Giáo Hội Công Giáo Dưới Cái Nhìn của Một Ký Giả Hoa Kỳ

John Allen là một ký giả Công Giáo kỳ cựu, hiện là chủ bút của trang mạng Crux: Taking the Catholic Pulse, chuyên về tin tức liên quan tới Giáo Hội Công Giáo, trong hợp tác với Hội Hiệp Sĩ Columbus. Trước khi cộng tác với tờ Boston Globe năm 2014, Allen làm việc 16 năm tại Rôma, chuyên đưa tin về Tòa Thánh và Đức Giáo Hoàng. Trong thời gian này, ông là phóng viên cao cấp cho tờ National Catholic Reporter và là phân tích gia về Vatican sự vụ cho CNN và NPR và được mọi người coi là “Chuyên Viên Hàng Đầu về Vatican của Hoa Kỳ”.

Allen cũng là tác giả của nhiều cuốn sách về Giáo Hội Công Giáo. Ông từng viết hai cuốn tiểu sử về Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI. Cuốn đầu xuất bản năm 2000 lúc ngài còn là Hồng Y Joseph Ratzinger, cuốn sau là cuốn tiểu sử đầu tiên bằng tiếng Anh viết về tân giáo hoàng.

Năm 2005, nhận định về Allen, Kenneth L. Woodward, cựu chủ bút về tôn giáo của Newsweek, viết rằng: "ngoài chính phủ Bắc Triều Tiên ở Bình Nhưỡng ra, không nền hành chánh nào khó cho một nhà báo chọc thủng bằng nền hành chánh của Vatican. Và không ai làm điều này tốt hơn John Allen Jr. … Chỉ trong 3 năm, Allen đã trở thành nhà báo mà các phóng viên khác, và không ít các vị Hồng Y, phải chạy đến nếu muốn biết những câu truyện bên trong về việc các nhân viên của Đức Giáo Hoàng đã hướng dẫn Giáo Hội lớn nhất thế giới ra sao”. Theo tờ The Tablet ở London, Allen là “người viết về Vatican có thẩm quyền nhất trong ngôn ngữ tiếng Anh”.

Năm 2013, Allen cho xuất bản cuốn “Giáo Hội Công Giáo, Những Điều Mọi Người Cần Biết” do nhà xuất bản Oxford University Press ấn hành. Trong cuốn sách này, ông đề cập cùng một lúc tới quá khứ, hiện tại và tương lai của Giáo Hội Công Giáo Rôma bằng cái nhìn của một nhà báo với một văn phong dí dỏm, giản dị, dễ đọc, quân bình và lôi cuốn, không ngại giải thích những hiểu lầm và sẵn sàng bênh vực những điều cốt chính, dĩ nhiên dưới viễn ảnh Hoa Kỳ.

Ngoài phần dẫn nhập, sách gồm 12 chương với các đề tài: Tổng Quan về Giáo Hội Công Giáo; Các Thăng trầm lịch sử; Giáo Hội bên ngoài “Giáo Hội”; Đời Sống Tâm Trí; Thờ Phượng; Thiên Thần, Ma Qủy, và Các Thánh; Đức Tin và Chính Trị; Đạo Công Giáo và Tình Dục; Đạo Công Giáo và Tiền Bạc; Khủng Hoảng và Tai Tiếng; Rôma và Hoa Kỳ; Các Biên Cương Mới. Trong lần tái bản mới đây, ông thêm Chương 13 về Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

Chúng tôi lần lượt lược dịch nội dung cuốn sách này vì tính thông tin, soi sáng và thời sự của nó.
Dẫn Nhập


Giáo Hội Công Giáo tự dành cho mình nhiều tước hiệu đẹp đẽ. Trong nhiều thế kỷ qua, Giáo Hội này tự mô tả mình như là “Nhiệm Thể” Chúa Kitô, “Nàng Dâu Không Tì Vết” của Con Thiên Chúa, và là “Đền Thờ của Chúa Thánh Thần”, con đường duy nhất dẫn tới cứu độ. Những niềm tin này dựa trên đức tin tôn giáo, “chứng cớ của những điều không trông thấy” như Tân Ước vốn nói, và từ định nghĩa, vốn không thể chứng thực hay chứng giả được. Tuy nhiên, trên bình diện hoàn toàn phàm nhân, thì cái tước hiệu mà Giáo Hội Công Giáo xem ra hết sức xứng đáng là: Nó là Cuộc Trưng Bầy Vĩ Đại Nhất trên trần gian.

Không có gì giống như Đạo Công Giáo Rôma về bi kịch, bất luận người ta tin gì về tư thế siêu nhiên của nó. Không lực lượng nào trên quả địa cầu này trộn lẫn mầu nhiệm với mưu đồ, nghi lễ với thêu dệt, nghệ thuật, văn hóa, chính trị, lịch sử, những đỉnh cao lớn nhất của tinh thần con người với những điển hình gây khó chịu hơn cả của giả hình và thối nát, tất cả trộn lẫn thành một cảnh tượng lôi cuốn không cùng. Đạo Công Giáo lôi cuốn cả sự sùng mộ tôn kính lẫn sự ghét bỏ cao độ với cùng một mức độ gần như nhau; với cả hai tâm tình này, người ta không thể nào làm ngơ Giáo Hội này. Hãy cố tưởng tượng xem có định chế nào khác lại gợi hứng cho cả Quyền Lực và Vinh Quang của Graham Greene lẫn The Da Vinci Code của Dan Brown, hay có thể kích thích cả Beethoven sáng tác Thánh Lễ theo điệu C trưởng hết sức huy hoàng lẫn ca sĩ Ái Nhĩ Lan Sinéad O’Connor xé toạc bức hình của Đức Gioan Phaolô II trong lần trình diễn Saturday Night Live năm 1992.

Chắc chắn trên đây là một so sánh mà các giới chức Công Giáo không ưa thích mấy, nhưng nó vẫn phần nào nắm được một điều gì đó về vị trí độc đáo mà Đạo Công Giáo chiếm được trong cảnh vực văn hóa. Một cuộc thăm dò thính giả đông đảo trên đài truyền thanh của Howard Stern có lần cho thấy số thính giả này bao gồm cả những người thích nghe các bỡn cợt mua vui lẫn những người ghét bỏ ông, và nơi cả hai loại thính giả này, lý do hàng đầu khiến họ mở chương trình phát thanh của ông là để nghe ông nói tiếp những gì. Theo nghĩa này, bất chấp các thế giới quan hết sức khác nhau do Stern và Giáo Hội đại diện, họ vẫn có một điều gì đó chung với nhau. Bất chấp người ta hoan hô hay ghê tởm Giáo Hội, họ vẫn không thể nào không “mở đài” để xem xem những người này nói gì sắp tới.

