ĐỐI THOẠI NĂM ĐỨC TIN
CHỨNG MINH SỰ HIỆN HỮU CỦA Thiên Chúa
Vấn Đề 09: Bạn là người Công Giáo, nghĩa là bạn tin có Thiên Chúa. Vậy bạn hãy chứng minh có Thiên Chúa đi xem.
ĐÁP:
1. LỜI CHÚA: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Ngài” (Tv 18,2).
2. SUY NIỆM:
Khoa
học không bàn đến vấn đề Thiên Chúa, không thể quả quyết có Thiên Chúa
hay không, vì đây không thuộc lãnh vực nghiên cứu tìm hiểu của nó. Tuy
nhiên Khoa học vẫn có thể giúp các tín hữu chúng ta dễ dàng nhận biết sự
hiện hữu của Thiên Chúa nhờ những khám phá của nó về vũ trụ thiên
nhiên, về những định luật chi phối hoạt động của các sinh vật và nhất là
loài người, những sự điều tra khách quan về các hiện tượng lạ thường
trái với định luật thiên nhiên cho thấy có sự can thiệp của một quyền
lực siêu nhiên... như sau:
I. VŨ TRỤ MINH CHỨNG CÓ Thiên Chúa
1. Đại vũ trụ minh chứng có Thiên Chúa:
Mở
mắt nhìn xung quanh, ta thấy vũ trụ bao la vô hạn. Khoa học giúp chúng
ta hiểu rõ các hiện tượng và sức chuyển động trật tự của mọi vật trong
đó. Với con mắt thường, ta có thể đếm được khoảng 5.000 ngôi sao lấp
lánh trên bầu trời bao la. Nhưng nhờ viễn vọng kính đặt trên núi Wilson,
các nhà thiên văn học có thể nhìn thấy hơn 200 triệu ngôi sao. Còn biết
bao nhiêu ngôi sao khác người ta đã nhận biết, nhưng vì ở quá xa, nên
tới nay các nhà thiên văn vẫn chưa thể xác định được. Nguyên trong giải
ngân hà mà thái dương hệ của chúng ta chỉ chiếm một phần nhỏ bé, người
ta cũng đã tính được tới 50 tỷ định tinh và hằng tỷ ngôi sao đã chết. Mà
không phải chỉ có một giải ngân hà, hiện nay người ta đã biết được có
hằng tỷ giải ngân hà rồi.
Những vì tinh tú to lớn làm sao, mấy
hành tinh ở gần chúng ta như Uranus đã lớn hơn trái đất 14 lần, Neptune
to hơn 17 lần, Saturne 93 lần, Jupiter 1.279 lần, và mặt trời to hơn
những 1.300.000 lần. Sao Sirius còn to hơn mặt trời 12 lần, còn nhiều
sao khác còn to hơn sao Sirius nữa...
Những vì tinh tú ở cách xa
nhau đến nỗi ta không thể đọc bằng con số thường, mà phải lấy đơn vị là
quang niên (năm ánh sáng) như sau: Vận tốc ánh sáng trong một giây đồng
hồ là 299.792.458km, tương đương 300.000 km/ giây. Mỗi phút có 60 giây,
mỗi giờ có 60 phút, mỗi ngày có 24 giờ, mỗi năm có 365 ngày ¼. Vậy một
quang niên sẽ là 299.792.458km x 60 x 60 x 24 x 365,1/4 sẽ thành 9.460
tỷ cây số. Ánh sáng từ mặt trời đến trái đất chúng ta phải mất thời gian
8 phút 20 giây, từ trái đất đến mặt trăng phải mất hơn 1 phút. Nhưng
nếu từ trái đất vượt qua thái dương hệ đến ngôi sao gần nhất trong chòm
sao Nhân Mã phải mất thời gian 4 năm (4 quang niên). Nhờ thiên lý kính
ta biết được những tinh vân xa 140 triệu quang niên. Càng ngày với những
kính viễn vọng kính tối tân hơn, người ta lại càng xem thấy xa hơn nữa.
Trái
đất mỗi ngày quay chung quanh mình một vòng, đang khi nó vẫn chạy theo
quỹ đạo mặt trời với vận tốc 30 km/giây, hoặc 108 ngàn km/giờ không bao
giờ sai trật, đến nỗi các nhà bác học có thể tính trước được ngày giờ
của các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.
Bầu trời rộng rãi bao
la vô hạn thế mà mấy phi công lái máy bay thỉnh thoảng lại đụng nhau gây
nên biết bao tang tóc! Vậy mà từ tạo thiên lập địa đến nay vẫn chưa có
một hành tinh nào chạm nhau giữa bầu trời nhiều tinh tú như thế.
