Lòng Thương Xót

Thưa anh chị em,
Tôi được phân công giảng về Lòng Thương Xót để khai mạc 3 ngày tĩnh tâm Mùa Chay năm nay, tại nhà thờ Tu Viện Mai Khôi.
Lòng Thương xót được hiểu theo hai nghĩa : lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta và lòng thương xót của chúng ta đối với nhau. Phần việc của tôi là nói về lòng thương xót của Thiên Chúa.Lòng thương xót là cụm từ rút ra từ Tông Huấn Vultus misericordiae, ban hành ngày 11.4.2015 và ấn định ngày 8.12.2015 làm ngày khai mở Năm Thánh Ngoại Thường cho toàn Giáo Hội. Giáo Hội được kêu mời học hỏi, suy nghĩ, cầu nguyện để cảm nhận lòng thương xót của Chúa và thực thi lòng thương xót đối với nhau.
Phần chúng ta, chúng ta hiểu và sống lòng thương xót đó như thế nào. Chiều hôm nay, tôi xin nói về việc hiểu biết lòng thương xót, còn sống thế nào thì dành cho những buổi chiều sau.
I  Hiểu biết lòng thương xót
Điều này thiết tưởng không có gì là khó khăn vì ở đời chúng ta hiểu thương xót là gì rồi, bây giờ chỉ cần đem sự hiểu biết ấy áp dụng vào cho Thiên Chúa.
Thương và thương xót khác nhau. Thương là thích ai và yêu nguòi đó như thương yêu cha mẹ, thương yêu con cái. Còn thương xót có nghĩa là vừa thương vừa xót. Thương gắn liền với trái tim, còn xót gắn liền với lòng dạ hay ruột gan. Ta thương ai, vì thấy người ấy dễ thương, ngoại hình hấp dẫn, có tài, có tiền v.v… nên trái tim ta xúc động. Còn thương xót ai là vì người ấy đáng thương, bởi nghèo đói hay ốm đau bệnh tật, hoặc gặp tai ương hoạn nạn, buồn phiền, đau khổ. Đưa hai mặt vấn đề này áp dụng vào Thiên Chúa, chúng ta có thể hiểu ngay được thế nào là lòng thương xót của Chúa.
1- Chúa xót thương chúng ta:
 1.1 Tình trạng bất trung
Chúng ta là những người tội lỗi đã bất trung với lời cam kết khi chịu phép Rửa Tội. Chúng ta xúc phạm đến Chúa khi không tuân giữ các diều răn của Người. Chúng ta ngã thua các cơn cám dỗ, khi không quyết liệt chống trả và để mình sống trong cảnh tối tăm mù mit về đường đao nghĩa. Đó là tình trạng đáng thương của chúng ta.
1.2  Chúng ta mang gánh nặng nề
Chúng ta mang gánh nặng nề vì những thói hư tật xấu, vì không làm những điều tốt muốn làm, không có khả năng vươn lên khi thấy mình yếu đuối. khi thất vọng không thể sống trong đường ngay nẻo chính, hay khi thấy mình trì trệ, không tiến bộ gì trên đường đạo đức v.v… ấy là không kê những nỗi vất vả kh1 khăn trong cuộc sống.
2- Chúa thương yêu chúng ta
2.1 Cho ta được làm con cái Người trong Giáo Hội
Ơn phúc này, nhiều người có đạo ít nghĩ tới hay không nhận ra. Nhưng đó chính là dấu chỉ, chứng tỏ tình thương của Chúa. Biết bao người sống vật vờ, vô vọng, không có một niềm tin nào hết, trong khi chúng ta có đạo, được đón nhận đức tin, biết tại sao mình sống, chết rồi đi về đâu.
2.2   Được có đức tin
Sự đời có nhiều nỗi oái oăm, bất công và tàn ác khiến nhiều kẻ chán đời muốn hủy hoại dời mình cho khỏi khổ. Nhưng người có đạo như chúng ta thì vẫn còn niềm tin vào Chúa là Đấng Chí Công, thưởng người lành, phạt kẻ dữ vào thời Người ấn định. Tại sao chúng ta là người mà lại là người có đạo để đón nhận được sức mạnh tinh thần của đức tin, hầu chịu đựng đươc các nghịch cảnh và cuối cùng nhờ ơn Chúa mà vượt qua được tất cả, nếu không phải là được Chúa thương
2.3 Niềm hy vọng được sống muôn đời
Sự sống muôn đời trên thiên quốc là mục đích tối hậu của mọi người công giáo. Chúng ta đi đạo, giữ các điều răn của Chúa, sống một cuộc đời không giống những người không có đức tin, để được sống muôn đời trong Nước Thiên Chúa. Đó là một biểu hiện mạnh mẽ về lòng thương xót của Chúa. Chúa có thương mới dành cho chúng ta một hạnh phúc muôn đời như thế.
