Chuyện về nhà thơ Phùng Quán (1932-1995)


Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ.

Tôi muốn làm nhà văn chân thật, chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi.
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã !
Bút giấy tôi ai cướp giật đi,
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên vách đá !

Nhớ chị Bội Trâm- Đám cưới và đêm tân hôn.

Bữa trước mình ra Huế, anh Ngô Minh nhắc mình, nói mi mần chi thì mần, cố sắp xếp thời gian viếng mộ anh Quán chị Trâm. Anh Ngô Minh nhắc hơi thừa, mình đã viếng mộ anh Quán chị Trâm cách đó mấy ngày, trước khi bù khú với anh em văn nghệ Huế.

Nhờ sáng kiến của Ngô Minh, những người yêu mến Phùng Quán đã nhiệt tình hưởng ứng, khu mộ vợ chồng nhà thơ Phùng Quán đã được cất lên phía tây làng Thủy Dương (quê Phùng Quán) phía Nam thành phố Huế, đã trở thành một địa chỉ văn hóa của thành phố Huế cho khách thập phương, thật tuyệt vời.

Mình nhớ năm 1995, ngày đưa anh Quán về trời, an táng ở quê chị Trâm thuộc Nhổn huyện Từ Liêm. Đám tang giữa mưa xuân.Từ khi đầu đám cho đến khi hạ huyệt mình không khóc. Nhưng khi hạ quan tài, thấy cái huyệt ngập nước, quan tài lún dần trong nước mình đã bật khóc. Chị Bội Trâm cũng xỉu đi, có lẽ chị không chịu nổi khi thấy anh Quán phải nằm trong nước. Liền mấy năm sau đó, ngày giỗ anh Quán nào chị Trâm cũng nói chuyện với mọi người ước nguyện của chị là đưa anh Quán về Thủy Dương quê anh.

Chị nhắc đi nhắc lại hoài nghe thật sốt ruột. Từ khi anh Quán mất, chị mỗi ngày mỗi héo đi. Gặp mình lần nào cũng nói chuyện anh Quán, chỉ nói chuyện anh Quán không nói chuyện nào khác. Chị nói anh Quán đã cho chị sống như chị muốn, giờ anh mất rồi, chỉ một ước nguyện cuối cùng là đưa anh về Thủy Dương, mai mốt chị về trời, chị cũng muốn về Thủy Dương với anh Quán. Rồi ngước lên bàn thờ rưng rưng nhìn anh Quán, chị chép miệng nói biết hoàn cảnh mình không nhờ con được, chị đành trông cậy hết vào bạn bè.

Hai chục năm sau ước nguyện của chị Bội Trâm mới thành. Thực ra việc đưa anh Quán về quê không khó. Họ hàng nhà anh Quán đã xin làng Thủy Dương một mảnh đất làm khu mộ, bất kì khi nào chị Trâm muốn anh Quán về quê họ cũng sẵn sàng. Nhưng khi chị Trâm còn sống không ai nỡ đưa anh Quán về quê, chị ở Hà Nội anh nằm ở Huế sao đành. Ngày giỗ tết chị phải về Huế thắp hương, đường xá xa xôi rất vất vả cho chị. Hơn nữa khi chị Trâm còn sống, nếu đưa anh Quán về quê thế nào chính quyền cũng ra tay giúp đỡ, điều mà anh Quán không muốn. Cho nên hai năm sau ngày chị Bội Trâm về trời anh Ngô Minh mới bàn với họ hàng anh Quán đưa anh chị về Huế.

Anh Ngô Minh là người có công rất lớn trong việc đưa chị Trâm anh Quán về Huế, tạo nên khu mộ vợ chồng nhà thơ đầu tiên của cả nước. Vợ chồng về trời được xây mộ bên nhau thì nhiều nhưng đó là do con cái dựng nên, việc vợ một nhà nhà thơ được bạn bè và họ hàng nhà thơ kính cẩn rước về quê ở trong khu mộ của nhà thơ là chuyện xưa nay hiếm. Có lẽ chị Bội Trâm là người duy nhất được hưởng cái phúc này, bởi vì chị là vợ nhà thơ xưa nay hiếm.