Hạn từ “Công Giáo” có nghĩa là “phổ quát”, và Giáo Hội Công Giáo chắc chắn rất thích đáng với định nghĩa này. Nhờ tuân theo lệnh truyền của Chúa Kitô “các con hãy ra đi và làm muôn dân trở thành môn đệ Thầy”, Giáo Hội Công Giáo đã trở thành một trong khá ít định chế thực sự có tính hoàn cầu của thế giới, bén rễ gần như ở khắp mọi nơi. Tính đến năm 2012, có 1.2 tỷ người Công Giáo trên thế giới, làm cho Đạo Công Giáo trở thành tôn giáo lớn nhất thế giới, và chắc chắn được tổ chức quy củ hơn hết. (Cả Hồi Giáo lẫn Ấn Giáo cũng có số tín hữu hơn 1 tỷ người, nhưng cả hai bao gồm nhiều trường phái và phong trào, không có điểm qui chiếu và thẩm quyền đơn nhất như Đạo Công Giáo có nơi vị giáo hoàng).

Đầu thế ký 21 là thời tốt nhất mà cũng là thời tệ nhất đối với Giáo Hội phổ quát này. Ở Âu Châu và Bắc Mỹ, Đạo Công Giáo thấy mình vướng phải một loạt tai tiếng lạm dụng tình dục thật kinh hoàng, làm hư hại hình ảnh công cộng và thế giá luân lý của mình (chưa kể thiệt hại tài chánh). Giáo Hội cũng đương đầu với nhiều chia rẽ quan trọng trong nội bộ cũng như việc dần dần mất hàng loạt tín hữu tại những nơi vốn là thành lũy của mình. Riêng tại Hoa Kỳ, hiện có 22 triệu người cựu Công Giáo, làm cho những người này trở thành một bộ phận tôn giáo lớn hàng thứ hai tại nước này.

Ấy thế nhưng, cũng đang có nhiều dấu hiệu cho thấy có sự hồi sinh, nhất là trong thế giới đang phát triển. Đạo Công Giáo đang lớn mạnh một cách đầy phấn chấn tại những nơi như Ấn Độ và Hạ Sahara Phi Châu. Trong thế kỷ 20, số người Công Giáo ở Phi Châu tăng từ 1.9 triệu người lên 130 triệu người, một tỷ lệ gần như 7000 phần trăm. Ngay tại Hoa Kỳ, hiện có gần 6 triệu người lớn trở lại Công Giáo, điều này càng gây ấn tượng khi nhớ rằng tôn giáo này bị báo chí và truyền thông tới tấp tấn công trong suốt một thập niên qua.
Nếu sòng bài ở Las Vegas có mở một đường đánh cuộc liệu phần còn lại của thế kỷ này sẽ là thời thịnh hay thời suy cho Giáo Hội Công Giáo, thì vào lúc này đây, khó có thể nói người khôn sẽ đặt tiền của họ về phía nào.

Giáo Hội Công Giáo, trước đây, từng đối diện với những thời khắc khủng hoảng sâu xa, bất luận là những cuộc đấu tránh qui mô giữa các vị giáo hoàng và các nhà vua thời Trung Cổ, hay các Nhà Thệ Phản Cải Cách trong thế kỷ 16, hay việc Napoleon bắt giam Đức Giáo Hoàng Piô thứ VII năm 1809. Dù là điều gì, Giáo Hội này cũng vẫn đã vượt qua được. Ngay những người Công Giáo có nhiệt tâm hơn cả cũng đôi lúc lấy làm lạ cách Giáo Hội sống thoát, đôi khi khỏi các quyết định trì độn hoặc thiển cận của những người lãnh đạo. Nhà văn Công Giáo cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 là Hilaire Belloc có lần đã mô tả Giáo Hội Công Giáo là “một cơ sở được quản trị một cách ngu đần đến nỗi nếu nó không phải là công trình của Thiên Chúa, nó không thể tồn tại quá hai tuần lễ”. Vận may của Giáo Hội trong thế kỷ mới này, phần nào đó, sẽ tùy thuộc việc các nhà lãnh đạo của nó có ứng phó được các thách đố được phác họa trong sách này hay không.

Tại sao Giáo Hội lại quan trọng?

Đối với người Công Giáo, ngẫm nghĩ về số phận Giáo Hội của họ không phải là một thao tác đòi phải biện minh. Bất chấp họ có hòan toàn chấp nhận tuân theo nền thần học chính thức hay không, phần đông người Công Giáo, ngay trong xương thịt, đều cảm nhận điều này: Giáo Hội là nơi họ gặp gỡ Thiên Chúa, nơi niềm khát khao thần linh và siêu việt của họ được thỏa mãn. Nó là nhà thiêng liêng của họ, là gia đình của họ. Dù Đạo Công Giáo vốn dĩ là một tôn giáo truyền giáo, luôn tìm kiếm các tân tòng, nhưng, xét về nhiều cách, nó cũng là một tôn giáo truyền thống và của tổ tiên, theo nghĩa phần lớn các thành viên đều sinh trưởng trong đó. Ngay những người Công Giáo bỏ đạo đôi lúc cũng cảm nhận được sức lôi kéo của nó, một tâm tư từng được nắm bắt trong “Portrait of the Artist as a Young Man” của James Joyce, trong đó, nhân vật chính, Stephen Dedalus, tuyên bố với một người bạn rằng mình đã mất đức tin. Khi người bạn hỏi xem anh có ý định trở thành một người Thệ Phản hay không, thì Stephen trả lời: “tôi nói tôi mất đức tin, chứ đâu có nói tôi mất lòng tự trọng”.
Tuy nhiên, đối với người không phải là Công Giáo, rất có thể không hiển nhiên đến thế khi dùng thì giờ khai triển một hiểu biết nào đó về Đạo Công Giáo. Bởi thế, sau đây là ba lý do tại sao mọi người nên biết ít nhất một điều gì đó về Đạo Công Giáo.

