(Viết theo lời kể của một
Thương Phế Binh loại 3 (Tàn Tật Vĩnh Viễn 80%), cựu
Sinh Viên Sĩ Quan Khoá 20 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.)
Thân tặntg các bạn bè đã
quen, chưa quen, ở:
Trường Tiểu Học Di Chuyển
Thạnh Mỹ Tây II, Thị Nghè,
Trường Trung Học Hồ Ngọc
Cẩn,
Trường Võ Bị Quốc Gia Đà
Lạt,
Sư Đoàn 9 Bộ Binh,
Và các bạn bè còn lành
lặn, các Thương Phế Binh trên khắp Bốn Vùng Chiến
Thuật, khắp Bốn Phương Trời.
Tôi tên là Giáo, sinh quán Bắc
Việt, di cư vào Nam ngày 20 Tháng Bẩy Năm 1954.
Mặc dù trên giấy khai sinh của
tôi ghi rõ ràng là Giáo, nhưng bạn bè lại gọi tôi là .
. . GIÁO SẮC.
Số là, sau khi vào Nam, bố mẹ
tôi chọn định cư tại vùng Thị Nghè, thuộc Quận Gò
Vấp, tỉnh Gia Định.
Hơn một trăm gia đình mà người
dân Nam Kỳ gọi chúng tôi là “Bắc Kỳ Di Cư” được
tạm trú tại Trường Tiểu Học Thạnh Mỹ Tây. Sau hai
tháng tạm cư, trung tâm được giải tán để cho học
sinh kịp nhập học vào đầu niên khoá mới.
Đám học sinh cũ của trường
nhập học đúng vào đầu niên khoá, nhưng đám học sinh
Bắc Kỳ chúng tôi thì không, vì trường Thạnh Mỹ Tây
chỉ nhận học sinh vào lớp Năm (lớp 1) mà thôi, còn học
sinh cũ thì đã đủ chỗ rồi. Một số Cô và Thầy giáo
“Di Cư” cũng đã xin với Bộ Giáo Dục để mờ thêm
lớp cho chúng tôi, nhưng trường ở đâu ra bây giờ?
Không có trường thì lấy đâu ra lớp cho chúng tôi học?
Các Thầy Cô đã nghĩ nát óc để
rồi tìm ra một giải pháp tuyệt hảo:
Học sinh cũ của trường Thạnh
Mỹ Tây học hai buổi sáng (từ 8 giờ sáng tới 11 giờ
sáng) và buổi chiều (từ 2 giờ chiều tới 6 giờ chiều).
Như vậy, thì đám học trò di chuyển có thể xen kẽ vào
học từ 11 giờ sáng tới 2 giờ chiều. Bộ Giáo Dục và
các giáo viên họp lại với nhau để cùng . . . nghiên cứu
cách thức nào tốt nhất cho các học sinh. Cuối cùng, một
trường Tiểu học Di chuyển được thành lập tại Thị
Nghè, gọi là Trường Tỉểu Học Di Chuyển Thạnh Mỹ
Tây II (cho khắp vùng Thị Nghè, Cầu Sơn). Trong khi chờ
đợi được cấp trường mới, các học sinh di chuyển
tạm thời học tại trường Tiểu học Thạnh Mỹ Tây, từ
11giờ 30 sáng cho tới 1 giờ 30 chiều.
Thế là chúng tôi đã có trường,
có lớp để đi học.
Trong thời gian chờ đợi để di
cư vào Nam, nhiều đứa trong chúng tôi không được đến
trường cả mấy năm trời, nên khi được đến trường
trở lại, chúng tôi phải ngổi học ở lớp tiếp theo,
do đó mà tôi và một số học sinh khác, dù tuổi đời
đã mười hai, mười ba . . . mười sáu . . . vẫn ngồi
lại lớp Nhì, vì trươc đây, chúng tôi chỉ mới tốt
nghiệp . . . lớp Ba trường làng mà thôi.