Vậy
thì vũ trụ bao la với trật tự kỳ diệu, tuân theo những định luật lạ
lùng chính xác như thế lại không phải là bằng chứng chắc chắn có sự sắp
đặt an bài của Đấng Tạo Hóa hay sao? Becquerel đã nói: “Chính các công
cuộc khảo cứu khoa học của tôi đã đưa tôi đến chỗ nhận biết có Thiên
Chúa tạo hóa và làm cho tôi có đức tin”.
2. Tiểu vũ trụ cũng chứng minh có Thiên Chúa:
Vũ
trụ tinh tú khổng lồ thật là một kỳ công. Nhưng vũ trụ nguyên tử tý hon
cũng không kém phần lạ lùng kỳ diệu. Nếu đem phân tích vật chất, ta sẽ
thấy như sau:
- Đơn chất: Mọi vật chất trong vũ trụ thiên nhiên
đều được cấu thành bởi những đơn chất. Chẳng hạn: Cái bàn do nhiều đơn
chất gỗ hợp lại thành. Chiếc nhẫn là do nhiều đơn chất vàng cấu tạo
nên... Những đơn chất này rất nhỏ, nhỏ đến nỗi mắt thường của chúng ta
không thể phân biệt được chúng với nhau.
- Nguyên tử: Mỗi đơn
chất nói trên lại được cấu tạo bởi một số nguyên tử nhất định. Chẳng
hạn: Chất nước gồm một nguyên tử Ôxy và 2 nguyên tử Hyđrô kết hợp thành
đơn chất H2O.
Các nguyên tử đều khác nhau tùy theo mỗi vật:
nguyên tử đồng khác nguyên tử sắt; nguyên tử vàng khác nguyên tử
gỗ...Những nguyên tử này ở rải rác khắp nơi trong vũ trụ, khi thì kết
cấu với cái này, khi thì với cái khác làm thành sự biến hóa vật chất
không ngừng trong thiên nhiên. Ta có thể ví các nguyên tử giống như 24
chữ cái a,b,c...hợp tan, tan hợp, làm thành các tiếng. Đến nay các nhà
bác học đã xác định được 92 nguyên tử khác nhau.
Nguyên tử nhỏ
lắm, nhỏ đến nỗi những kính hiển vi phóng đại mạnh nhất cũng không thể
nhìn ra được. người ta chỉ căn cứ vào dấu vết nó đi qua để nhận biết sự
hiện hữu của nó. Hiện nay những kính hiển vi tối tân nhất có thể nhìn
những vât nhỏ bằng 2 phần 10 triệu milimét. Nhưng như thế vẫn còn lớn
hơn nguyên tử hằng mấy triệu lần!
Mỗi nguyên tử là một thái dương
hệ, có một nhân ở trung tâm giống như mặt trời, gồm các dương điện tử
(Proton) và trung hòa tử (Neutron) liên kết với nhau. Lượn chung quanh
nhân là chi chít những âm điện tử (Electron). Các âm điện tử này chạy
chung quanh trung tâm với tốc độ 297.000km/giây. Thật không khác gì các
hành tinh lượn chung quanh mặt trời và cách xa nhau tương đối cũng bằng
khoảng cách của các hành tinh đối với mặt trời vậy.
Khoảng giữa
các nguyên tử, có gì không? Thực không có gì hết. Nếu các nguyên tử sát
lại với nhau thì ta không thể nâng nổi đầu của một cái kim khâu. Trọng
lượng của các vật nặng nhẹ khác nhau là vì cách xếp đặt nguyên tử của
các vật đều khác nhau. Nếu người ta có thể dồn ép các nhân dương điện tử
trong một nguyên tử, và các nguyên tử trong thân thể con người khít lại
gần nhau, thì thân thể ta chưa chắc to bằng một hột đậu, mà vẫn cân
nặng như hiện nay!
Có một sức lực ghê gớm đã giữ cho trái đất và
các hành tinh quay chung quanh mặt trời, thì cũng có một sức lực tương
tự giữ âm điện tử quay chung quanh trung tâm nguyên tử như vậy. Nếu lợi
dụng được sức mạnh mẽ đó, thì người ta sẽ có một sức mạnh kinh khủng. Đó
là điều các nhà bác học đã làm để chế tác bom nguyên tử với chất
Uranium. (Bom nguyên tử là một thứ khí giới tối tân nhất có sức tàn phá
do những hạt nguyên tử bị tách ra, Radium luôn luôn chiếu ra những quang
tuyến “A.B.Y” và quang tuyến Y luôn luôn phát ra những chất cực nhỏ có
thể xuyên qua những tấm sắt dầy 20cm. Chỉ có lớp chì dày mới có thể cản
được sức tàn phá của nó).
Những điều nói trên cho ta thấy có sự
xếp đặt, an bài trật tự từ cái cực to đến cái cực nhỏ, trật tự ấy lại
rất hoàn hảo không thể làm khác đi được. Nếu cố tình làm sai thì sẽ gây
nên những hậu quả tai hại khôn lường.