1. Tôn giáo không biến mất

Dù người bất khả tri hay vô thần dấn thân nhất đi nữa cũng phải nhìn nhận rằng những tiên đoán chắc nịch mới được đưa ra gần đây về sự xuống dốc không thể nào tránh được của tôn giáo đã bị chứng minh là sai lầm một cách không ngờ. Thay vào đó, cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 đã chứng kiến một sự tái xuất hiện tôn giáo rất mạnh mẽ như là lực đẩy chính trong nhân bản sự vụ. Có lẽ chúng ta nên định thời biểu cho việc phục hồi tôn giáo này trong khoảng 12 tháng giữa các năm 1978 và 1979, khi Đức Gioan Phaolô II được bầu làm giáo hoàng của Giáo Hội Công Giáo, do đó đã khởi động cả một chuỗi domino, dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng Sản, và khi Ayatollah Khomeini, như vũ bão, nắm quyền lực tại Itan, khởi động nhiều làn sóng phục hung Hồi Giáo khắp thế giới. Chúng ta cũng có lý khi thêm việc bầu Ronald Reagan làm tổng thống sau đó không lâu; ông chính là ứng cử viên tổng thống đầu tiên thời hiện đại minh nhiên coi các cử tri tôn giáo như yếu tố cốt lõi cho căn cứ chính trị của mình.

Đôi khi sức mạnh của xác tín tôn giáo có tính phá hoại, điển hình hiển nhiên nhất chính là cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9. Nhưng trong các dịp khác, xác tín này có tính gợi hứng, như cuộc tranh đấu bất bạo động của Dalai Lama chống đàn áp của Trung Quốc ở Tây Tạng. Dù sao, sự kiện thực nghiệm hết sức vững vàng vẫn là: đại đa số người trên địa cầu này có những niềm tin tôn giáo mạnh mẽ, và các niềm tin này, dù xấu hay tốt, đều ảnh hưởng tới cách người ta dấn thân vào thế giới. Năm 2003, David Brooks cho đăng một bài trên tờ Atlantic Monthly, nhận định rằng giai cấp ưu tú thế tục (như những người biên tập của tờ báo này) bị quên lãng là do sức mạnh của tôn giáo. Ông viết: “Cả một thác Niagara vĩ đại của lòng sùng mộ tôn giáo ập xuống quanh họ, trong lúc họ đứng trì độn và khô cằn trong chiếc hang nhỏ của óc hẹp hòi bản thân”.

Dưới góc độ trên, khảo sát các thực tại hiện nay và các viễn tượng tương lai của một cơ chế tôn giáo lớn nhất và được tổ chức tập quyền hơn hết trên trái đất này, ít nhất, cũng là điều bắt buộc đối với bất cứ ai muốn hiểu thế giới, hệt như họ muốn hiểu Liên Hiệp Quốc, hay Tòa Bạch Ốc, hoặc Microsoft.

2. Thông thạo văn hóa

Hơn 2,000 năm nay, Kitô Giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo Rôma nói riêng, vốn là một trong các cột trụ chính của nền văn minh Tây Phương. Không tài nào hiểu thấu nghệ thuật, âm nhạc, văn chương, hoặc lịch sử Tây Phương, nếu không ít nhất nắm được những điều căn bản của Đạo Công Giáo. Bạn sẽ thấy các dấu chân lớn nhỏ của nó khắp các nẻo đường khác nhau cho tới cả ngôn ngữ ta đang nói. Đây là một thí dụ rất thường thấy: khi các nhà ảo thuật nói “hocus pocus” lúc rút con thỏ từ chiếc nón ra, họ đã vô tình nhắc đến Thánh Lễ của người Công Giáo. Vì một số người cho rằng câu này là kiểu nói bồi của công thức Latinh: Hoc est corpus meum (Này là Mình Ta) được linh mục đọc khi “truyền phép”. Nói một cách có lịch sử hơn, khi một chính khách nói tới việc phát động “một thập tự chinh” (crusade) chống thuế khóa, kỳ thị chủng tộc, hay ma túy, thì họ quả đang nhắc đến các Thập Tự Chinh nguyên thủy thuộc các thế kỷ thứ mười và thứ mười một, khi các quân vương và hiệp sĩ Âu Châu, được Đức Giáo Hoàng hỗ trợ, đã khởi động một cuộc chiến tranh phương xa để lấy lại Đất Thánh từ tay người Hồi Giáo.

Trên một bình diện sâu hơn, sự thành thạo về Công Giáo là một đòi hỏi có tính căn bản đối với bất cứ cố gắng nào nhằm làm cho cảm thức về quá khứ và hiện tại của ta thành có nghĩa. Chẳng hạn, bạn sẽ không thể nào hiểu được ý niệm thời danh của Max Weber về “nền đạo đức Thệ Phản về việc làm” như lực đẩy chính đứng đàng sau chủ nghĩa tư bản, nếu không có một thông tin nguồn nào về cuộc tranh cãi nổi tiếng giữa người Công Giáo và người Thệ Phản về việc liệu đức tin hay việc làm là chìa khóa dẫn vào ơn cứu rỗi. Lấy một điển hình gần đây hơn, các giám mục Hoa Kỳ hiện nay được coi như một trong các bên quan trọng trong cuộc tranh luận toàn quốc về cải tổ chăm sóc y tế, vì đã khuôn định một phần vấn đề nêu ra theo ngôn ngữ tự do tôn giáo. Quả khó mà hiểu được tại sao các ngài lại bị ám ảnh như thế nếu không nắm được truyền thống không mấy đáng tự hào chống Công Giáo trong lịch sử Hiệp Chúng Quốc.

Tóm lại, dù bạn có chia sẻ các niềm tin của Công Giáo hay không, biết một điều gì đó về Giáo Hội là điều sine qua non (không thể thiếu) để hiểu thế giới văn hóa trong đó, chúng ta đang sống.