Nhớ lại những ngày đầu tỉên
tôi đi học, thật là vui: Trường học thì thật là gần
nhà và đã quá quen thuộc rồi, nên chúng tôi chẳng cần
ai đưa đón gì cả. 11 giờ 30 mới vào lớp, vậy mà
chúng tôi đã rời nhà từ 10 giờ sáng. Học trò như
chúng tôi, học là chuyện phụ, gặp nhau bầy trò vui chơi
mới là chuyện chính. Một tay tôi cầm cuốn vở viết
kẹp cái bút mực ở trong, tay kia cầm bình mực xanh, đầu
đội trời chân đạp đất, cứ thế mà chạy tưng tưng
đến trường.
Vì lạ nước lạ cái, hơn nữa
đây là ngày đầu tiên đi học, nên chúng tôi không dám
ham chơi, gần tới giờ vào lớp là chúng tôi đã ngừng
chơi, cả thầy cả trò đứng lóng ngóng ngoài cổng
trường chờ tới giờ học.
Trống tan học vang lên đúng 11
giờ, đám học trò Nam Kỳ tan học, túa ra sân, tò mò
nhìn đám Bắc Kỳ đang đứng sớ rớ bên ngoài.
Chúng tôi được xếp vào Lớp
Nhì, học với Cô Giáo Đoan. Buổi học đầu tiên chỉ là
xếp lớp, xếp chỗ ngồi và ghi tên điểm danh mà thôi.
Đám con trai được xếp ngồi
bên ngoài gần cửa ra vào, đứa nào nhỏ con thì ngồi
trên, đứa nào lớn con thì ngồi cuối lớp, còn con gái
ngồi bên trong. Khi ghi tên điểm danh, cô giáo nhờ một
đứa con trai trong dám lên phụ đọc tên. Khi đến lượt
tôi, tôi đứng lên khai:
“Thưa cô, tên con là Giáo”
Thằng phụ tá nghe không rõ, hỏi
lại tôi:“Giáo là Giê Đ hay là Giê I?
Tôi đánh vần trả lời:
“Giê i ao Giao sắc Giáo”
Thằng phụ tá nhìn tôi, nhắc
lại cho chắc ăn:
“Giao sắc Giáo? Phải không?”
Mấy thằng trời đánh ở dưới
nghe thấy tôi đánh vần thì cũng bắt chước nhái theo:
“Giao sắc Giáo”
Giờ học trôi qua thật nhanh, mới
đó mà trống trường đã vang lên báo hiệu giờ về. Đám
chúng tôi mau mau dọn dẹp sách vở để trả lớp lại
cho học sinh người Nam học buổi chiều.
Phải mất cả tuần lễ, chúng
tôi mới quen nhau, mới dám cùng nhau chơi đùa thoả thích.
Đám con trai tụi tôi họp lại chơi trốn bắt, chơi chạy
đuổi, chơi đá bóng, còn đám con gái thì chơi nhẩy dây,
đánh đũa, nhẩy lò cò . . .
Giờ náo nhiệt nhất là giờ tan
học của đám học trò người Nam và giờ vào học của
đám học trò người Bắc. Đám tan học thì chưa muốn
về, nán ở lại để xem đám Bắc kỳ chúng nó chơi đùa
ra sao? Khi thấy chúng tôi chơi bi, đám Nam kỳ dòm đã rồi
chê tụi tôi:
“Chơi bắng đạng gì mà . .
. kỳ cục dzậy.”
Còn đám Bắc Kỳ thì cũng chưa
muốn vào lớp ngay, cũng lớ xớ đứng đó, chờ xem đám
Nam kỳ chơi những trò chơi nào? Khi thấy bọn Nam kỳ mỗi
khi bắn bi, chúng dang hai tay ra đằng trước, để hòn bi
vào ngón giữa mà bắn đi, chúng tôi cười ồ lên, chê
bọn này:
“Chơi bi gì mà . . . lạ thế”
Mấy ngày hôm sau, vào giờ ra
chơi, tôi và mấy thằng bạn mới quen tụ lại chơi với
nhau, khi hỏi tên, tôi xưng là Giáo, một thằng trong đám
nhắc lại cái điệp khúc:
“Giao sắc Giáo . . . Giao sắc
Giáo . . .”