Một câu chuyện xảy ra chứng
minh trật tự thiên nhiên hoàn hảo đến độ nào: một con ong dù không có
trí khôn, nhưng nó luôn phải bó buộc làm theo bản năng thúc đẩy. Theo
bản năng thiên phú, khi làm tổ chứa mật, ong tự nhiên xây bình chứa hình
lục lăng. Các nhà bác học đã quan sát nghiên cứu cách xây dựng tổ ong,
và đã đo rất nhiều bình do nhiều loại ong thực hiện, bao giờ góc tù của
bình ấy cũng là 109028’ và góc nhọn cũng là 70032’.
Nhà bác học
REAMUR một ngày kia đặt câu hỏi thế này: Giả sử muốn làm một cái bình
hình lục lăng có khả năng chứa nhiều nước nhất thì phải làm mỗi góc của
bình ấy bao nhiêu độ? Một nhà bác học ra công tính toán những con tính
rắc rối với việc sử dụng cả bảng tính Logarithme, cuối cùng tuyên bố kết
quả: muốn cho bình chứa được nhiều nước nhất phải làm góc tù là 109026’
và góc nhọn là 70034’. Chỉ sai biệt với bình chứa của ong làm có 2’.
Thế
rồi một ngày nọ xảy ra tai nạn làm hỏng một chiếc tầu. Thuyền trưởng
không chịu trách nhiệm và cho rằng mình đã làm đầy đủ bổn phận, đã tính
toán rất đúng. Vậy sở dĩ có rủi ro là vì đường vĩ tuyến có sự sai lầm
nào đó. Sau khi tìm tòi lâu ngày, người ta mới khám phá ra rằng trong
bảng tính Logarithme có một chổ sai, khiến vị thuyền trưởng làm tính sai
và gây ra tai nạn cho chiếc tầu. Chữa lại chỗ sai trong bảng tính rồi
thử lại với cách tính 2 góc của hình lục lăng nói trên thì các nhà bác
học mới thấy mình đã làm sai 2’. Phải thực hiện chiếc bình theo góc tù
là 109028’ và góc nhọn cũng là 70032’ như con ong đã làm mới đúng.
Vậy
loài ong không có trí khôn biết tính toán như con người, chỉ biết làm
theo bản năng thiên phú, thế mà lại làm đúng hơn cả những nhà bác học
thông minh nhất! Đứng trước sự kiện hiển nhiên ấy, loài người phải đặt
vấn đề: Cái trật tự hoàn hảo trong thiên nhiên nói trên do đâu nếu không
bắt nguồn từ một trí khôn siêu việt, đã từng sáng tạo vạn vật và an bài
theo một trật tự hoàn hảo được gọi là định luật thiên nhiên nơi vũ trụ
và bản năng nơi các sinh vật. Nguyên nhân ấy chính là Thiên Chúa.
II. SINH VẬT CHỨNG MINH CÓ Thiên Chúa:
Sự
sống tràn đầy trên mặt đất, đâu đâu ta cũng nhận thấy có sinh vật hoạt
động. Nhưng cho tới nay, sự sống vẫn còn là một huyền nhiệm mà khoa học
bất lực không thể giải thích được lý do. Sự sống sẽ là một điều phi lý
nếu người ta không công nhận có Thiên Chúa:
1.Huyền nhiệm của sự sống:
Sự
sống là một cái gì đó huyền bí. Người ta chỉ có thể cảm nghiệm hay thấy
được hiệu quả của sự sống, chứ không thể nhìn được chính sự sống nơi cơ
thể một sinh vật sống động. Người ta cũng có thể làm thay hình đổi
dạng, cắt cụt một phần cơ thể con vật, có thể làm cho nảy nở nhanh chóng
hơn, hoặc kéo dài them chút ít sự sống, nhưng không bao giờ có thể thay
đổi được nguyên lý của sự sống nơi con vật. Chẳng hạn: con chó đã được
cấu tạo trở thành loài chó, thì không có cách nào làm cho nó hóa ra loài
bồ câu được.
