoặc làm anh sạch túi, hay sao đó, ta vẫn đi.
            Con Đường, là để mọi người được đi, dù anh có hát nhại gì gì đi nữa, cũng sẽ thấy là:
 
            “Em ơi dù tốn bao nhiêu, dù phải hao “tì”
            lòng này anh chẳng màng
Nhưng than ôi khi hiểu ra rằng
Em chẳng thương chi thì làm cho anh sạch túi?”
(Hát nhái bài Con Đường Xưa Em đi như đã dẫn) 
“Con Đường” như thế là đường đời, dành cho mọi người, ở đời. Còn, “Con Đường” nhà Đạo, thì sao? Câu trả lời, xin dành ưu tiên cho cựu linh mục Nguyễn Ngọc Lan từng có câu để đời như:
 
“Đạo là đường, Đạo bao giờ mà chẳng là đường. Sao lại còn có thể tự hỏi: Đạo là đường hay là lô-cốt, pháo đài? Vấn-đề thoạt tiên nghe có vẻ kỳ cục. Chúng ta cứ mở bất kỳ một quyển Hán-Việt Tự điển nào mà xem. Đạo là đường. Dĩ nhiên. Thắp đuốc mà tìm cũng không bao giờ thấy Đạo có nghĩa là pháo-đài, lô-cốt cả. Đạo là đường, không thể là gì khác. Thật là giản dị. Đạo là đường như muôn vàn nẻo đường đã in vết chân chúng ta hay đang chờ chúng ta đi đến. Đạo là con đường lớn nhất, dài nhất, xa nhất như cả cuộc đời chúng ta là một con đường.
 
Riêng tiếng Việt lại sẵn kiểu nói thật là ý-nghĩa: “đi đạo”. Như thế, hiểu đạo là đường chưa đủ, còn cần phải nói cho rõ hơn. Không biết có tiếng nào trên thế giới biết dùng một chữ gì tương đương với kiểu nói “đi đạo” dễ thương như vậy không.
 
Thế nhưng, vấn-đề có vẻ kỳ cục kia –Đạo là đường hay là pháo đài– vẫn không phải là chuyện thừa. Vì Đạo là đường chỉ là lý đương nhiên trong các quyển tự-điển, theo nguyên tắc, còn trong thực-tế đã chắc gì Đạo vẫn chỉ là con đường. Người mình bảo “đi đạo” nhưng biết đâu trong thực-tế vẫn có nhiều người “giữ đạo” như canh gác lô-cốt hơn là có nhiều người “đi đạo” như còn ở trên con đường dài. Cũng như cái lý đương nhiên của cánh chim là để bay nhảy giữa trời cao đất rộng. Cái lý đương nhiên của loài cá là sông là biển. Thế nhưng, vẫn có cảnh cá chậu chim lồng. Mà bi-đát hơn nữa là chúng ta thường chỉ tiếp xúc với cá chậu chim lồng –chưa kể cá ướp lạnh và chim đã nhổ hết lông– hơn là với cá đang tung-tăng giữa cái lý đương nhiên của nó là sông biển, với chim đang bay nhảy giữa cái lý đương nhiên của nó là trời đất…”(xem Nguyễn Ngọc Lan, Đường Hay Pháo Đài, nxb Trình Bầy 1969 tr. 11-12)
 
            Vâng. Ý của vị “cựu linh mục” đây khi xưa là thế. Có như thế hay không, người đời nay vẫn cứ quan-niệm “Con Đường Xưa Em Đi”, còn hơn thế nữa, khi hát rằng:
 