Cứ thế, thằng này truyền miệng
thằng kia. Tôi học chưa được chữ nào mà đã được
mang cái tên là . . . GIAO SẮC
(đọc thì nghe như là DAO SẮC,
nói theo tiếng Nam, tức là con dao . . . béng.)
Thằng đứng đằng sau tôi, cũng
xưng tên là . . . GIAO.
Nhưng mà tôi đã là Giao rồi (dù
là Giáo sắc Giáo), thì nó đâu có thể có tên là Giao
nữa. Hơn nữa, nhìn mặt nó . . . hiền khô hà, đâu có
thể là là dao . . . béng như tôi được, nên khi Giao nhà
ta xưng tên Giao, mấy thằng bạn trời đánh đã nhìn nó
mà phê bình:
“Nhìn mặt mày hiền quá đi,
lại cao nhòng nhõng hà, làm sao gọi mày là . . . Giao Sắc
(dao) được, thôi, cho mày là GIAO . . . CÙN đi”
(dao cùn, phiên âm qua tiếng Nam,
kêu là . . . dao lụt.)
Thế là từ đó, trong lớp tôi
có hai thằng Giao: Một thằng là Giao Sắc (Giáo), thằng
kia là Giao Cùn.
Thời gian đầu tiên, đám Bắc
Kỳ và Nam Kỳ chơi riêng rẽ. Nhưng khoảng một hai tháng
sau thì đã quen nhau rồi, nên cả hai đám ráp lại chơi
chung với nhau. Nhưng cũng vì giọng nói khác nhau, và cũng
có khi vì cùng một môn chơi nhưng luật chơi lại khác
nhau, cho nên đã có một vài đụng chạm nhỏ xẩy ra.
Hẳn là các bạn còn nhớ, chơi
bi (người Nam gọi là chơi bắn đạn), tuy cùng là một
môn chơi, nhưng khi dân bắc chơi thì hòn bi ở đâu, người
chơi phải để tay ở ngay đó mà bắn đi. Nhưng dân Nam
thì lại khác: Cục đạn ở đâu thì ngồi ở đó, vươn
hai tay dài ra mà bắn vào đạn của phe bên kia. Vì thế,
khi chơi chung, đám Bắc Kỳ thua là cái chắc, vì đâu có
biết dang tay dài ra mà bắn? Khi chơi thua hết cả túi bi
ve (đạn mướt) đám Bắc Kỳ mới khôn ra, thay vì ngồi
tại chỗ cục bi mà bắn, thằng Hà bắt chước đám Nam
Kỳ duỗi hai tay ra tới đâu thì gạch đánh dấu ở đó
rồi bước tới để tay ngay lằn gạch mà bắn đi, giống
y hệt đám người Nam chơi, nhưng thằng Hai "Bớ Tí"
(Petite, tiếng Pháp, có nghĩa là Nhỏ) trong đám Nam Kỳ
không chịu, cho là thằng Hà ăn gian, nó nhất định đòi
lại số đạn mà thằng Hà đã thắng. Thằng Hà không
chịu trả lại, thế là đánh nhau. Đám Nam Kỳ chơi chung
hè nhau đè thằng Hà xuống mà khện, đám Bắc Kỳ gần
đó thấy thằng Hà bị đánh thì nhào vào bênh bạn, thế
là đánh lộn tùm lum hết. May quá, trống đã đánh lên,
đám Bắc Kỳ gom bi chạy hết cả vào lớp học, đám Nam
Kỷ cung tay thủ võ la lối um xùm ở bên ngoài.
Tan học về, thằng Hà không dám
về một mình, kêu đám bạn đi về chung để bảo vệ
mình. Tôi, thằng Giao cùn, thằng Nam lùn, thằng Tự dẹo
cổ, thằng An . . . cùng đi với thằng Hà, chúng tôi chọn
con đường lớn đi ngang qua rạp hát "Văn Cầm"
để về nhà, vì nghĩ rằng ở đường lớn, bọn Nam Kỳ
sẽ không dám gây chuyện đánh lộn. Nhưng chúng tôi đã
lầm, vừa mới qua rạp hát, tới ngã ba là bọn Nam Kỳ
đã đứng một đám ở đó. Thằng Hai Bơ Tí chỉ mặt
thằng Hà mà la:"Nó đó . . . uýnh chết cha mấy
thằng Bắc Kỳ đi tụi bay"
Thằng Tự thấy tụi Nam Kỳ đông
quá, liền ra dấu cho cả bọn rồi dắt thằng Hà chạy
ngược về phía trường học:
"Tụi mình chạy về đường
Sở Bông, tuốt lên Hồ Nước, qua bót cảnh sát mà về
nhà."