3-  Các ơn lành Chúa ban
I.O'n lành Chúa: Ai trong chúng ta cũng nhận được những ơn lành của Chúa dưới nhiều hình thức khác nhau về tinh thần cũng như vật chất. Bằng chứng là những lễ tạ ơn, Người ta xin lễ để tạ ơn Chúa vì những ơn lành đã nhận được. Trong các thánh vịnh, có một câu chứng tỏ điều này, đó là :
                      “Hãy tạ ơn Chúa vì Người nhân từ
            Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 83,6)
II. Sự lành và sự dữ
Tình thương của Chúa thi dã rõ như mới nói, còn sự dữ thì sao ? Tình thương và sự dữ có đi đôi được vói nhau không ? Chắc là không rồi. Vây phải hiểu thế nào về sự dữ bên cạnh sự lành. Chúa giầu tình thương mà sao lại để cho sự dữ hoành hành ghê gớm như thế ? Liệu có thể giải quyết được sự trái ngược này hay không ?
1. Tính bất khả dung nhượng giữa đôi bên  
Làm sao có thể hòa hợp được sự lành với sự dữ ? Tình thương là sự lành, còn tai ương, hoan nạn, nghèo khổ, bệnh tật là sự dữ. Hai thứ đó không thể đi đôi với nhau, huống hồ là dung nhượng. Có cái này thì không thể có cái kia hay có chăng là có cả hai cùng một lúc nơi một người, như nghèo khổ mà khỏe mạnh hay giầu có mà bệnh tật. Có cả hai cùng một lúc nhưng vẫn bất an. Cái bất an làm cho lo và khổ và như vậy không thể nói là có đươc sự lành hoàn toàn. Do đó vẫn khổ. Và khổ được coi la sự dữ.
Đó là điều hiển nhiên theo sự cảm nhận của người thường. Từ bao đời nay, loài ngưòi vẫn tìm cách tránh khổ và diệt khổ. Đức Phật dạy nếu diệt dục thì khỏi khổ. Còn giáo lý công giáo thì dạy rằng sự dữ là bởi tội mà ra. Có tội nên mới có sự dữ. Nay muốn tránh sự dữ thì phải triệt tội. Nhưng có những trường hợp triệt tội rồi mà sự dữ vẫn còn nơi những nguòi nhân đức ăn ngay ở lành như ông Gióp trong Cưu Ước hay rõ rệt và hùng hồn hơn cả là chính Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa. Người không có tội mà lại mang án phạt của tội là những sự đau khổ trong Cuộc Thương Khó và cuối cùng là cái chết thảm nhục trên thập giá. Thế nghĩa là thế nào ?
2  Sự dữ là một mầu nhiệm
Đã là mầu nhiệm thì bản chất là khó hiểu hay không hiểu được. Chúng ta biết có sự dữ và nó hoành hành khắp nơi. Ta muốn tránh xa và loại trừ nó nhưng không được. Vậy phải làm sao ?
2.1  Chúng ta chỉ giải quyết được sự dữ một phần nào nhờ dựa vào đức tin. Chúng ta tin rằng vì tội mà có sự dữ. Trước khi bất tuân lệnh Chúa, ông bà nguyên tổ được sống trong Vườn Địa Đàng, nơi không có sự dữ mà chỉ có sự lành. Chỉ khi bất tuân lệnh rồi, ông bà mới phải lãnh án phạt và truyền lại cho con cháu đến ngày nay. Chính Dức Ki-tô Giê-su đã xuống trần tình nguyện chịu cực chịu khổ, để gánh tội cho thiên hạ và nhờ đó, cứu chuộc loài người.
Đấng vô tội đã phải chịu tội do ý nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha, để dạy cho loài người một bài học về giá trị thanh luyện và đền tội của những sự đau khổ, nếu người ta vui lòng chấp nhận để đền tội mình và tội của những người khác, vì tội cũng như phúc có một chiều kích xã hội trong mầu nhiệm các thánh cùng thông công, nghĩa là tội của người này gây họa cho người khác và phúc của người này cũng mang lại sự may mắn cho người kia.