         “Con đường xưa em đi Giờ đây kéo dây chì thế là anh hết đi.
đưa em về bên Tây nguyên Xich lô nàng không chịu đi Nàng đòi đi Taxi.      
Em ơi! dù tốn bao nhiêu dù phải hao tì, Lòng này anh chẳng màng
Nhưng than ôi khi hiểu ra rằng Em chẳng thương chi thì làm cho anh sạch túi.”
(Hát nhái bài Con Đường Xưa Em đi như đã dẫn) 
Thật ra thì, có sạch túi/hao “tì”/hao hụt rất nhiều tiền đi chăng nữa, thì anh và em vẫn cứ phom phom ra đi trên con đường đời đầy chông gai, hoặc giây chì, giây kẽm hay gì gì đi nữa, cũng không ngại. Chỉ ngại mỗi điều, là: người em và người-anh-của-tôi, hôm nay lại thấy mệt vì chuyện khác chứ không phải chuyện đi/đứng.
Đời người “đi Đạo” cũng thế. Đi đạo, lại là và vẫn là: phom phom đi trên con “Đường” rất Đạo để giữ đạo chứ không “hành” Đạo, thế mới hay.
Trong sống đời “đi Đạo” và “giữ Đạo”, lại có rất nhiều tình-huống cũng khiến người nhà Đạo đôi lúc cũng hao-tổn thần-lực và thần-tính, nhưng vẫn đi và cứ đi. Nếu hỏi rằng, sao lại như thế, thì: hôm nay đây, bần đạo bầy tôi xin mời bạn và mời tôi, ta cứ thế “phom phom” tìm hiểu ý-nghĩa và lý-chứng về chuyện “đi Đạo” và “sống Đạo” ngang qua ý-kiến của một số vị thuộc bậc thày đã “đi” trước và vẫn “đi” dù có điều gì xảy đến trong quá-khứ, hiện-tại hoặc mai ngày.
Trước hết xin mời bạn và mời tôi, ta hãy về lại với ý-kiến của vị cựu linh mục vừa trích ở trên xem sao. Ý-kiến của bậc thày/đàn anh bần đạo khi xưa cũng rất dài. Nay, xin ghi lại chỉ đôi ba ý chính, rất như sau:
 
     “Vấn-đề quan-trọng vì càng ngày càng đông-đảo những con người –nhất là trong giới trẻ –không thể chấp-nhận mãi việc “giữ Đạo” theo cha ông như giữ một miếng đất, một mảnh vườn hay tệ hơn nữa như một lá bùa. Chưa hẳn vì họ trở thành vô đạo. Mà có thể, chính vì cha ông họ chưa hề thực sự “đi đạo”. Phủ-nhận một nề nếp đạo đức nào đó đối với họ thật ra không đáng kể gì hơn thế-hệ cha ông của họ đã đoạn-tuyệt với khăn đóng áo the thâm. Hay đúng hơn, họ đang làm một chuyện cần-thiết hơn, đáng làm hơn: cách này hay cách khác họ đang tỏ ra muốn là những con người có tự-do và ý-thức, và muốn đạo không thể chỉ là lồng chim và chậu cá. Họ càng không thể chấp-nhận sự-kiện người ta cứ tiếp tục biến đạo thành pháo đài hay lô-cốt để thúc thủ trong chủ quan và ích kỷ rồi chèn ép, chém giết nhau vì những quyền lợi không chút dính dấp gì đến đạo. Chưa hẳn họ đã coi rẻ ý-nghĩa của Đạo trong kiếp sống của mình. Họ chỉ từ-bỏ một thứ Đạo nào đó thôi. Và họ có quyền thắc mắc: Đạo như đã được “giữ” trước họ có thật đã giúp cho loài người xích lại gần nhau, yêu thương nhau, thông cảm với nhau cho bằng đã khiến loài người nghi kỵ lẫn nhau, chống đối nhau, xa cách nhau, dựng lên giữa nhau không biết là mấy lớp Vạn Lý Trường Thành, hay màn sắt, màn tre?
 
     Đạo, là pháo đài hay là đường?
Một vấn đề đáng ám ảnh chúng ta khi còn muốn chú ý đến chuyện tôn giáo, còn muốn nhìn nhận Đạo như một hiện tượng liên hệ sâu xa đến nếp sống của mình, đến tương quan giữa mình với người, đến thân phận chung của loài người.
 