Để tìm hiểu sự sống, các nhà bác học đã phân chất
một quả trứng gà, rồi dùng các chất y như vậy để làm nên một quả trứng
gà khác với đầy đủ mọi tính chất như trứng gà thực. Tuy vậy, dù được cấu
tạo giống hệt như nhau, mà khi đem cả hai vào máy ấp thì trứng gà đẻ ra
thì sống và nở ra gà con, còn trứng gà của các nhà bác học “đẻ” thì
chết và bị hư thối. Sở dĩ trứng nhân tạo không thể sống, dù các yếu tố
vật chất trong quả trứng ấy vẫn hoạt động đúng theo định luật vật lý hóa
học, là vì không có một sức lực vô hình liên kết các hoạt động ấy theo
một hướng chung, phát triển theo một mô thức chung. Chính sức lực vô
hình ấy là bí mật của sự sống. Bác sĩ ALEXIS CARREL (1873-1944) là nhà
giải phẫu và sinh vật học người Pháp đã được trao Giải Nobel Sinh lý và Y
khoa năm 1912, đã trình bày về sự tăng triển kỳ diệu của sự sống từ một
tế bào, rồi tế bào ấy tự phát triển theo một mô thức đặc biệt để trở
thành con vật sống động như sau:
“Con vật được cấu tạo bởi những
tế bào, cũng giống như cái nhà được xây dựng bằng những viên gạch. Nhưng
con vật xuất phát từ một tế bào duy nhất, như thể cái nhà chỉ bắt nguồn
từ một viên gạch mà thôi. Một viên gạch đầu tiên tự tạo lấy những viên
gạch khác, chỉ với nước suối, những chất muối hòa tan trong nước vá khí
trời. Rồi những viên gạch ấy không cần đến kiến trúc sư vẽ kiểu, khong
cần đến bàn tay của thợ hồ, đã tự động kết hợp thành những bức tường.
Các viên gạch cũng tự động biến thành các tấm kính để làm cửa, ngói để
lợp mái, than để đốt lò, nước để làm bếp”. (Alexis Carrel: “L’Homme, cet
inconnu”- P. 160).
Như vậy thì hình như mầm giống con vật sinh
sống đã biết trước cái nhà mà nó xây dựng. Hiện tượng kỳ lạ ấy diễn ra
hằng triệu lần mỗi ngày cho hằng triệu giống vật sinh sống, cũng như
diễn ra âm thầm trong bụng những con vật mẹ.
Khi nhìn vào sinh
vật thượng đẳng là con người chúng ta lại càng phải thán phục sự tinh vi
kỳ diệu và hoàn hảo của sự sống: hai buồng phổi là một xưởng máy sản
xuất dưỡng khí thật hoàn hảo. Dạ dày là một nhà máy chế biến đồ ăn trở
thành chất bổ nuôi dưỡng cơ thể. Gan là bộ máy phát ra sức nóng và sức
chuyển động. Thận là nhà máy lọc các chất dơ. Trái tim là thứ máy bơm
hai chiều. Óc và hệ thần kinh là nhà máy điện tử với một hệ thống liên
lạc để điều khiển toàn thân. Hai tay là hai cơ quan hành động hữu hiệu.
Chân là cơ quan để di chuyển. Mắt là một thứ máy chụp tự động tối tân
nhất. Tai là đài ra đa sống động. Họng là máy phát thanh hoàn hảo...Có
thể nói: cơ thể sống động của con người thực là một hiện tượng thần kỳ
và khó hiểu nhất trong vũ trụ thiên nhiên, là một kỳ quan lớn nhất trong
các kỳ quan trên thế giới.
Vậy sự sống bí nhiệm lạ lung nơi các sinh vật từ hạ đẳng đến thượng đẳng nói trên bởi đâu xuất hiện?
2. Nguồn gốc của sự sống:
Nói về nguồn gốc sự sống do đâu mà xuất hiện thì có rất nhiều giả thuyết khác biệt nhau được nêu ra:
1) Một số người quả quyết sự sống vẫn có ngay từ buổi đầu, ngay từ khi trái đất bắt đầu thành hình.
Nhưng
theo các nhà khoa học thì trái đất khi mới xuất hiện là một khối lủa có
nhiệt độ rất cao ở thể chảy lỏng rồi phải mất một thời gian dài mới
nguội dần. Như vậy, sự sống làm sao có thể chịu nổi sức nóng kinh khủng
thuở ban đầu ấy được? Ông Cuvier, một nhà cổ sinh vật học trứ danh, đã
quả quyết như sau: “Nhất định sự sống không bắt đầu cùng với trái đất.
Một nhà quan sát sẽ dễ dàng nhận biết lúc nào sự sống mới xuất hiện và
lưu lại vết tích dưới các tầng đất của địa cầu”. Vậy lúc đầu tiên không
có mà ngày nay ta thấy sự sống đã tràn lan trên mặt đất. Thế thì sự sống
ấy do đâu mà có nếu phủ nhận sụ sáng tạo của Thiên Chúa?
2) Có
người lại cho rằng sự sống ngày nay có được là do các mầm sống từ một
nơi nào đó trong vũ trụ rơi xuống mặt đất, rồi sau đó sinh sôi nảy nở
thêm ra và lan rộng ra khắp nơi.
Nhưng nếu thực sự có mầm sống từ
không trung rơi xuống như thế, thì lại phải giải thích cái mầm sống ấy
từ đâu ra? Hơn nữa, theo những khám phá mới nhất của khoa học không gian
thì những hành tinh gần chúng ta như Mặt trăng (cũng là một hành tinh
ngang hàng với trái đất chứ không phải phát xuất từ trái đất!), Kim
tinh, Hỏa tinh đều không có dấu hiệu nào cho thấy có sự sống cả. Đàng
khác, nếu có mầm sống rơi như vậy, thì theo các nhà khoa học: mầm sống
ấy chắc chắn không thể sống được, mà đã bị các tia phóng xạ của ánh sáng
mặt trời tiêu diệt rồi.