Tại sao Đức Giê-su lại tự nguyện chọn cho mình những sự đau khổ tuyệt độ và cái chết thảm thương như  thế ? Đó là vì loài người và để cúu rỗi chúng ta. Ở đời không có sự cao cả nào mà không phải hy sinh. Mà hy sinh thì phải trả giá. Tất cả những sự hy sinh của Đức Ki-tô là cái giá cao cả mà Người đã bỏ ra để cứu chuộc chúng ta.
Dù làm người mà phải cực phải khổ như nhiều người trong chúng ta, nhưng lại có niềm hy vọng lớn lao được ở trong Nước Thiên Chúa khi nhắm mắt lìa đời, thì còn hơn là cây cỏ gỗ đá tuy không phải khổ, nhưng không có được cuộc đời mai hậu tràn trề hạnh phúc như chúng ta. Ở đây chúng ta nên nhớ lại người giàu và người cùng khổ La-gia-rô. Ở đời thì La-gia-rô khốn khổ, nhưng sau khi chết rồi thì số phận đôi bên hoàn hoàn toàn đảo ngược.
Có những người vấn nạn rằng Thiên Chúa là Đấng giầu Tình Thương và đầy lòng trắc ản mà sao lại để cho xảy ra tai ương hoạn nạn như cháy rừng, động đất. lụt lội, sóng thần. dịch hach, hạn hán, nghèo khổ v.v… Thưa Thiện Chúa không để cho xảy ra, hay có chăng là để trừng phạt như đã trừng phạt loài người trong cơn lụt Đại Hồng Thủy, nhưng sau đó, Người đã dựng cầu vồng lên và hứa sẽ không trừng phạt như thế nữa. Tuy vậy, vẫn xẩy ra tai ương hoạn nạn, nhưng đó một phần là do sự vận hành của các yếu tố thiên nhiên, một phần do hành dộng của con người. Thiên Chúa tôn trọng trật tự thiên nhiên do Người đã đựng nên, còn loài người lại hành động xâm phạm đến sự hài hòa của mội trường tự nhiên, như phá rừng, làm nhiễm bầu khí quyển bằng các chất thải của các nhà máy, khiến cho khí hậu thay đổi. Nếu phá rừng thì lụt lội xẩy ra. Nếu không hạn chế khí thải thì khí hậu biến đổi, bầu khí quyển nóng lên, mực nước biển dâng cao.
Vì vậy, không đổ lỗi cho Thiên Chúa được vì ban đầu Người dựng nên, mọi sự đều tốt lành, như sách Sáng Thế nói.
Tóm lại, sự dữ là có thật và lan tràn trên mặt đất. Không thể dựa vào lý luận thông thường của loài người mà giải quyết được, nhưng phải căn cứ vào những lý lẽ siêu nhiên. Lý lẽ này chỉ có nơi những người  tin. Người tin thì cảm nghiệm được lòng thương xót của Chúa một cách vững vàng và xác tín..
Vậy, để kết luận bài giảng về Lòng Thương Xót, tôi có thể dưa vào câu : “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn” trong Tin Mừng theo Thánh Lu-ca chương 1, câu 78 và toàn chương 1 trong sách Tin Mừng này, qua hai bài thánh ca hết sức đặc biệt vẫn đươc đọc hàng ngày trong giờ Kinh Sáng và Kinh Chiều. Hai bài thánh ca đó thu tóm tất cả lòng thương xót của Chúa đối với Đức Mẹ Ma-ri-a và dân của Người là chúng ta. Ngoài ra là các lời Kinh Thánh rải rác ở nhiều nơi và đặc biệt trong các thánh vịnh.
Muốn thấm nhuần và xác tín về lòng thương xót của Chúa, chúng ta nên năng đọc và suy gẫm những lời trong hai bài thánh ca và những câu thánh vịnh như “Muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương”(Tv 83,6) hay “Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương cả ngàn đời” (Tv 29,5). Đây là những lời trong Kinh Thánh. Mà sách thánh là lời mặc khải, có gía trị chính xác và bền vững làm nền tảng cho lòng tin của chúng ta.
Vậy, chúng ta hãy tin vào lòng thương xót của Chúa và sẵn sàng đón nhận lòng thương xót ấy qua mọi cảnh huống của cuộc đời. Tin tưởng ở lòng thương xót, nhưng cũng phải bày tỏ ra bằng lòng yêu mến Chúa và thương xót đối với tha nhân cho xứng với danh hiệu là con cái Thiên Chúa. Mà đã là con thì cũng phải yêu mến như chính Chúa là Cha!

An Hạ 23-02-2016
An-rê Đỗ Xuân Quế.