Thế là cả bọn chạy theo thằng
Tự mà tìm đường về.
Chạy hùng hục một đoạn, thằng
Tự quay lại nhìn, thấy bọn Nam Kỳ chỉ còn có vài
thằng, nó vừa chạy vửa hỏi cả đám:
Rạp xinê Casino Dakao (tương tự
như rạp Văn Cầm Thị Nghè.)
"Tụi nó chạy đi đâu hết
rồi?"
Thằng An chỉ tay váo cái ngõ hèm
phía sau, lanh miệng trả lời:
"Tao thấy tụi nó chạy
vào ngõ hèm kia kìa. Ngõ này ăn thông qua đường Sở
Bông. Tao nghi tụi nó sẽ . . . phục kích mình ở đầu
ngõ đó."
Tôi nghĩ ra một kế:
"Tụi nó phục kích mình thì
mình chơi trò "Phản phục kích". Thằng nào dám
chạy theo tao vào ngõ theo sau tụi nó, lúc tụi nó ào ra
đánh mình thì trong lúc bất ngờ mình nhào ra đánh tụi
nó, hai đầu ráp lại đánh, tụi nó thua là cái chắc."
Thế là đám chúng tôi chia làm
hai, một đám theo thằng Tự và thằng Hà, đám tụi tôi
có thằng An, thằng Giao cùng đi . . .
Quả như lời thằng An tiên đoán,
bọn chúng tôi vừa tới đầu ngõ thì đã thấy đám
thằng Hai đang chặn tụi thằng Tự mà đánh. Chúng nó
vừa đánh vừa la:
"Bắc Kỳ Cong, bỏ dô
loong kiu chít chít . . .
Bắc Kỳ ăng cá rô cây . . ."
Cả đám tụi tôi cùng nhau la lên
thật lớn:
"Đừng sợ . . . Có Giao
Sắc tới cứu viện đây . . . Chặt què chân mấy thằng
Nam Kỳ đi . . ."
Đám tụi Nam Kỳ đang thắng thế,
bị tụi tôi ào ra đánh, lại nghe trong đám tụi tôi có
. . . Dao Sắc . . . và đòi . . . chặt chân tụi nó nữa,
nên tụi Nam kỳ có mòi . . . ớn xương sống, lại thêm
đám thằng Tự vùng lên đánh trả, nên tụi Nam kỳ túng
thế, tính đường . . . rút lui.
Những người hàng xóm bên đường
thấy tụi con nít đánh lộn, có người nhìn mặt được
một đứa:
"Con nít uýnh lộn . . . Có
thằng Tòng con thầy giáo Cảnh đánh lộn nữa đó."
Cũng có một vài bà Bắc Kỳ Di
Cư đang quét sân, la lên tiếp theo:
"Trẻ con đánh nhau . . . Có
cả cậu An, con ông Giáo Trọng nữa kìa . . ."
Tin học trò hai trường Thạnh Mỹ
Tây đánh nhau đã đủ làm cho hai ông Hiệu trưởng nhức
đầu rồi, lại thêm có hai đứa con ông Giáo cũng đi
đánh lộn nữa, làm cho cả hai hội Giáo Chức mất mặt
với phụ huynh học sinh trong vùng. Đương nhiên là thằng
An và thằng Tòng bị gọi lên phòng Hiệu Trưởng rồi.
Đánh nhau thì không sợ, chứ bị
gọi lên phòng Hiệu Trưởng thì hai thằng sợ ra mặt,
nhất là lại có hai ông bố thầy giáo ngồi đó nữa.