3. Ảnh hưởng chính trị

Trong những điều làm cho Đạo Công Giáo trở thành đặc trưng là: nó là tôn giáo duy nhất trên thế giới có ngoại giao đoàn riêng của mình. Tòa Thánh, một hạn từ để chỉ vị thế đứng đầu của Đức Giáo Hoàng như nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo, đã được thừa nhận là một thực thể có chủ quyền theo luật quốc tế, và có liên hệ ngoại giao với đại đa số các quốc gia trên thế giới. Tính đến năm 2012, Tòa Thánh có liên hệ song phương với 179 quốc gia trong số 193 quốc gia được Liên Hiệp Quốc thừa nhận. Các nước bất đồng duy nhất bao gồm các quốc gia không có liên hệ với bất cứ ai như Bắc Hàn, và những quốc gia không nhìn nhận Vatican vì lý do tôn giáo hay ý thức hệ như Saudi Arabia, Trung Quốc và Việt Nam. Tòa Thánh cũng có tư cách quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc. Giáo Hội rất tự hào với thế đứng ngoại giao độc đáo của mình, coi mình như tiếng nói của lương tâm trong vụ việc của con người.

Điển hình hiển nhiên nhất của vốn liếng chính trị đang hoạt động này là vai trò do Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thủ diễn trong việc kết liễu chủ nghĩa Cộng Sản. Dù các sử gia vẫn còn tranh luận xem phải phân chia công trạng chính xác ra sao, liệu “quyền lực mềm” của Đức Gioan Phaolô II hay “quyền lực cứng” của Reagan và Thatcher giữ vai trò chính, nhưng hầu hết mọi người đều đồng ý rằng bức tranh sẽ rất khác nếu vị giáo hoàng người Ba Lan không gợi hứng và nâng đỡ phong trào Đoàn Kết tại quê hương sinh trưởng của ngài, nhờ thế đã phát động cuộc cách mạng tinh thần khắp đế quốc Xôviết cũ.

Đây không hề là một trường hợp riêng rẽ. Cuối thập niên 1970, các nhà ngoại giao của Vatican đã thương thảo một hiệp ước nhằm ngăn cản Chile và Argentina, cả hai nước cùng bị cai trị bởi độc tài quân phiệt, khỏi gây chiến để giành Các Đảo Beagle. Một phong trào Công Giáo có tên Cộng Đồng Sant’Egidio, với sự hỗ trợ âm thầm của Vatican, đã môi giới một kế hoạch hòa bình vào năm 1992 chấm dứt cuộc nội chiến lâu năm tại Mozambique. Đã đành, các can thiệp như thế này không thành công một cách đồng bộ. Thí dụ, cố Tổng Thống Pháp Francois Mitterand đổ lỗi cho Vatican đã khơi mào chiến tranh tại vùng Balkan đầu thập niên 1990 bằng cách thừa nhận quá sớm nền độc lập của Croatia và Slovenia, hai quốc gia chủ yếu theo Công Giáo, tách khỏi Yugoslavia cũ. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã lãnh đạo phe đối lập tinh thần chống lại cuộc xâm lăng Iraq năm 2003 do Hoa Kỳ lãnh đạo, nhưng đã thất bại, không ngăn chặn được nó. Tuy nhiên, dù thất bại, Giáo Hội vẫn đã đóng một vai trò nào đó trong cuộc chiến này.

Ảnh hưởng của Giáo Hội tại Hoa Kỳ cũng không kém. Có gần 67 triệu người Công Giáo Hoa Kỳ, khoảng một phần tư tổng dân số nước này; điều này có nghĩa họ là khối cử tri quan trọng. Điều này đặc biệt đúng khi người Công Giáo phần lớn tập trung tại các tiểu bang “ngả nghiêng” (swing) như Ohio, Pensylvania, và Wisconsin. Đã đành, không hề có “lá phiếu Công Giáo” độc khối. Trong bất cứ cuộc bầu cử tổng thống nào, gần 45% người Công Giáo có chiều hướng bầu cho Dân Chủ, và cũng 45% người Công Giáo bầu cho Cộng Hoà. Ấy thế nhưng, vẫn còn một khối “ngả nghiêng” ở giữa, điều này diễn dịch thành một khối cử tri gồm 4 triệu thành viên. Trong các cuộc bầu cử gần đây, ứng cử viên tổng thống nào vận động được khối Công Giáo do dự này đều là người thắng cử. Cả George Bush năm 2004 và Barack Obama năm 2008 đều đã kéo được đa số phiếu Công Giáo [năm 2016, 54% người Công Giáo bầu cho ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa, Donald Trump].

Các huyền thoại và quan niệm sai lầm

Dù đồng ý cho rằng Giáo Hội quan trọng đi nữa, người ta vẫn có thể nghĩ rằng mình đã biết hết mọi chuyện cần biết để có thể nghĩ về Đạo Công Giáo một cách thông minh. Tuy nhiên, sự thực là các tranh luận công cộng về đạo Công Giáo thường bị dính cứng vào nhiều huyền thoại và quan niệm sai lầm dai dẳng; điều này có nghĩa: cuộc tranh luận về vai trò và ảnh hưởng của Giáo Hội đôi khi bị xây trên cát. Sau đây là bốn điển hình về các huyền thoại này, tất cả sẽ được vạch trần bằng nhiều cách trong cuốn sách này.

1. Huyền thoại độc khối

Trong câu truyện tại nơi công cộng, người ta thường nhắc đến “Giáo Hội” như một cơ thể với một hệ thần kinh trung ương chỉ có khả năng suy nghĩ một ý niệm một lần. Thí dụ, các tay cự phách và những người tự xưng là chuyên viên chỉ nhắc đến điều Giáo Hội nghĩ về hôn nhân đồng tính, hay cảnh nghèo, hoặc Mùa Xuân Ả Rập. Tuy nhiên, nhìn theo kiểu mô tả, không hề có một “Giáo Hội” theo nghĩa một thực thể với các chủ trương thống nhất được mọi người trong số 1tỷ 200 triệu tín đồ tuyệt đối ủng hộ.

Đã đành là có giáo huấn Công Giáo chính thức về một số vấn đề đức tin và luân lý có giới hạn, được hệ thống hóa trong Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo. Nhưng, ngay về mặt này, vẫn có nhiều thần học gia Công Giáo đáng kính nghi vấn một số tín lý chính thức, và ở bình diện quần chúng, người Công Giáo cũng có nhiều quan điểm rất khác nhau. Kiểm soát sinh đẻ có lẽ là điển hình cổ điển, như các bản thăm dò nhất quán cho thấy, ít nhất ở Tây Phương, đa số người Công Giáo không chia sẻ việc Giáo Hội chính thức lên án nó.