Gia đình Phùng Quán

Chị Trâm bằng tuổi anh Quán, năm 23 tuổi chị là cô gái xinh đẹp phố Hàng Cân, là giáo viên văn trường Chu Văn An, trường học danh giá ở Hà Thành. Năm 1955 chị gặp và yêu anh Quán ngay trong năm đó, năm mà anh Quán vừa mang cái án Nhân văn giai phẩm. Anh Quán bị đuổi ra khỏi quân đội, năm trước vừa về Văn nghệ quân đội ở 4 Lý Nam Đế năm sau đã bị buộc phải rời khỏi 4 Lý Nam Đế.
Cuốn sách Vượt Côn Đảo được giải thưởng, nổi tiếng như cồn khắp cả nước cũng không cứu được anh, Hội nhà văn khai trừ anh khỏi hội. Từ nhà văn quân đội danh giá Phùng Quán bỗng trở thành kẻ vô gia cư, một homeless hưởng trợ cấp của Hội nhà văn mỗi tháng 25 đồng, tiền cơm bụi cho loại nhà văn bị treo bút. Thế cũng gọi là may, nhiều người bị tù đày, bị đuổi ra khỏi thành phố và không một xu trợ cấp.

Chuyện chị Bội Trâm yêu Phùng Quán gian nan thế nào có thể viết cả một cuốn sách. Chị Trâm không kể cho ai nghe, lần nào mình hỏi chị cũng chép miệng nói cực lắm em à, nhắc lại thêm buồn. Nhưng anh Quán thì kể, kể rất nhiều, cứ mỗi lần hai người cãi nhau, giận nhau vì chuyện gì đó anh Quán thường đem chuyện chị Trâm quyết lấy anh kể cho mọi người như là lý do vì sao họ không thể chia tay nhau được.

Thời đó nghe mấy tiếng “bọn nhân văn” ai nấy đã dựng tóc gáy nổi da gà, việc chị Trâm quyết yêu anh Quán đúng là chuyện lạ. Nhà trường kiểm điểm, gia đình ruồng bỏ, họ hàng bà con ai ai cũng phản đối. Mẹ chị uất quá, vừa khóc vừa mắng chị, nói lấy chồng như thế thì thà nhảy nhảy xuống giếng cho xong. Chị Trâm vẫn không nao núng, nói con đã yêu anh Quán nên con không thể yêu người khác. Nếu bố mẹ không cho con lấy, con xin vâng lời, nhưng con sẽ không lấy người đàn ông nào khác nữa. Cuối cùng bố mẹ chị cũng phải xuống thang cho cưới.

Thực ra anh Quán chị Trâm được đăng kí kết hôn thôi còn lễ cưới đã không xảy ra. Trăm sự vì cái tên Phùng Quán. Họ sợ cái tên Phùng Quán có trong thiệp cưới liệu có mấy ai dám đến dự? Bạn bè anh Quán hầu hết đã cắt đứt quan hệ, lặn một hơi không sủi tăm, anh này chê anh kia hèn nhưng hễ gặp anh Quán anh nào cũng mắt trước mắt sau chuồn lẹ. Bạn bè văn nghệ vẫn gần gũi với anh Quán trong những ngày hoạn nạn như nhà thơ Tạ Vũ, nhà báo Xuân Đài, họa sĩ Lê Huy Quang, nhà báo Xuân Trung… thật là hiếm.

Phông chính đám cưới thời đó thường có đôi bồ câu cắp mỏ nhau, tên cô dâu chú rể được treo lên đấy. Nếu đám cưới xảy ra, bà con hai họ thấy cái tên Phùng Quán, “phần tử chống Đảng”, liệu có ai dám bước vào hôn trường nữa không? Hơn nữa đang khi chính quyền đang phê phán bọn nhân văn mà một phân tử nhân văn lại tổ chức đám cưới ngay trước mũi chính quyền, khác nào thách đố nhau.
Nghĩ vậy nên họ không làm đám cưới, chỉ gửi cầu trau báo hỉ, cũng chỉ báo hỉ tên chi Trâm: “Trầu cau chạm ngõ của cô Trâm”, ngay cái từ cưới cũng không dám dung, chỉ dám nói “ra riêng”. Anh Ngô Minh tìm được cái thiệp báo hỉ do họa sĩ Lê Huy Quang vẽ, “mặt trước là hai bông hoa do bạn thân, họa sĩ Lê Huy Quang vẽ, mặt sau có đôi chim bồ câu và mấy chữ của Phùng Quán viết tay . Đây là thiếp báo tin gửi cho cô giáo Mai Thị Từ của chị Trâm :” Chúng em đã ra ở riêng ngày 12-1-1962. Chúng em nhờ những bông hoa này mang tin vui đến với cô. Mong cô chia vui và mừng cho hạnh phúc của chúng em”.