Khi được nghe rõ là hai ông "quý
tử" không phải là hai đứa gây ra chuyện đánh nhau,
hai ông bố thầy giáo vui vẻ ra mặt, bắt tay nhau lia lịa.
Khi nghe hai cậu học trò kể lại
nguyên nhân đánh lộn chỉ là vì bên này tố bên kia là
. . . ăn gian, không biết chơi đánh bi, bắn đạn, hai thầy
Hịệu trường như trút đươc hai gánh nặng ngàn cân,
cho gọi hai thằng gây ra chuyện lên trình diện. Thằng Hà
và thằng Hai Bơ Tí đứa nào đứa nấy mặt mày xanh lét,
thằng này vừa khóc vừa đổ lỗi cho thằng kia chơi ăn
gian. Hai thầy Hiệu Trưởng cũng là dân đánh bi bắng
đạng hồi xưa nên nhìn thấy ngay cách khác biệt của
trò chơi. Cuối cùng, để . . . huề cả làng, các thầy
đồng ý cho đám người Nam chơi bắn đạn đưa hai tay
vươn dài ra đằng trước, và đám Bắc kỳ cũng bắt
chước như thế mà làm theo cho nó đúng luật chơi người
Nam. Còn nếu đứa Bắc Kỳ nào không quen đưa tay ra đằng
trước thì có thể đưa tay ra tới đâu thì gạch mức mà
ngồi tại chỗ đó nhưng với điều kiện là phải nói
ra như vậy trước khi chơi. Cuối cùng, các thầy giáo
khuyên đám học trò không được đánh nhau nữa, phải
bắt tay làm huề với nhau.
Lên trung học, vì phải thi vào
lớp Đệ Thất trường công, nên anh em chúng tôi phân tán
khắp nơi để thỉ vào các trường như Hồ Ngọc Cẩn,
Trần Lục, Nguyễn Trãi, Chu Văn An . . .
May mắn thay, tôi, thằng Giao Cùn,
Tự . . thi đậu vào Hồ Ngọc Cẩn (Nam Lùn thi vào Lê Văn
Duyệt, năm sau mới được đổi về Hồ Ngọc Cẩn với
tụi tôi). Lên trung học rồi, lớn rồi, chúng tôi phải
mặc đồng phục quần Xanh biển áo sơ mi trắng có gắn
bảng tên trên túi áo, mỗi sáng Thứ Hai phải mặc đồ
trắng để làm lễ chào cờ. Hồ Ngọc Cẩn là trường
dành riêng cho Nam sinh, nên không có bóng hồng nào xung
quanh chúng tôi cả (trừ trường Lê Văn Duyệt trong năm
đầu tiên có cả trai lẫn gái học chung. Nhưng qua năm
sau, trường cho dời đám nam sinh qua trường Nam Tỉnh Lỵ
để trở thành trường dành riêng cho Nữ sinh).
Tôi và thằng Tự lớn tuổi hơn
các bạn đồng lớp, nên tới năm Đệ Tam, hai thằng rủ
nhau đi . . . học nhẩy Đệ Nhị. Thằng Nam lùn cũng muốn
theo tụi tôi, nhưng thầy giáo nói
“Em nó còn . . . bé lắm”
Nên nó không dược học. Buồn
tình, nó nhẩy qua học . . . Judo với thầy Hồ Cẩm Ngạc.
Cuối năm Đệ Tam, hai thằng tôi
cũng làm gan nộp đơn đi thi Tú Tài I. May mắn làm sao, cả
hai thằng đều thi đậu hết. Mừng hết lớn, chúng tôi
tổ chức một buổi ăn mừng ở tiệm hủ tíu trước cửa
rạp hát Cao Đồng Hưng, gần chợ Bà Chiểu. Sẵn trớn,
tôi quyết định học tiếp để năm sau thi Tú Tài II, còn
thằng Trần Đình Tự thì ngồi trầm ngâm hút thuốc
hoài. Cuối cùng, nó tuyên bố vói anh em:
“Tao . . . tình nguyện đi . . .
Thủ Đức. Trường đang nhận đơn cho khoá 14, ngày mai
tao sẽ đi nộp đơn.