     Đạo là pháo đài hay là đường?
Trong thực tế, cứ thử nhắm mắt lại mà xem. Nhiều thực-tại vẫn cần phải nhắm mắt lại mới thấy rõ hơn là mở mắt trân trân. Nhắm mắt lại mà xem chúng ta thấy gì khi nghĩ đến “đạo”? Chữ “đạo” có tự nhiên gợi lên trong tâm-tư chúng ta hình ảnh một con đường rộng thênh thang, dài vun vút?
 
     Trên con đường đó, người ta tha hồ đi, có kẻ đã đặt một chuẩn-đích phía trước mặt, có kẻ chỉ hướng về một chuẩn đích chưa rõ rệt và có lẽ chẳng bao giờ rõ rệt, có kẻ mãi mãi lang thang tìm kiếm. Nhưng ai cũng đi, người này bên cạnh người kia, không phải dẫm chân lên nhau, không ai dừng lại mà dựng lô-cốt để yên nghỉ ngay giữa đường, chận bước tiến của kẻ khác, không ai đem giây thép gai rào dọc ngang. Mọi người vừa đi vừa gặp nhau trong cùng một nỗi khắc-khoải của lòng mình, trong sự thu hút của chân trời đằng trước mặt”…(xem thêm Nguyễn Ngọc Lan, sđd tr. 13-15)
 
Trích dẫn những lời như thế, ở đây/hôm nay, lại là trích và dẫn về những khắc-khoải còn tiếp tục với người đi đạo và sống đạo thời bây giờ, tức thế-kỷ thứ 21 chứ không chỉ mỗi thế-kỷ của bậc thày/đàn anh từng sống và đã sống.
Thế kỷ 21, nay còn thấy và vẫn thấy những “khắc-khoải” đặt ra cho mình và cho người, giống như thế. Khắc-khoải, là những ưu-tư/thắc-mắc đặt ra cho đời. Khắc-khoải, là những thời-khắc rất ưu-tư/ngại ngùng kéo dài rất nhiều ngày trong đời, mọi người.
Khắc-khoải và quan-ngại, ở chỗ: có những lời dạy-dỗ của bậc thánh-hiền từ ngàn xưa vẫn vang vọng đến bây giờ, qua bao thế kỷ, thế-hệ và thế-sự đà đổi thay. Khắc khoải và quan-ngại, lại là lời vọng có giá trị đến bây giờ, vì đó là sự thật. Khắc-khoải và quan-ngại, là những điều từng thúc-giục mọi người, như sau:
 
“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng:
Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà.
Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà.
Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng.
Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.
Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5: 21-24)
 
            Luật yêu thương theo Con Đường Chúa dạy, lại dẫn đến Sự Thật và Sự Sống, tức chính Chúa. Phải chăng “Con Đường Xưa Em Đi” hoặc “Đạo, là Đường hay Pháo Đài?”, lại chính là đường-hướng, đường-lối hoặc đường đường một cung-cách của Tin Vui An Bình, Chúa từng bảo:
 
“Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy,
để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.
Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu,
làm sao chúng con biết được đường? Đức Giê-su đáp: "Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Chúa Cha, mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người."
(Ga 14: 2-7)
 
“Thầy là Con Đường”, chứ không là pháo đài! Điều này bậc thày/đàn anh lại đã ghi thêm:
 
     “Đối với lòng tin của người Kitô-hữu, Đức Yêsu trước tiên là cả Con Đường đưa từ thân thế Thiên Chúa đời đời của Ngài đến thân phận làm người trong thời gian (Ph 2: 6-8)
 
     Tất cả những gì chính yếu nhất trong lòng tin đó đều có thể quy về một quả quyết: “Kẻ không yêu thương tất đã không biết Thiên-Chúa, vì Thiên Chúa là lòng yêu thương. Điều này đã chứng-tỏ lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta: là Thiên Chúa đã cho Con Một Người đến trong thế gian, ngõ hầu chúng ta được sống nhờ Người” (1Yn 4: 8-9)
 