Anh Ngô Minh đã nói về đám cưới anh Quán chị Trâm thế này: “Chị Vũ Bội Trâm có lẽ là người con gái Việt Nam duy nhất lấy chồng không có lễ tơ hồng, không đám cưới, không được mặc áo cưới, không lên xe hoa, không có đưa dâu, không có phòng tân hôn sang trọng, không chụp ảnh, quay phim…như các đám cưới bình thường khác…” Nghe mà ứa nước mắt. Vợ chồng Phùng Quán tổ chức tiệc cưới tại nhà bà Tưởng Dơi, mẹ nuôi của Phùng quán.




Bữa tiệc có vợ chồng Tạ Vũ và hai nhà báo Xuân Đài, Xuân Trung. Anh Ngô Minh kể Phùng Quán ra chợ mua hai con gà, ra Hồ Tây câu trộm ít cá, cùng với mấy lít rượu kí nợ nhà bà Hai Hạnh…thế là thành bữa tiệc. Mình hỏi anh Quán, anh cười, nói đâu có, mọi việc do bà mẹ nuôi lo cả. Sau này mới cá trộm rượu chịu văn chui chứ khi đó chẳng dám làm gì, chỉ biết trông vào 25 đồng trợ cấp của Hội nhà văn, cực lắm.




Sau bữa tiệc là đêm tân hôn. Nhà bà Tưởng Dơi nhỏ hẹp, chỉ hơn chục mét vuông chỉ có hai cái giường đơn, loại giường tập thể hồi đó rộng chừng một mét, dài chừng mét sáu, anh Quán một giường, bà Tưởng Dơi một giường. Bữa đó Tạ Vũ say, phải ngủ lại không về được, bà Tưởng Dơi phải nhường giường cho họ, bà nằm võng. Vì nhà chỉ hơn chục mét vuông, để có khoảng không mắc võng, hai cái giường phải xếp lại gần nhau. Đêm tân hôn vợ chồng Phùng Quán nằm sát giường vợ chồng Tạ Vũ.




Họ nằm im bên nhau, không dám ôm nhau, không dám hôn nhau dù là cái hôn rất khẽ. Họ nằm ngửa, tay nắm chặt tay thở đều cố làm như mình đang ngủ ngon, kì thực trắng đêm không ai chợp mắt.

Đó là đêm tân hôn có một không hai khắp thế gian này.




Nhớ chị Bội Trâm, thời rượu chịu cá trộm văn chui



Mình kể chuyện chị Bội Trâm làm vợ cho nhiều cô, bà nghe. Ai cũng cảm phục tấm lòng của chị nhưng khi hỏi họ: nếu rơi vào hoàn cảnh như chị Bội Trâm thì cô bà có làm được như chị không, đa số đều trả lời không, không dám và không muốn. Mình cho chị Trâm biết, chị cười, nói chị cũng không dám và không muốn, chẳng qua trời khiến thì chị phải sống thôi. Mình hỏi nhỏ chị, nói em hỏi thật chị nhé, sống với anh Quán chị có thấy hạnh phúc không. Chị im lặng hồi lâu rồi thì thầm, nói nhiều lần anh Quán hỏi chị vậy, lần nào chị cũng chỉ một câu trả lời: "nếu không hạnh phúc em đã bỏ anh lâu rồi."




Mình cũng đã nghe nhiều cô, bà nói với mình như vậy, bà xã nhà mình cũng nói với mình như vậy, hi hi… Nhưng làm được như chị Bội Trâm khó có ai dám. Suốt cả cuộc đời ngụp lặn trong túng thiếu ( cả tình cảm lẫn vật chất) để tìm kiếm hạnh phúc, trong số phụ nữ mình quen biết chắc chỉ có chị Bội Trâm, không còn ai.