3) Cũng có người lại chủ trương sự sống
tự nhiên mà có. Theo họ, trong một điều kiện nào đó về nhiệt độ và khí
hậu... thì vật chất sẽ tự hóa sinh ra các sinh vật. Chẳng hạn: Cái bàn
bằng gỗ sau thời gian ít năm sẽ tự nhiên bị mọt ăn, hoa quả thối chin sẽ
tự nảy sinh ra dòi bọ...
Nhưng thuyết sự sống tự phát sinh này
đã bị Pasteur và Tyndall chứng minh ngược lại. Hai nhà bác học thời danh
này đã làm một thí nghiệm cho thấy: không bao giờ có sự tự hóa sinh.
Hai ông đã cô lập hóa một vài môi trường mà sự sống thường phát sinh.
Rồi tìm cách loại bỏ, giết chết tất cả các mầm sống có sẵn trong môi
trường ấy. Hai ông cho biết: dù có đủ mọi điều kiện thích hợp, môi
trường bị cô lập kia cũng không bao giờ tự hóa sinh sự sống nữa. Vậy sở
dĩ có trường hợp vật chất hóa sinh sự sống là vì đã có sẵn mầm sống
trong vật chất đó, nên khi đủ điều kiện nó liền tự nảy nở ra. Thực sự
không có vấn đề ngẫu sinh hay tự hóa sinh cả.
Ngoài ra, tất cả
những thí nghiệm nhằm tạo nên tế bào sống đều thất bại. Một vị giáo sư
sinh vật học nọ một ngày kia đã thử làm một hạt giống nhân tạo. Ông phân
chất một hạt giống thật, rồi dùng những chất liệu như vậy để chế tạo ra
một hạt giống khác. Sau một thời gian quan sát, ông nhận xét: hạt giống
nhân tạo cũng mọc lên, có rễ, có thân, nhưng vẫn không có sự sống,
không thở, không lưu chuyển nhựa sống. Sở sĩ cây có mọc lên mà không
sống là vì thiều hai đặc tính quan trọng của sự sống là: có tổ chức và
tự dinh dưỡng. Còn sự mọc rễ, mọc thân nói trên cũng chỉ là một hiện
tượng vật lý hóa học của các chất hữu cơ, chứ không có chút dấu vết nào
của sự sống thực sự. Bác sĩ Halluin giải thích them về hiện tượng mọc rễ
mọc thân như sau: “Hạt giống mọc lên thực nhưng núi đá cũng mọc lên mà
vẫn không sống, cũng như một quả bóng người ta thổi hơi vào cũng phình
ra mà vẫn không sống, thân cây rong biển khô, được đặt vào nơi ẩm ướt
cũng phình lên to, nhưng sự phồng lên đó không phải dấu của sự sống”.
Nhà
bác học Delage đã làm một thí nghiệm về sự thụ thai nhân tạo: ông cho
một con hải đởm cái thụ thai mà không theo cách thức thông thường là
giao hợp với con đực. Mượn lấy thí nghiệm ấy, một số người vô tín đã vội
lên tiếng quả quyết: “Loài người đã tạo dựng lên được sự sống”. Nhưng
chính Delage lại phủ nhận quả quyết mà người ta đã gán cho thí nghiệm
của ông như sau: “Khi tôi làm được cho con hải đởm thụ thai và sinh con
như thế, người ta kêu ầm ĩ lên rằng: tôi đã tạo ra được sự sống. Nhưng
thực sự tôi chẳng tạo ra được gì cả. Những ống tiêm của tôi chỉ có thể
ảnh hưởng đối với trứng của con vật kia, khi tiêm vào đó một chất hữu
cơ. Còn nói rằng tôi đã tạo ra được sự sống thì thực là lầm to!”
Như
vậy, không có vấn đề ngẫu sinh, không có tự hóa sinh tuyệt đối. Khoa
học không thể làm được một vật sống động nếu không có sẵn một mầm sống
trước đó. Nếu sự sống không tự nhiên có thì phải nhận có sự sáng tạo của
một nguyên nhân tối hậu nào đó. Nguyên nhân ấy là Thiên Chúa.Chính Ngài
đã sáng tạo sự sống cách trực tiếp hay gián tiếp bằng cách xếp đặt một
trật tự, một định luật trong vật chất, để khi có đủ điều kiện thì mầm
sống ấy sẽ xuất hiện.
Ngoài ra, khi tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên,
người ta cũng nhận ra rằng: có một sự xếp đặt nhằm bảo tồn sự sống nơi
các định luật thiên nhiên chi phối sự vận hành của các hành tinh trong
vũ trụ.