Xét một cách căn bản hơn, phần lớn các vấn đề thực tế của đời sống không thể trực tiếp giải quyết bằng cách nại tới Sách Giáo Lý, và điều này nằm trong kế sách. Các hoàn cảnh của đời thực luôn luôn thay đổi, và việc làm thế nào áp dụng các nguyên tắc cố định của đức tin và luân lý Công Giáo vào các khai triển mới thường là vấn đề của điều thuật ngữ Công Giáo gọi là “phán đoán khôn ngoan”. Thông thường, không hề có câu trả lời đơn nhất có thể phát biểu thành một điều phải tin.

Người Công Giáo có nhiều ý kiến rất khác nhau, như về công trạng của việc hoàn cầu hóa hay cách tốt nhất để đối đầu với tinh thần hiếu chiến của phong trào duy Hồi Giáo hay phải soạn thảo chính sách thuế khóa ra sao. Ngay ở cấp cao nhất của Giáo Hội, tức ở Vatican và gần 5,000 giám mục Công Giáo khắp thế giới, người ta cũng tìm thấy nhiều quan điểm khác nhau. Còn ở hàng ngũ giáo dân, người ta thấy đủ loại ý kiến khác nhau. Chúng ta sẽ đề cập tới các điển hình đa dạng này trong các chương kế tiếp, nhưng ở đây, chỉ cần nói rằng nếu phải tìm kiếm bất cứ viễn ảnh hay quan điểm nào, bạn đều thấy nó đâu đó trong cảnh vực Công Giáo.

2. Huyền thoại trung ương tập quyền

Về một vài phương diện, Giáo Hội Công Giáo là cơ chế tôn giáo được kết hợp theo chiều dọc hơn cả trên trái đất, nhưng trong nhiều phương diện quan trọng khác, Giáo Hội lỏng lẻo hơn là mô tả của những nhận định rập khuôn thông thường. Đã đành là có một hệ thống chỉ huy rõ rệt mà đỉnh cao là Đức Giáo Hoàng ở Rôma. Tuy nhiên, lý thuyết và thực hành không luôn là cùng một điều như nhau. Trên thực tế, Đạo Công Giáo hết sức uyển chuyển và tản quyền về phương diện đưa ra quyết định, và phải sống đức tin ra sao trong các hoàn cảnh cụ thể.

Có ba lý do tại sao:

*Ngoài các cơ cấu chiều dọc của Giáo Hội, còn có man vàn “các đạo Công Giáo chiều ngang”, trong đó, có các Giáo Hội Đông Phương, các dòng tu, hiệp hội và phong trào giáo dân, các giám hạt và lãnh hạt bản quyền tòng nhân, và các định chế như trường học, bệnh viện, và cơ quan bác ái. Những đơn vị này có những mối liên hệ khác nhau với cơ chế chính thức, và phần lớn được hưởng một mức độ tự quản nào đó, hoặc theo luật (de jure) hoặc trên thực tế (de facto). Chúng ta sẽ bàn đến loại “Giáo Hội ở bên ngoài Giáo Hội” này ở chương 3.

*Ở đỉnh của hệ thống này, tức Vatican, lực lượng lao động ít ỏi một cách đáng lưu ý. Có khoảng 2,200 nhân viên trong Giáo Triều, tức nền hành chánh trợ giúp Đức Giáo Hoàng trong việc quản trị toàn bộ Giáo Hội hoàn cầu. Tính ra một viên chức Vatican phải phục vụ 545,000 người Công Giáo; điều này làm nổi bật sự kiện căn bản sau đây: Vatican chỉ có thể quản trị một cách vi mô (micromanage) những trường hợp ngoại thường, đơn giản chỉ vì không đủ nhân viên. Học giả về quản trị, Peter Drucker, có lần đã liệt kê Giáo Hội Công Giáo như một trong ba tổ chức có hiệu năng nhất trên thế giới, song song với General Motors và quân đội Phổ, chính vì Tòa Thánh có khả năng quản trị một nghiệp vụ hoàn cầu với một “văn phòng” trung ương nhỏ nhoi.

*Một trong các chủ trương cốt lõi của Đạo Công Giáo là “tính phụ đới” (subsidiarity), nghĩa là: các thẩm quyền cao hơn chỉ nên can thiệp để hoàn thành những gì thẩm quyền thấp hơn không thể hoàn thành. Đôi khi người ta coi việc vi phạm chủ trương này vinh dự hơn là tuân giữ nó, nhưng nó đã vào tận tim óc người Công Giáo và có tác dụng như chiếc thắng hãm đà phương thức kiểm soát từ trên xuống dưới.

3. Huyền thoại xuống dốc

Nhiều người nghĩ rằng Giáo Hội đang trên đà xuống dốc. Bị rúng động bởi các tai tiếng tình dục, tranh đấu quyền lực đến gây sây sát, khó khăn tài chánh, và giao tế nhân sự thảm hại, hình như Giáo Hội này đang mất dần thành viên, phải gom các giáo xứ lại với nhau, đóng cửa các cơ sở và lao đao trong việc truyền thụ đức tin cho các thế hệ trẻ.

Tuy nhiên, theo viễn ảnh hoàn cầu, nghĩ như trên là điều hết sức sai lầm. Hậu bán thế kỷ vừa qua được chứng kiến một thời kỳ phát triển truyền giáo lớn lao nhất trong suốt lịch sử 2,000 năm của Đạo Công Giáo, được tăng cường nhờ sự lớn mạnh hết sức nhanh chóng của Nam Bán Cầu. Xét toàn bộ, trong thế kỷ 20, con số người Công Giáo hoàn cầu đã từ 266 triệu năm 1900 tăng lên 1 tỷ mốt tín đồ năm 2000, và hiện nay là 1 tỷ 200 triệu người. Trong khi dân số hoàn cầu tăng 275 phần trăm trong khoảng thời gian này, thì tổng số người Công Giáo tăng 357 phần trăm; điều này có nghĩa: việc đang xẩy ra không phải chỉ là gia tăng dân số mà còn là sự thành công của truyền giáo. Tuy không xẩy ra ở khắp mọi nơi, vì có những mất mát lớn lao ở Âu Châu và Bắc Mỹ, và ở một vài nơi tại Mỹ Châu La Tinh, nhưng tỷ lệ gia tăng này vẫn là một bức tranh lớn có tính hoàn cầu.