     Nhưng ngoài ra, cứ nhìn vào cuộc đời của Ngài như một hiện tượng, và cứ nhìn như các tiểu sử chính thống -thường được gọi là Tin Mừng hay Phúc Âm- đã trình bày, có thể nói ngay là Đức Yêsu đã sống chết ở ngoài đường, ở trên đường.” (x. Nguyễn Ngọc Lan, sđd tr. 75)
 
            Quả thật là như thế. Đường, lại chính là Sự Thật và là Sự Sống của Đức Giêsu. Bằng vào Con Đường này, Đức Giêsu đi đến với Thiên-Chúa-là-Cha. Và, Ngài dẫn dắt mọi người trong thiên-hạ, vẫn làm thế. Trong thiên-hạ, nhiều nghệ-sĩ cũng nhận ra được “Con Đường Tình” của mọi người và tình “Đường” của riêng ai như ý/lời được diễn-tả theo cách khác:
 
            “Con đường nào ta đi Với bàn chân nhỏ bé
Con đường chiều thu đổ Con đường bụi mờ Con đường tuổi măng tre
Nắng vàng thu đẹp đẽ Bóng người dài trên hè Con đường tình ta đi.”
(Phạm Duy – Con Đường Tình Ta Đi)

            Cứ như người nghệ-sĩ hát, thì: Con Đường mình đi, bao giờ cũng là và phải là “Đường Tình”, là “Tình” ta có với ai đó. Con Đường “tình ở đời” còn mang thêm ý-nghĩa khi anh và em, ta hát tiếp:
 
“Thế rồi cuộc đời là Những cuộc tình chia xa Đi lạc vào những phía con đường về
Đứng ở ngoài đầu rừng Đứng ở đầu con sông
Nhớ về con đường cũ mênh mông, mênh mông.
Hỡi người tình học trò Hỡi người tình năm xưa Bóng người từng in dấu, trên đường mờ.
Có thuộc vạn nẻo đường Có ngại ngùng nên quên Nhớ hoài con đường cũ không tên.
(Phạm Duy – Con Đường Tình Ta Đi)
 
Với Đức Giêsu là Sự Sống của người đi Đạo và giữ Đạo, tức giữ “Con Đường Tình” mình đi, chính là Đạo của Đức Kitô Giêsu, là Đức Chúa. Về điểm này, bậc thày/đàn anh còn ghi tiếp bằng những “cụm từ” đứt khúc, như sau:
 
     “Kitô-giáo: Đạo mở đường!!
      Khi Đạo đích-thực là Đạo Tình Thương và tình thương chỉ có con đường vô hạn đằng trước mặt.
    