3. Bảo tồn sự sống:
Khoa học cho biết: sự sống chỉ
có thể tồn tại và phát triển nếu hội đủ điều kiện về khí hậu, nhiệt độ,
ánh sáng...Nếu thiếu một trong các điều kiện quan trọng thì sinh vật
khó long sống được. thế mà khi quan sát các hiện tượng thiên nhiên,
người ta lại đi kết luận chung như sau: Có một sự xếp đặt nào đó để bảo
tồn sự sống trong vũ trụ. Thực vậy:
1) Tốc độ quay của trái đất
cũng giúp bảo tồn sự sống: Trái đất hiện đang quay với tốc độ 1600
km/giờ ở đường xích đạo. Nếu quay chậm đi 10 lần, thì ngày và đêm trên
địa cầu sẽ dài gấp 10 lần hiện nay. Như vậy một số cây sẽ bị chết khô,
số còn lại sẽ bị chết cóng.
2) Khoảng cách giữa mặt trời và trái
đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Nhiệt độ của mặt trời là 5.500 độ. Trái
đất cách quãng xa vừa đủ để cho chúng ta được sưởi ấm. Nếu giảm đi một
nửa khoảng cách để xa mặt trời hơn thì mọi sinh vật sẽ chết vì lạnh.
Nhưng nếu them một nửa khoảng cách để đến gần mặt trời hơn thì mọi vật
sẽ bị chết cháy hết.
3) Độ nghiêng của trái đất cũng giúp bảo tồn
sự sống: Trái đất phải ở vị trí hiện nay, nghĩa là nghiêng 23 độ thì
mới có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông và hai cực mới khỏi bị chồng chất
băng tuyết. Nếu nghiêng ở vị trí khác thì mùa màng sẽ thay đổi khác hẳn,
sẽ ảnh hưởng tới sự đâm chồi nảy lộc và đơm bông kết trái của cây cối.
4)
Khoảng cách giữa trái đất và mặt trăng cũng giúp bảo tồn sự sống: Nếu
mặt trăng gần lại trái đất 80.000 cây số thì mỗi ngày nước biển sẽ bao
phủ lục địa 2 lần và sẽ cuốn trôi mọi vật ra biển.
Như vậy, trước
những lý chứng hiển nhiên nói trên, mọi người có trí khôn đều phải công
nhận: phải có một trí khôn siêu việt và một bàn tay quyền năng nào đó
đã tạo dựng nên sự sống cách trực tiếp hoặc gián tiếp, và đã an bài xếp
đặt chúng có những điều kiện thiên nhiên hoàn hảo như hiện nay. Trí khôn
siêu việt và bàn tay quyền năng ấy chính là Thiên Chúa sáng tạo vậy.
III. LUẬT LUÂN LÝ MINH CHỨNG CÓ Thiên Chúa:
1. Nơi mỗi người đều có luật luân lý:
Ai
trong chúng ta cũng đều nghe thấy một tiếng nói thầm kín khuyên bảo
phải làm điều lành và tránh làm điều ác. Đồng thời ta sẽ cảm thấy niềm
vui thỏa sau khi thực hiện được một điều thiện, trái lại sẽ cảm thấy ray
rứt bất an nếu cố tình làm trái tiếng nói thầm kín ấy. Đó là tiếng nói
của lương tâm, một luật tự nhiên vẫn có sẵn trong tâm trí mỗi người từ
khi sinh ra.
Luật tự nhiên này có những đặc tính khác hẳn những
định luật vật lý hóa học, hoặc luật lệ xã hội như phong tục tập quán
hoặc luật pháp của quốc gia.
+ Luật lý hóa một khi đủ điều kiện
thì đương nhiên phải xảy ra. Chẳng hạn: lửa gặp rơm khô ngoài khí trời
tất nhiên sẽ phải cháy. Còn luật luân lý thì không những lệ thuộc điều
kiện khách quan bên ngoài, nhưng còn lệ thuộc vào sự lựa chọn chủ quan.
Chinh do sự lựa chọn tự do này mà con người trở thành một loài vật giá
trị ưu việt nhất, khác hẳn các loài vật hành động hoàn toàn do bản năng
mù quáng thúc đẩy. Văn hào Chateaubriand đã nói: “Con hổ xâu xé con mồi
rồi ngủ ngay được. Duy chỉ có con người, sau khi đã nhúng máu thì khó
lòng nhắm mắt bình an, vì những hình ảnh báo oán của kẻ bị hại luôn hiện
lên trước mắt y.