Đã đành, con số thống kê mà thôi không giải quyết được các cuộc tranh luận về các quyết định mà Giáo Hội đang phải đối phó. Thí dụ, con số 22 triệu người cựu Công Giáo ở Mỹ không nhất thiết đại diện cho “cuộc bỏ phiếu bằng chân” chống lại khuynh hướng bảo thủ của các nhà lãnh đạo Giáo Hội trong một phần tư cuối cùng của thế kỷ vừa qua, nhất là khi bạn thấy một nhóm lớn đào ngũ qua Thệ Phản Tin Lành chỉ vì họ thấy Giáo Hội Công Giáo không bảo thủ đủ. Cả việc lớn mạnh đầy ấn tượng của Đạo Công Giáo ở Nam Bán Cầu cũng không nhất thiết có nghĩa là họ ủng hộ chính sách hiện thời của Vatican, vì nói cho ngay, Vatican không có điều gì đáng kể trong việc này.
Nói cách khác, bạn không thể thẳng thừng rút được bất cứ kết luận nào từ các dữ kiện dân số về ai đúng ai sai trong các tranh luận hiện nay về Công Giáo.

Tuy nhiên, theo kinh nghiệm, điều chắc chắn là bất cứ ai nghĩ rằng đây là thời xuống dốc của Công Giáo thì họ cần phải quan sát nhiều hơn.

4.Huyền thoại Giáo Hội áp bức

Trong số các quan niệm sai lầm phổ biến về Đạo Công Giáo, và về Kitô Giáo nói chung, ý niệm cho rằng Giáo Hội là định chế chuyên áp bức có lẽ là quan niệm độc hại hơn cả. Bị ám ảnh bởi các hình ảnh có tính lịch sử về Các Thập Tự Chinh và Tòa Án Dị Giáo, và cả các ấn tượng hiện thời về sự giầu có và quyền lực của các nhà lãnh đạo và các định chế Giáo Hội, quả là chuyện rất khó cho các quan sát viên Tây Phương có thể hiểu được sự kiện này: tại rất nhiều địa điểm nóng trên thế giới, các Kitô hữu ngày nay đang càng ngày càng là những người bị áp bức không người chống đỡ chứ không phải là những người áp chế ngạo mạn.

Đây là thực tế rất rõ: Ở đầu thế kỷ 21, chúng ta đang mục kích sự xuất hiện của một thế hệ các vị tử đạo Kitô Giáo mới. Về phương diện thống kê, các Kitô hữu là nhóm tôn giáo bị bách hại hơn hết trên quả địa cầu này. Theo Hội Nhân Quyền có trụ sở ở Frankfurt, 80 phần trăm mọi hành vi kỳ thị tôn giáo trên thế giới ngày nay đã trực tiếp nhắm vào các Kitô hữu. Trung Tâm Pew ước lượng rằng các Kitô hữu chịu bách hại tại 133 quốc gia, nghĩa là 2 phần 3 mọi quốc gia trên thế giới.

Ngoài bức tranh trên ra, cơ quan cứu trợ Công Giáo Trợ Giúp Giáo Hội Túng Thiếu ước lượng rằng hàng năm, có tới 150,000 Kitô hữu chết vì đức tin, từ Trung Đông, qua Đông Nam Á tới vùng Phi Châu Hạ Sahara và một phần của Châu Mỹ La Tinh. Điều này có nghĩa: mọi giờ và mọi ngày, gần 17 Kitô hữu bị giết ở đâu đó trên thế giới, hoặc vì sự thù hận đối với đức tin, hoặc vì sự thù hận đối với các việc bác ái và công lý mà đức tin của họ buộc họ phải làm. Có lẽ điển hình rõ rệt hơn cả là Iraq. Trước năm 1991, năm có cuộc Chiến Tranh Vùng Vịnh lần đầu tiên, nước này có hơn 2 triệu Kitô hữu, còn ngày nay, ước lượng lạc quan nhất cũng chỉ là giữa 250,000 và 400,000 người ở lại.

Một lần nữa, sự kiện các Kitô hữu bị áp bức đông đảo không có nghĩa là Giáo Hội Công Giáo tự động xứng đáng được thiện cảm, và chắc chắn không làm cho Giáo Hội đúng trong mọi chủ trương về các vấn đề thiêng liêng, luân lý, và chính trị. Tuy nhiên, nó có nghĩa: suy nghĩ rõ ràng về vận mệnh Công Giáo trong thế kỷ 21, người ta sẽ loại bỏ được một số hình ảnh tiêu cực của quá khứ.

Về cuốn sách này

Cuốn sách này được thiết kế như một cuốn hướng dẫn "mua sắm mọi món tại một chỗ", bao gồm đủ các cơ cấu căn bản, các giáo huấn, các thực hành, các căng thẳng nội bộ, và các viễn ảnh tương lai của Giáo Hội Công Giáo. Dù cố gắng bàn tới các điểm căn bản, cuốn sách này tập chú vào hiện tại và tương lai của Đạo Công Giáo, hơn là vào quá khứ của nó. Nó được viết cho cả những người hết lòng chia sẻ thế giới quan của Giáo Hội lẫn những người cực lực bác bỏ thế giới quan này. Cách tiếp cận của nó chủ yếu có tính mô tả, dựa vào hơn hai thập niên kinh nghiệm làm nhà báo, chuyên tường trình về Vatican, về Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ, và Giáo Hội Công Giáo tại một số nơi khác trên thế giới.

Tác giả đã tường thuật cho các cơ sở báo chí Công Giáo và các cơ quan lớn của truyền thông thế tục, và cả trong hai trường hợp, công việc của tác giả là tường thuật đúng sự kiện, rồi để người đọc tự rút ra các kết luận của họ. Mục đích của tác giả không phải là làm cho bất cứ ai trở lại với bất cứ điều gì, mà chỉ là để họ hiểu biết tốt hơn.Thành thử, đây là một cái nhìn tổng quan về Giáo Hội Công Giáo. Tác giả không hề cố gắng dấu diếm các vấn đề thực sự mà Giáo Hội Công Giáo đang phải đối diện nhưng đồng thời không hề nhấn mạnh rằng những vấn đề này là tất cả câu truyện, vì ngoài chúng ra còn có rất nhiều sự sống, sinh khí và “tin mừng” nữa. Tác giả hy vọng cuốn sách này tôn trọng các người Công Giáo trung thành, nhưng cũng muốn bắt tay những người không phải là Công Giáo đang đi tìm một cuộc giáo dục chứ không phải một bài giảng.