      Kitô-giáo: Đạo cho người ngoài đường!
      Ngài đã sinh ra ngoài đường và khi ấy cũng chỉ có những người ở ngoài đường có mặt xung quanh Ngài. Từ bao thế hệ, đạo Do Thái đã hãnh diện với sứ mệnh cốt yếu là chờ đợi để đón tiếp Vị Cứu Tinh phải xuất hiện tự dân tộc mình. Thế mà lời tường thuật của Luca và Matthêu tuyệt nhiên không cho thấy bong dáng những đại diện tiêu biểu của Đạo xung quanh Máng Cỏ. Chỉ có những người ở bên lề hay ở ngoài xã hội Do thái mới đến đó. Ngay đêm Giáng Sinh là những người chăn cừu trong vùng (Lc 1: 8tt): đám nguời này có là Do thái cũng như không: họ đã nghèo mà lại còn bị liệt vào thành phần bất hảo: ai có vườn xanh cỏ tốt đều phải canh chừng…”
     Trong mà ngoài, ngoài mà trong hay là câu chuyện đứa con đi hoang.
Các chuyên viên giữ đạo tự phụ là “có” Đạo đã nắm chắc Thiên Chúa cho mình như ngày nay người ta nắm chắc một số lương hưu bổng. Họ tưởng đã chính-trực hôm qua là chính trực mãi mãi, đã tội lỗi hôm qua là chung thân tội lỗi. Cho nên họ xếp hạng loài người thật dễ dàng. Nhưng Đạo không bao giờ chỉ là ngày hôm qua, cho dẫu ngày hôm qua vàng son đến đâu chăng nữa.
     Đạo, là đoạn đường ngày hôm nay. Đạo, là chân trời ngày mai. Dừng chân yên nghỉ, thụ hưởng quãng đường quá khứ là hết Đạo. Đạo, không phải là những công đức đã cô đọng thành hào quang chung quanh đầu con người. Đạo, là ngày hôm nay đây, giờ phút hiện tại đây, con người gật đầu hay không gật đầu đáp lại tiếng gọi xa hơn mình, cao hơn mình. Đạo, không ở những vết chân để lại, mà Đạo ở cả nơi bước chân mình đang cất lên hướng về đâu. Như thế, Đạo là đòi hỏi không ngừng, nhưng nhờ đó Đạo cũng là năng-lực giải-phóng con người khỏi bị đóng đinh vào những vết chân quá khứ…” (x. Nguyễn Ngọc Lan, sđd tr. 149)
    
     Kitô-giáo: Đạo ngoài đường!
Thiên Chúa là Tình Thương, chỉ tình thương mới có tính cách quyết định trên con đường đi đến với Ngài. Tình thương định đoạt giá trị của công-thức trong mỗi hoàn cảnh sống cụ thể chứ không phải công thức định đoạt tình thương.“Thờ phượng là thờ phượng trong Thần Khí và sự thật”. (Yn 4: 5-24) Đưa ý thức tôn giáo ra ngoài đường, Đức Yêsu giải phóng hành động con người đã đành, nhưng còn hơn thế nữa, Ngài giải-phóng chính Thiên Chúa khỏi mọi định kiến cho dầu là thánh thiêng đến đâu đi nữa của con người. Con Đường Ngài mở ra, không phải là con đường để trượt tuyết. Đành rồi. Nó cam go, dốc dác. Nhưng, nó lại không là ngõ hẻm, ngõ cụt. Nó rộng thênh-thang và tha hồ đi mãi…
    