+ Luật xã hội do con người trong xã hội quy
định gọi là phong tục tập quán. Luật pháp quốc gia do một số người đại
diện có trách nhiệm thiết lập nên và được ghi chép lại thành văn để mọi
người trong quốc gia ấy tuân giữ. Trong khi luật luân lý vẫn có sẵn
trong mỗi người từ khi sinh ra, chứ không nhất thiết phải có ai dạy mới
biết, không được ghi chép thành văn giống như luật quốc gia ở trên. Thế
mà hầu như mọi người không phân biệt thời đại, dân tộc, quốc gia... cũng
đều biết cùng một bộ luật căn bản giống nhau là: phải làm việc lành và
tránh làm điều ác, không được giết người vô tội, không được ăn cắp hoặc
cướp đoạt tài sản của người khác cách bất công, phải thảo hiếu cha mẹ,
trọng kính người trên v.v... Mà nếu cố tình làm trái các điều trên thì
đương nhiên con người sẽ bị lương tâm cáo trách, cho dù các việc làm ấy
không ai hay biết. Câu chuyện Cain trong Thánh Kinh chứng tỏ điều đó.
Ca-in
vì ghen tuông nên đã phạm tội giết đứa em ruột là A-ben, rồi sau đó đã
chạy trốn con mắt lương tâm theo dõi nhưng không sao chạy thoát. Cuối
cùng Ca-in đã phải tự tìm đến cái chết treo cổ để đền tội. Nhà văn hào
Plutarque người Hy lạp cũng kể câu chuyện nội dung như sau: Một gã kia
tên là Pessus phạm tội giết cha. Dù không ai hay biết việc làm của hắn,
nhưng có điều lạ là từ hôm đó, Pessus luôn nghe thấy những con chim én
lặp đi lặp lại: “mày là thằng giết cha, mày là thằng giết cha!”, dù thực
sự loài én chỉ biết kêu một âm thanh như thường lệ. Hắn tìm cách phá
hết mọi tổ én, nhưng vẫn không xong. Cuối cùng hắn đã buột miệng nói với
người khác rằng những con chim én luôn kêu hắn là kẻ giết cha. Sinh
nghi, người ta mở cuộc điều tra và việc giết cha của hắn đã bị đưa ra
ánh sáng.
2. Tiếng lương tâm hay luật luân lý trong con người:
Các câu chuyện trên cho thấy có một thứ luật luân lý tự nhiên gọi là
tiếng lương tâm, chi phối mọi hành động của con người có trí khôn, thuộc
mọi thời đại, mọi dân tộc, màu da, tiếng nói... Vậy luật ấy do đâu mà
có?
1) Nguồn gốc của luật luân lý nơi con người.
Có một số
người nói rằng luật luân lý tự nhiên nơi mỗi người là do tự mình đặt ra
cho mình, hoăc cũng có thể do xã hội giáo dục từ nhỏ rồi nhập tâm dần
dần mà ra. Nhưng khi đi sâu vào việc nghiên cứu tìm hiểu, chúng ta thấy
không phải như vậy vì những lý do như sau:
- Lương tâm mỗi người
không phải tự mình đặt ra: Vì nếu mỗi người tự đặt ra luật cho mình thì
chắc người ta sẽ phải đặt ra những luật dễ giữ và có lợi cho bản thân,
đồng thời sẽ loại bỏ những luật có hại cho bản thân mình. Nhưng luật
luân lý có những đặc tính khác hẳn: khó giữ vì không luôn phù hợp với
khuynh hướng xấu của con người, nên chắc không phải do tự mỗi người đặt
ra cho mình. Đàng khác, nếu mỗi người đều tự lập ra luật riêng cho mình
thì chắc luật luân lý sẽ phải khác nhau chứ không thống nhất giống nhau
như ta thấy trong luật luân lý nơi con người được.
- Luật luân lý cũng không phải do xã hội giáo dục, khuôn đúc hình thành dần dần trong tâm hồn mỗi người từ nhỏ đến lớn vì:
+
Xã hội là do nhiều cá nhân kết hợp lại thành. Nếu luật luân lý do xã
hội giáo dục thì chỉ những ai sống trong cùng một xã hội mới hiểu biết
và mới giữ luật ấy. Nhưng trong thực tế có những người sống một mình từ
nhỏ tới lớn, không tiếp xúc, cũng không chịu ảnh hưởng của xã hội, thế
mà họ vẫn biết cùng một thứ luật luân lý như nhau. Như vậy, luật luân lý
tự nhiên chắc chắn không phải do xã hội, cũng không bắt nguồn từ xã
hội.
+ Đàng khác, nếu luật luân lý bắt nguồn từ xã hội thì chắc
sẽ phải thay đổi tùy theo mỗi xã hội, chứ không thể có tính đồng nhất
trong mọi xã hội như tiếng nói của lương tâm mỗi người được.
Vậy
phải đi đến kết luận: luật luân lý tự nhiên có sẵn trong tâm hồn mỗi
người ngay từ khi mới sinh ra, chứ không phải mỗi người tự đặt ra luật
riêng cho mình; Cũng không phải do xã hội khuôn đúc giáo dục hình thành.