Tại sao Giáo Hội lại quan trọng?

Đối với người Công Giáo, ngẫm nghĩ về số phận Giáo Hội của họ không phải là một thao tác đòi phải biện minh. Bất chấp họ có hòan toàn chấp nhận tuân theo nền thần học chính thức hay không, phần đông người Công Giáo, ngay trong xương thịt, đều cảm nhận điều này: Giáo Hội là nơi họ gặp gỡ Thiên Chúa, nơi niềm khát khao thần linh và siêu việt của họ được thỏa mãn. Nó là nhà thiêng liêng của họ, là gia đình của họ. Dù Đạo Công Giáo vốn dĩ là một tôn giáo truyền giáo, luôn tìm kiếm các tân tòng, nhưng, xét về nhiều cách, nó cũng là một tôn giáo truyền thống và của tổ tiên, theo nghĩa phần lớn các thành viên đều sinh trưởng trong đó. Ngay những người Công Giáo bỏ đạo đôi lúc cũng cảm nhận được sức lôi kéo của nó, một tâm tư từng được nắm bắt trong “Portrait of the Artist as a Young Man” của James Joyce, trong đó, nhân vật chính, Stephen Dedalus, tuyên bố với một người bạn rằng mình đã mất đức tin. Khi người bạn hỏi xem anh có ý định trở thành một người Thệ Phản hay không, thì Stephen trả lời: “tôi nói tôi mất đức tin, chứ đâu có nói tôi mất lòng tự trọng”.
Tuy nhiên, đối với người không phải là Công Giáo, rất có thể không hiển nhiên đến thế khi dùng thì giờ khai triển một hiểu biết nào đó về Đạo Công Giáo. Bởi thế, sau đây là ba lý do tại sao mọi người nên biết ít nhất một điều gì đó về Đạo Công Giáo.

1. Tôn giáo không biến mất

Dù người bất khả tri hay vô thần dấn thân nhất đi nữa cũng phải nhìn nhận rằng những tiên đoán chắc nịch mới được đưa ra gần đây về sự xuống dốc không thể nào tránh được của tôn giáo đã bị chứng minh là sai lầm một cách không ngờ. Thay vào đó, cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 đã chứng kiến một sự tái xuất hiện tôn giáo rất mạnh mẽ như là lực đẩy chính trong nhân bản sự vụ. Có lẽ chúng ta nên định thời biểu cho việc phục hồi tôn giáo này trong khoảng 12 tháng giữa các năm 1978 và 1979, khi Đức Gioan Phaolô II được bầu làm giáo hoàng của Giáo Hội Công Giáo, do đó đã khởi động cả một chuỗi domino, dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng Sản, và khi Ayatollah Khomeini, như vũ bão, nắm quyền lực tại Itan, khởi động nhiều làn sóng phục hung Hồi Giáo khắp thế giới. Chúng ta cũng có lý khi thêm việc bầu Ronald Reagan làm tổng thống sau đó không lâu; ông chính là ứng cử viên tổng thống đầu tiên thời hiện đại minh nhiên coi các cử tri tôn giáo như yếu tố cốt lõi cho căn cứ chính trị của mình.

Đôi khi sức mạnh của xác tín tôn giáo có tính phá hoại, điển hình hiển nhiên nhất chính là cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9. Nhưng trong các dịp khác, xác tín này có tính gợi hứng, như cuộc tranh đấu bất bạo động của Dalai Lama chống đàn áp của Trung Quốc ở Tây Tạng. Dù sao, sự kiện thực nghiệm hết sức vững vàng vẫn là: đại đa số người trên địa cầu này có những niềm tin tôn giáo mạnh mẽ, và các niềm tin này, dù xấu hay tốt, đều ảnh hưởng tới cách người ta dấn thân vào thế giới. Năm 2003, David Brooks cho đăng một bài trên tờ Atlantic Monthly, nhận định rằng giai cấp ưu tú thế tục (như những người biên tập của tờ báo này) bị quên lãng là do sức mạnh của tôn giáo. Ông viết: “Cả một thác Niagara vĩ đại của lòng sùng mộ tôn giáo ập xuống quanh họ, trong lúc họ đứng trì độn và khô cằn trong chiếc hang nhỏ của óc hẹp hòi bản thân”.

Dưới góc độ trên, khảo sát các thực tại hiện nay và các viễn tượng tương lai của một cơ chế tôn giáo lớn nhất và được tổ chức tập quyền hơn hết trên trái đất này, ít nhất, cũng là điều bắt buộc đối với bất cứ ai muốn hiểu thế giới, hệt như họ muốn hiểu Liên Hiệp Quốc, hay Tòa Bạch Ốc, hoặc Microsoft.

2. Thông thạo văn hóa

Hơn 2,000 năm nay, Kitô Giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo Rôma nói riêng, vốn là một trong các cột trụ chính của nền văn minh Tây Phương. Không tài nào hiểu thấu nghệ thuật, âm nhạc, văn chương, hoặc lịch sử Tây Phương, nếu không ít nhất nắm được những điều căn bản của Đạo Công Giáo. Bạn sẽ thấy các dấu chân lớn nhỏ của nó khắp các nẻo đường khác nhau cho tới cả ngôn ngữ ta đang nói. Đây là một thí dụ rất thường thấy: khi các nhà ảo thuật nói “hocus pocus” lúc rút con thỏ từ chiếc nón ra, họ đã vô tình nhắc đến Thánh Lễ của người Công Giáo. Vì một số người cho rằng câu này là kiểu nói bồi của công thức Latinh: Hoc est corpus meum (Này là Mình Ta) được linh mục đọc khi “truyền phép”. Nói một cách có lịch sử hơn, khi một chính khách nói tới việc phát động “một thập tự chinh” (crusade) chống thuế khóa, kỳ thị chủng tộc, hay ma túy, thì họ quả đang nhắc đến các Thập Tự Chinh nguyên thủy thuộc các thế kỷ thứ mười và thứ mười một, khi các quân vương và hiệp sĩ Âu Châu, được Đức Giáo Hoàng hỗ trợ, đã khởi động một cuộc chiến tranh phương xa để lấy lại Đất Thánh từ tay người Hồi Giáo.