     Từ lời dạy rõ và hùng hồn (ở Tin Mừng), chúng ta có thể rút ra vài nét chính yếu:
     1) Đạo vẫn là Đạo Yêu thương. Nhưng trong thực-tế của cuộc sống, không còn có thể phân tách hai mặt của tình thương yêu ấy nữa. Không còn chỗ cho con đường đi đến với Thiên Chúa khác với con đường đi đến với tha nhân. Đối diện với tha nhân cũng là đối diện với Thiên Chúa. Bất cứ thái độ nào đụng chạm đến con người là đụng chạm đến Thiên Chúa. Và, ai cũng có thể được thẩm định cách dứt khoát và toàn diện mà chỉ cần là thái độ của họ đối với tha nhân được đưa ra ánh sáng cuối cùng.
     2) Khi đã có sự đồng hoá kỳ lạ đó, Đạo cho dẫu là đường đi đến với Thiên Chúa vẫn không cho phép người ta biến thành thuốc phiện. Đức Kitô muốn người ta theo Ngài, tìm Thiên Chúa mà vẫn phải giáp mặt không ngừng với thực tại con người ở ngay xung quanh. Không có quyền tìm Thiên Chúa trên một từng mây xa vời nào nữa!
     3) Một lối lập luận nghịch thường nào đó trong Tin Mừng theo thánh Yoan; cũng như trong Thư Thứ Nhất của Yoan, thành tự nhiên với đường hướng trên. Mỗi khi quả quyết tình thương yêu của Thiên Chúa hay của Đức Yêsu đối với con nguời, Yoan lại không trực tiếp kêu gọi con người yêu mến Thiên Chúa để đền đáp mà chỉ kêu gọi người ta yêu thương nhau. (1Yn 4: 11) hay một cách thiết thực hơn cũng vậy: “Chính do điều này mà chúng ta nhận ra được lòng yêu thương: là Ngài đã thí thân vì chúng ta. Nên chúng ta cũng phải thí thân vì anh em.” (1Yn 3: 16).
     4) Đạo không còn chỉ giới hạn trong những ‘cấm giới’ như đừng giết người, đừng dâm ô, đừng trộm cướp, đừng vu khống vv.. Đạo không còn phải chỉ là Đạo “đừng-đừng-đừng”… Đạo chỉ là đạo-đừng thì mới tiện giữ được bên trong một pháo đài, ở trên một tháp ngà. Trong đó, trên đó, chúng ta “chẳng động gì tới ai”…là trọn đạo.
     Đạo là đạo làm, anh-làm-được-gì-cho-tôi, tôi-làm-được-gì-cho-anh. Cho ăn, cho uống, cho mặc, tiếp đón, thăm viếng, gặp gỡ. Hay làm tất cả những gì không thể định trước được để đáp ứng những nhu cầu bất ngờ nhất trên đường đời, giữa cuộc sống… Như thế, đạo-làm vừa bắt buộc ra khỏi mọi thứ pháo đài, tháp ngà, mu rùa mới có cơ hội gặp được tha nhân mà hiện thực được, vừa không cho phép ngừng lại ở mức độ nào nữa cả. Nên chỉ là đạo-đừng thì tôi chẳng động gì đến ai, chẳng làm hại ai là đủ. Nhưng thế nào là đủ được cho đạo-làm, thế nào là đủ cho tình thương yêu? Đạo vẫn là con đường vô hạn mở ra cho hành động yêu thương của con người.
     5) Còn hơn nữa, Đạo Đức Kitô là đạo-anh-với-tôi-cùng-làm-gì-cho-kẻ-khác.Không phải là vấn đề ý thức không quan hệ. Riêng Kitô-giáo tự bản-chất muốn là một Tin Mừng. Tin, là đón nhận Tin Mừng đó. Nhưng vấn đề là không cần phải đợi lúc anh với tôi cùng chia xẻ một niềm tin chúng ta mới cùng đi với nhau một con đường. Đạo lý Đức Yêsu như trên kia rõ rệt lắm: cùng một lòng tin là quan hệ nhưng chưa phải là chuyện có tính cách quyết định. Chỉ có tính cách quyết định là anh với tôi cùng làm gì cho tha nhân, và có cùng là đồng loại của tha nhân hay không?
     Trong ý thức, anh có thể đang đi một con đường, tôi đi một con đường, nhưng trong thực-tại sống, chỉ có một con đường duy nhất: con đường đưa chúng ta đi gặp gỡ con người, cùng phục vụ con người, cùng sống cho tình thương yêu đồng loại, chúng ta lại cũng đã gặp gỡ nhau.
     Khi đã hiểu như thế, chuyện cấp bách đối với tôi, người tin ở Đức Kitô, vẫn chưa phải là làm sao cho anh cùng tin với tôi – gặp gỡ chính Ngài – mà chính là: làm sao cho chúng ta cùng mở mắt trước những khổ đau của con người, những bất công của xã hội, để cùng nhau chúng ta làm gì để để xoa dịu những khổ đau kia, chận bớt, chấm dứt những bất công này.
     Con đường thương yêu – với niềm tin hay không với niềm tin – vẫn đi qua người đồng loại. Con đường đó vừa xa tắp vừa cho phép mọi người gần nhau, gặp gỡ nhau…
 
     Đạo, là Đường, Sự Thật, Sự Sống!
     Đức Yêsu trước tiên muốn nhấn mạnh ở điểm Ngài là Đường. Ngài còn là Sự Thật và Sự Sống, nhưng đối với kẻ theo Ngài, hai thực tại ấy vẫn không tách rời được thực tại Ngài là Đường.
 