Cưới xong anh Quán phải đi lao động cải tạo ở Thái Bình, Thanh Hoá, Việt Trì. Chẳng ai buộc anh phải đi cải tạo cả, Hội nhà văn, Bộ văn hóa muốn Phùng Quán trở thành nhà văn tốt nên động viên anh đi thôi, hi hi. Thời đó nó hồn nhiên như thế, nhà văn tài không quan trọng bằng nhà văn tốt, nhà văn tốt là nhà văn biết ba cùng với nông dân. Bác Tô Hoài kể Phùng Quán trở thành “vua phân bò” từ đó, những ngày ba cùng ở Thái Bình anh nhặt phân bò tài đến nỗi hố ủ phân vừa đào xong đã đầy, dân không kịp đào hố ủ cho Phùng Quán.




Mọi người phong Phùng Quán là “vua phân bò”, anh phấn khởi lắm, nói nhờ rứa mà văn Phùng Quán khỏi bị thối như phân. Anh còn xung phong lên rừng núi Thái Nguyên suốt ba năm liến, một mình canh mấy hecta ngô khoai sắn của cơ quan. Mình hỏi anh Quán, nói anh xung phong thiệt à? Anh cười cái hậc, nói người ta gợi ý mình xung phong thì mình xung phong chớ răng. Chẳng ai ép mình, chỉ nói tùy đồng chí thôi, nhưng thời đó cái chữ tùy dễ sợ lắm.




Trong suốt mười năm sau ngày cưới, chị Trâm ở nhà mẹ phố Hàng Cân, anh Quán đi cải tạo lao động thỉnh thoảng về nhà mẹ nuôi là bà Tưởng Dơi, vợ chồng lại gặp nhau ở đấy, bí mật lén lút như đang yêu vậy. Ngay cả khi có hai mặt con, cái Quyên và thằng Quân, anh chị cũng chỉ dám hẹn hò gặp nhau ở nhà bà Tưởng Dơi, chưa dám công khai cho mọi người biết, “phần tử chống đảng” dễ sợ vậy đó.




Anh Quán đi cải tạo chị Trâm một mình nuôi hai đứa con, đến khi anh Quán trở về, chị còn phải nuôi thêm anh Quán. Nuôi thêm anh Quán tức là nuôi thêm bạn bè của anh Quán nữa. Từ khi trường Chu Văn An thương tình cho vợ chồng anh Quán ở tạm nơi chứa đồ mộc thí nghiệm của nhà trường, có chỗ chui vào chui ra, nhà chị không khi nào ngớt khách, luôn luôn có ít nhất một bạn anh Quán ăn ở trong nhà anh chị. Lương giáo viên cấp 3 chỉ dùng được một tuần là hết, thỉnh thoảng anh Tuân Nguyễn, anh Xuân Đài lấy một phần lương của họ đưa cho chị Trâm nhưng cũng chỉ như muối bỏ bể, không ăn thua.









Nhiều lần tan lớp chị Trâm đứng ở cổng trường, ngẩn ngơ không biết phải đi đâu, làm gì có được một, hai đồng đi chợ. Tất cả những gì bán được đều đã bán, tất cả những ai vay được đều đã vay, phòng tài vụ đã cho ứng trước mấy tháng lương rồi, không thể ứng thêm được nữa. Khi đó chỉ có khóc, trông chờ ông Bụt hiện ra hỏi vì sao con khóc, chẳng có cách nào khác. Chị Trâm không khóc, ông Bụt cũng không hiện ra, nhưng lần nào cũng vậy, cái số “có quí nhân phù trợ” đã giúp chị qua được cơn bĩ cực. Thế nào rồi cũng có người đi qua, khi thì bạn chị khi thì bạn anh Quán, nói đứng làm gì đó hả con kia, sao trông cái mặt như mặt mất sổ gạo thế hả? Rồi người đó dúi cho một hai đồng, rất nhiều lần như thế.




Cũng rất nhiều lần cầm một hai đồng về nhà chị thấy trong nhà vài ba người khách, bữa cơm rượu hèn lắm cũng phải mất năm sáu đồng. Chị cứ xách giỏ đi liều ra chợ, hy vọng cái số “ có quí nhân phù trợ” sẽ giúp chị. Nếu hỏi nếu chẳng ai giúp thì sao, chị cũng chỉ biết cười trừ, chị hoàn toàn không có câu trả lời. Trời đã trả lời giúp chị, đúng vậy, trời đã giúp chị, chưa khi nào chị phải xách giỏ không trở về.