Trên một bình diện sâu hơn, sự thành thạo về Công Giáo là một đòi hỏi có tính căn bản đối với bất cứ cố gắng nào nhằm làm cho cảm thức về quá khứ và hiện tại của ta thành có nghĩa. Chẳng hạn, bạn sẽ không thể nào hiểu được ý niệm thời danh của Max Weber về “nền đạo đức Thệ Phản về việc làm” như lực đẩy chính đứng đàng sau chủ nghĩa tư bản, nếu không có một thông tin nguồn nào về cuộc tranh cãi nổi tiếng giữa người Công Giáo và người Thệ Phản về việc liệu đức tin hay việc làm là chìa khóa dẫn vào ơn cứu rỗi. Lấy một điển hình gần đây hơn, các giám mục Hoa Kỳ hiện nay được coi như một trong các bên quan trọng trong cuộc tranh luận toàn quốc về cải tổ chăm sóc y tế, vì đã khuôn định một phần vấn đề nêu ra theo ngôn ngữ tự do tôn giáo. Quả khó mà hiểu được tại sao các ngài lại bị ám ảnh như thế nếu không nắm được truyền thống không mấy đáng tự hào chống Công Giáo trong lịch sử Hiệp Chúng Quốc.

Tóm lại, dù bạn có chia sẻ các niềm tin của Công Giáo hay không, biết một điều gì đó về Giáo Hội là điều sine qua non (không thể thiếu) để hiểu thế giới văn hóa trong đó, chúng ta đang sống.

3. Ảnh hưởng chính trị

Trong những điều làm cho Đạo Công Giáo trở thành đặc trưng là: nó là tôn giáo duy nhất trên thế giới có ngoại giao đoàn riêng của mình. Tòa Thánh, một hạn từ để chỉ vị thế đứng đầu của Đức Giáo Hoàng như nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo, đã được thừa nhận là một thực thể có chủ quyền theo luật quốc tế, và có liên hệ ngoại giao với đại đa số các quốc gia trên thế giới. Tính đến năm 2012, Tòa Thánh có liên hệ song phương với 179 quốc gia trong số 193 quốc gia được Liên Hiệp Quốc thừa nhận. Các nước bất đồng duy nhất bao gồm các quốc gia không có liên hệ với bất cứ ai như Bắc Hàn, và những quốc gia không nhìn nhận Vatican vì lý do tôn giáo hay ý thức hệ như Saudi Arabia, Trung Quốc và Việt Nam. Tòa Thánh cũng có tư cách quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc. Giáo Hội rất tự hào với thế đứng ngoại giao độc đáo của mình, coi mình như tiếng nói của lương tâm trong vụ việc của con người.

Điển hình hiển nhiên nhất của vốn liếng chính trị đang hoạt động này là vai trò do Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thủ diễn trong việc kết liễu chủ nghĩa Cộng Sản. Dù các sử gia vẫn còn tranh luận xem phải phân chia công trạng chính xác ra sao, liệu “quyền lực mềm” của Đức Gioan Phaolô II hay “quyền lực cứng” của Reagan và Thatcher giữ vai trò chính, nhưng hầu hết mọi người đều đồng ý rằng bức tranh sẽ rất khác nếu vị giáo hoàng người Ba Lan không gợi hứng và nâng đỡ phong trào Đoàn Kết tại quê hương sinh trưởng của ngài, nhờ thế đã phát động cuộc cách mạng tinh thần khắp đế quốc Xôviết cũ.

Đây không hề là một trường hợp riêng rẽ. Cuối thập niên 1970, các nhà ngoại giao của Vatican đã thương thảo một hiệp ước nhằm ngăn cản Chile và Argentina, cả hai nước cùng bị cai trị bởi độc tài quân phiệt, khỏi gây chiến để giành Các Đảo Beagle. Một phong trào Công Giáo có tên Cộng Đồng Sant’Egidio, với sự hỗ trợ âm thầm của Vatican, đã môi giới một kế hoạch hòa bình vào năm 1992 chấm dứt cuộc nội chiến lâu năm tại Mozambique. Đã đành, các can thiệp như thế này không thành công một cách đồng bộ. Thí dụ, cố Tổng Thống Pháp Francois Mitterand đổ lỗi cho Vatican đã khơi mào chiến tranh tại vùng Balkan đầu thập niên 1990 bằng cách thừa nhận quá sớm nền độc lập của Croatia và Slovenia, hai quốc gia chủ yếu theo Công Giáo, tách khỏi Yugoslavia cũ. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã lãnh đạo phe đối lập tinh thần chống lại cuộc xâm lăng Iraq năm 2003 do Hoa Kỳ lãnh đạo, nhưng đã thất bại, không ngăn chặn được nó. Tuy nhiên, dù thất bại, Giáo Hội vẫn đã đóng một vai trò nào đó trong cuộc chiến này.

Ảnh hưởng của Giáo Hội tại Hoa Kỳ cũng không kém. Có gần 67 triệu người Công Giáo Hoa Kỳ, khoảng một phần tư tổng dân số nước này; điều này có nghĩa họ là khối cử tri quan trọng. Điều này đặc biệt đúng khi người Công Giáo phần lớn tập trung tại các tiểu bang “ngả nghiêng” (swing) như Ohio, Pensylvania, và Wisconsin. Đã đành, không hề có “lá phiếu Công Giáo” độc khối. Trong bất cứ cuộc bầu cử tổng thống nào, gần 45% người Công Giáo có chiều hướng bầu cho Dân Chủ, và cũng 45% người Công Giáo bầu cho Cộng Hoà. Ấy thế nhưng, vẫn còn một khối “ngả nghiêng” ở giữa, điều này diễn dịch thành một khối cử tri gồm 4 triệu thành viên. Trong các cuộc bầu cử gần đây, ứng cử viên tổng thống nào vận động được khối Công Giáo do dự này đều là người thắng cử. Cả George Bush năm 2004 và Barack Obama năm 2008 đều đã kéo được đa số phiếu Công Giáo [năm 2016, 54% người Công Giáo bầu cho ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa, Donald Trump].