     Đường, là để đi vào, đi theo. Con đường đây lại không phải là một nét mực đỏ vẽ sẵn trên một bản đồ bỏ túi mà là thực thể sống động. Đã vậy, “Sự Sống”, “Sự Thật” đều không phải là những vật để bỏ túi. Cũng không phải để cất gọn vào tủ sắt được… Không thể bỏ túi, cất tủ sắt chính Đức Yêsu. Không ai “có đạo” như có một cái xe máy dầu Nhật. Mà, chỉ có những người “đi Đạo”.
    
     Đạo chỉ là pháo đài khi người ta mang thái độ chủ-nhân-ông đối với chân lý. Riêng đối với người tin Đức Kitô, đó là khi lầm lẫn tưởng rằng theo Ngài đã là bỏ túi được Ngài. Tin Ngài là Sự Thật rồi cũng tưởng là mình bỏ túi được Sự Thật mà quên rằng Ngài vẫn là Đường! Nghĩa là cho dẫu gần gũi Ngài đến mức nào đi, cho dẫu là “ở trong Ngài”, để nói theo ngôn ngữ Kinh Thánh (Yn 14: 20), thì người ta vẫn chẳng bao giờ là chủ thầu con đường mà mãi mãi chỉ là kẻ hành hương…
      
     Đức Yêsu có là Sự Thật cho tín đồ của Ngài thì vẫn có cả một khoảng cách không bao giờ lấp được giữa Sư-Thật-là-Ngài với sự-thật-như-được-đón-nhận-trong-tâm-tư-họ. Kinh thánh không quan niệm Sự Thật một cách trừu-tượng. Sự Thật đây là như tâm sự của Thiên Chúa được ngỏ cho nhân loại bằng cách đầy đủ nhất là hiện thân trong Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người.
    
     Đức Yêsu đã có một thái độ không kém tiêu biểu tuy ở vào hoàn cảnh trái ngược hẳn với bụi cây rực lửa huy hoàng. Đó là khi Ngài phải đứng trước mặt Philat như một kẻ tử tù. Cũng như Ngài đã tâm sự với đồ đệ rằng Ngài là “Đường, Sự Thật và Sự Sống”, thì ở đây Ngài ngang nhiên quả quyết với Philat, vị quan toà đại diện cho đế quốc La Mã: Tôi có đến trong thế gian cũng vì để làm chứng cho Sự Thật. Ai thuộc về Sự Thật thì nghe tiếng tôi.” Nhưng khi Philat hỏi lại Ngài: “Sự Thật là cái gì?” thì Đức Yêsu đã không trả lời câu hỏi đó.
      
     Sự Thật không là “cái gì” cả. Sự Thật không phải là “cái gì” gói gọn được trong một định-nghĩa, trong một khái niệm, trong tất cả ngôn ngữ loài người. Nếu tôi không lầm thì toàn bộ Kinh Thánh, chẳng có chỗ nào cho một định-nghĩa trừu tượng về chân lý. Ngài đứng yên đó, Không trả lời. Nhưng “Ngài là Ngài”. Sự Thật vẫn còn là Sự Sống và là Đường”. (x. Nguyễn Ngọc Lan, sđd, tr.235)
 
Thật sự thì, trên đường đời cuộc sống, người nào cũng đi chứ không đứng. Có người đi mãi mà không ngừng. Đi càng nhiều trên con đường đời càng rút được nhiều kinh nghiệm về Sự Thật của Sự Sống. Có người từng ghi lại kinh nghiệm qúi báu của một chuyến đi, hoặc còn gọi là hành-trình trên đường đã ghi lại những giòng chảy như sau:
 