Một lần bà hàng cá thấy chị đứng tần ngần trước mớ cá chép, lật đi lật lại cái đầu cá mà không dám hỏi giá, hỏi làm sao khi túi chị chỉ còn có hơn một đồng. Mãi rồi chị cũng phải đứng dậy bỏ đi. Bà hàng cá liền gọi giật hỏi nhỏ, nói "vợ Phùng Quán phải không"? Và rồi con cá chép hai cân có người mua bốn đồng rưỡi không chịu bán đã lọt vào cái giỏ nhựa rách của chị. Chị xách con cá ra khỏi chợ không biết mơ hay thực nữa, lâu lâu lại nhìn vào giỏ, chỉ sợ con cá tự dưng biến mất.




Anh Quán nghe chị Trâm kể cảm động lắm, quyết ra Hồ Tây câu trộm một con cá chép hai cân trả ơn bà hàng cá. Không câu được cá chép hai cân, bù lại anh câu được sáu con cá mè và hai con cá chuối, con nào con ấy cỡ một cân. Chị mang hết ra tặng lại bà hàng cá. Bà hàng cá mừng lắm, trả chị mười hai đồng, nói ơn nghĩa là đây, em giúp chị có cá bán buôn là may cho chị lắm rồi. Từ nay chị em mình dựa vào nhau mà sống. Nghề cá trộm của Phùng Quán bắt đầu từ đó.




Còn văn chui thì thế nào? Chị Bội Trâm mỉm cười, nói cũng nhờ bác Thanh Tịnh cả đấy. Trước đó anh Quán chẳng dám nghĩ đến cái nghề văn chui đâu, nhờ bác Thanh Tịnh bày cho đấy.




Chuyện là thế này.

Xưa làm ở Văn nghệ Quân đội, Phùng Quán vẫn hay hầu rượu hầu trà Thanh Tịnh, họ là đồng hương Thừa Thiên- Huế. Sau vụ Nhân văn giai phẩm, Thanh Tịnh là người duy nhất trong Văn nghệ quân đội vẫn quan hệ với Phùng Quán (là nói thời kì đầu, về sau còn có Tào Mạt), ông vẫn hay đến nhà Phùng Quán chơi, thân thiết cả hai vợ chồng.




Một hôm chi Bội Trâm đạp xe về phố Hàng Cân, dọc đường gặp Thanh Tịnh đang đi bộ trên vỉa hè, bác vẫy chị dừng xe, nói tao nghe nói thằng Quán rượu chè ghê lắm, tiền rượu chịu lên bạc nghìn có phải không? Chị giật mình ngạc nhiên, nói đâu có anh, anh Quán có rượu chịu nhưng chỉ năm bảy chục một trăm đồng là anh í trả thôi mà. Thanh Tịnh lắc đầu nhăn mặt, nói cô còn bao che cho chồng nữa. Chúng nó bảo tiền rượu lên tới ngàn hai rồi đó, có bán nhà cô chú cũng không đủ trả.




Chị Trâm thất sắc chạy về nhà bà chủ hàng rượu, cái cột nhà vạch vôi chi chít, cứ một lít là một vạch, có đến hàng trăm vạch như thế, tính ra chừng bốn trăm đồng. Chị thở phào nhẹ nhõm, bốn trăm còn hy vọng trả được chứ nghìn hai thì chắc chết. Bà chủ chỉ cho chị Trâm ba cột khác đầy vạch, nói còn ba cột năm ngoái đây nữa cô Trâm ơi. Chị hoa mắt, suýt té xỉu. Chị về nhà ngồi khóc một mình không biết ngỏ cùng ai. Anh Quán hiếu khách. Hễ có khách là có rượu, ngày nào cũng vài ba khách, tích tiểu thành đại giờ lên đến ngàn hai trăm đồng. Thất kinh. Cái nhà mặt tiền phố Huế lúc đó cũng giá nghìn hai trăm đồng chứ bao nhiêu đâu.




Vừa lúc Thanh Tịnh đến chơi, thấy chị khóc ông mắng át đi, nói khóc có ra tiền ra bạc được không? Lôi đống bản thảo thằng Quán cho tao xem may ra có thể in được cái gì. Chị Trâm càng khóc to hơn, nói anh ơi anh Quán bị treo bút, ai cho in mà in. Thời buổi nhất thân nhì quen này lấy tên người lạ người ta không in cho đâu. Anh Tịnh cốc đầu chị Trâm, nói vợ chồng chúng mày ngu lắm, không cho lấy tên thằng Quán thì lấy tên bạn bè thằng Quán, ít nhất cũng có tên tao. Tao cho nó mượn tên cả đời.