“Đừng bao giờ trách móc bất kỳ ai khi cùng rong ruổi trên đường đời cuộc sống của bạn.
Người tốt, sẽ cho bạn Hạnh Phúc. Người xấu, sẽ cho bạn kinh nghiệm.
Người tồi tệ nhất, cho bạn bài học… Và, tuyệt vời nhất sẽ ban cho bạn Kỷ niệm.
Đừng hứa khi đang vui. Đừng trả lời khi đang…nóng giận.
Đừng quyết định khi đang… buồn! Đừng cười khi người khác …không vui!
Cái gì mua được bằng tiền, cái đó rẻ. Ba năm học nói, một đời học lắng nghe.
Chặng đường ngàn dặm luôn bắt đầu bằng một bước đi. Đừng a tòng ghen ghét ai đó, khi mà họ chẳng có lỗi gì với ta.
 
Được! Được!
Sống một kiếp Bình An là được
2 bánh 4 bánh, đi được là được.
Tiền ít tiền nhiều, đủ ăn là được.
Người xấu người đẹp, dễ coi là được.
Người già người trẻ miễn khoẻ là được.
Nhà giàu nhà nghèo, hoà thuận là được.
Ông xã về trễ, miễn về là được.
Bà xã càu nhàu, chăm lo là được.
Khi con còn nhỏ, dạy dỗ thật nghiêm.
Tiến sĩ cũng được, bán rau cũng xong.
Sau khi trưởng-thành, ngoan ngoãn là được.
Nhà to nhà bé, có chỗ ở là được.
Hàng hiệu hay không, mặc được là được.
Tất cả phiền não, biết xả là được.
Kiên trì cố chấp, biết bỏ xuống là được.
Sống một kiếp người, an lạc là được.
Không phải có tiền, muốn gì cũng được.
Tâm tốt việc tốt, có thể thay đổi số mệnh.
Ai đúng ai sai, trời biết là được.
Tu phúc tu thân, kiếp sau càng tốt.
Thiên địa vạn vật, tùy duyên là tốt.
Có rất nhiều việc, nhìn xa trông rộng.
Mọi người đều tốt, ngày ngày đều tốt.
Anh tốt tôi tốt, thế giới sẽ biết.
Nói tóm lại, tri thức là quan trọng nhất.
Nói nhiều như vậy, hiểu được là tốt.
Vẫn còn chưa hiểu, xem lại là được.” (trích điện thư vừa mới nhận cũng … là được.)  
 
Đúng rất đúng. Bần đạo đây thấy rất “tâm đắc” về nhiều khía cạnh được kể ở trên. Khiá-cạnh thực tế khi đi trên con đường của cuộc sống, có Sự thật, mọi người đều đã đi và ít nhiều cũng có đôi ba cảm-nghiệm. Nhưng, có những cảm-nghiệm mà một số bạn giống như bần đạo đây, nhiều lần vẫn quên đi. Quên, hát bài hát của người nghệ sĩ ngoài Đạo vẫn từng đi trên con đường độc Đạo của cuộc sống, lại vẫn hát những lời rất nghe quen tai, đầy khích lệ mọi người cùng đi hãy cùng hát.
Hôm nay, đề cập đến “Con đường Tình Ta Đi”, bần đạo đề-nghị ta quay về với giới nghệ sĩ ở đời để cùng hát câu sau đây làm kết luận cho bài viết khá dài này, rằng:
           
“Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người tạ ơn đời, Tạ ơn ai đã đưa em về chốn này
tôi xây mãi cuộc vui. Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người
tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi Còn thấy những ngày ngồi mơ ước cùng người.”
(Trịnh Công Sơn – Tạ Ơn)
 
Vâng. Chính thế. Dù có đi hay đứng thế nào đi nữa, trong đường đời, vẫn xin người và xin tôi, ta cứ “Tạ ơn Người”, tạ ơn đời, suốt đời người.
 
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn còn đi nốt con đường đời
Những 70 năm
Vẫn xin tạ ơn đời,
Tạ ơn hết mọi Người.
Trên đời.