Anh Quán về nhà, chị Trâm kể cho anh nghe, anh nhảy lên hú mấy tiếng, nói sáng kiến sáng kiến, Thanh Tịnh muôn năm! Hôm sau anh Quán ôm chồng kí sự Vĩnh Linh đất lửa đến nhà Thanh Tịnh, nói chọ ni được mấy trăm đồng? Thanh Tịnh ngắm nghía gật gù, nói chọ ni được chừng tám trăm. Mày về viết thêm cuốn Nghệ thuật viết tấu và đọc tấu nữa, ráng bôi ra hơn trăm trang cũng được bốn trăm đồng, vừa đủ trả nợ tiền rượu. Anh Quán nói cuốn ấy có đặt người ta mới in, mình tự viết không ai in cho đâu. Anh Tịnh cú đầu anh Quán, nói ngu lắm. Mày không nhớ tao là cây tấu nổi tiếng à. Nhà xuất bản văn hóa đặt tao viết cả năm rồi nhưng tao nhác chưa viết được, mày viết đi.




Mấy tháng sau hai cuốn sách lấy tên Thanh Tịnh ra đời, Thanh Tịnh tự đến Nhà xuất bản lấy nhuận bút đưa cho chị Trâm. Anh Quán biện mâm rượu nhỏ đội đến nhà Thanh Tịnh, anh quì sụp xuống vái Thạnh Tịnh ba vái, nói sư huynh đã chỉ cho em con đường sống, đội ơn sư huynh suốt đời.




Cái nghề văn chui của Phùng Quán cũng bắt đầu từ đó, cũng từ đó anh Quán chị Trâm sống trong nơm nớp lo sợ. Lo bà chủ hàng rượu đòi nợ bất ngờ, chưa bao giờ bà đòi nợ anh Quán cả nhưng phàm đã mắc nợ không thoát được sự lo. Lo nhất vẫn là lo trộm cá bị bắt, văn chui bị phát hiện. Ba chục năm sống trong nơm nớp, nghe tiếng chó sủa lạ cũng giật mình thon thót, khổ thân anh Quán chị Trâm.




Sau ngày anh Quán mất, mình nghĩ chị Bội Trâm sẽ khó khăn về kinh tế nên cố tìm mọi cách tái bản sách anh Quán để chị có thêm đồng vào đồng ra. Bộ Tuổi thơ dữ dội được Nhà xuất bản Kim Đồng in thành 6 tập rất đẹp, nhuận bút tính kịt tường, mình mừng lắm vội vàng đem lên cho chị.




Chị Trâm ôm bộ sách đặt lên bàn thờ, nói "anh ơi, nhà Kim Đồng vừa in Tuổi thơ dữ dội đẹp chưa này. Mình đưa nhuận bút cho chị, chị đặt lên bàn thờ, nói Lập nó đưa nhuận bút đây anh, nhiều thế này em tiêu làm sao hết. Vừa nói xong chị bật khóc, ngồi run rẩy bên bàn thờ không nói được câu nào nữa."




Sau rồi chị tâm sự, nói ngày anh Quán mất, anh em bạn bè cúng rất nhiều tiền, đến mấy chục triệu chứ không ít. Một mình chị Trâm chỉ tiêu hết 5 ngàn một ngày, lương hưu tiêu hảy còn thừa, chị không biết làm gì với mấy chục triệu tiền cúng. Mình cười, nói chị lo bò trắng răng, lo gì lại lo thừa tiền. Chị xua tay, nói không không, ý chị không phải vậy. Mình hỏi sao. Chị ngồi thừ hồi lâu rồi khẽ thở dài, nói mấy chục năm sống với anh Quán không một ngày nào chị không mơ có được nhiều tiền nhưng không bao giờ có. Bây giờ có nhiều tiền rồi anh Quán lại bỏ chị mà đi.




Chị ngồi run rẫy bên bàn thờ, ngước nhìn anh Quán, nước mắt dàn dụa.




NQL

(Nguyển Quang Lập? Quê Cho...a G2)