Cha mẹ, thầy dạy hay xã hội chỉ đóng vai trò phụ thuộc, giúp cho luật
ấy phát triển mau lẹ và rõ ràng hơn trong tâm hồn đứa trẻ mà thôi. Luật
luân lý tự nhiên ấy phải do Tạo Hóa in sẵn trong tâm hồn con người có lý
trí, tương tự như một thứ bản năng của thân xác. Đấng ấy chính là Thiên
Chúa. Giám mục Jacques Bénigne Bossuet đã nói: “Những chân lý vĩnh cửu
và bất biến của luật luân lý bó buộc ta phải công nhận có một Đấng mà
chân lý vĩnh cửu luôn tồn tại nơi Ngài”.
IV. NHỮNG VIỆC LẠ LÙNG MINH CHỨNG CÓ Thiên Chúa:
Ngay
trong thế kỷ 21, thế kỷ khoa học tiến bộ vượt bậc trong việc tìm hiểu
và khám phá những định luật chi phối vũ trụ thiên nhiên, chi phối mọi
sinh vật, động vật kể cả con người...Thế mà vẫn không thiếu những trường
hợp lạ lùng trái ngược luật tự nhiên xảy ra khắp nơi: khỏi bệnh nan y
một cách tức khắc không do sự chữa trị thông thường, mà do một thứ quyền
lực thiêng liêng nào đó ngoài tầm hiểu biết của khoa học. Những hiện
tượng xáo trộn trật tự vũ trụ như mặt trời quay ở Fatima Bồ Đào Nha vào
đầu thế kỷ 20 (năm 1917) đã được hằng vạn người chứng kiến v.v... Tất cả
những hiện tượng ấy gọi chung là các phép lạ.
1. Có phép lạ thực hay chỉ là bịa đặt:
Từ
11/02 đến 16/07/1858, Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần với Bernadette
Soubirous. Lần thứ 9, Đức Mẹ chỉ cho Bernadette tìm được nguồn suối dưới
chân hang đá Massabielle. Nơi đây trở thành linh địa, mỗi năm có hơn 6
triệu khách hành hương uống và tắm trong nước suối. Từ 150 năm nay có 7
ngàn trường hợp khỏi bệnh không thể cắt nghĩa được.
Vào trung
tuần tháng 10, mưa hồng ân đổ xuống Lộ Đức. Vị giám mục giáo phận Casale
Monferrato ở miền bắc nước Ý chính thức công bố quyết định công nhận
phép lạ thứ 68.
Đức Cha Nicolas Brouwet, giám mục Lộ Đức đã tuyên
đọc sắc lệnh công nhận, với sự chứng kiến của BS Alessandro de
Franciscis, chủ tịch văn phòng y chứng Lộ Đức (BCM). Phép lạ chữa lành
cho nữ tu Luigina Travetrso được ghi nhận vào ngày 23/07/1965.
Sœur
Luigina Traverso sinh năm 1934, bị liệt cột sống. Vị nữ tu này chịu
giải phẫu nhiều lần vẫn không khỏi. Ủy ban Y khoa Quốc tế Lộ Đức (Cmil)
đã chứng thực ngày 23/07/1965, trước hang đá Lộ Đức, vị nữ tu này đứng
dậy được từ xe lăn, đi đứng bình thường. Đây là phép lạ thứ 68 được
chính thức công nhận.
Đức Mẹ đã phán bảo: ‘‘Các con hãy đến uống
và tắm nước suối.’’ Từ đó, nhiều người được khỏi bệnh. Năm 1884, Giáo
Hội Công Giáo thành lập Văn phòng Y chứng để xem xét các lời khai. Sau
khi được Văn phòng này chấp nhận, hồ sơ được chuyển qua Văn phòng Y khoa
Quốc tế. Sau đó, giáo phận của người được lành bệnh chính thức mở cuộc
điều tra. Nữ tu Luigina Traverso là trường hợp thứ 68 được công nhận
được khỏi bệnh nhờ phép lạ.
Thành viên của Văn phòng Y chứng và
Văn phòng Y khoa Quốc tế gồm cả những những bác sĩ không Công Giáo. Các
chuyên gia cần chứng nhận trường hợp khỏi bệnh không thể giải thích được
bằng khoa học. Các tiêu chuẩn xét nghiệm gồm việc:
- Người bệnh được chẩn đoán một cách minh bạch;
- Bệnh trạng đã được xác nhận trước khi xảy ra phép lạ;
- Người bệnh được hoàn toàn lành bệnh tức khắc và vĩnh viễn, sau này không bị tái phát;
- Việc trị liệu y khoa không phải là nguyên nhân được lành bệnh.
Văn phòng bác bỏ nhiều lời khai không đáp ứng được các tiêu chuẩn vừa kể.
Sau
đây là số liệu các phép lạ Đức Mẹ Lộ Đức: 1858-1870: 7 trường hợp /
1908-1913: 33 / 1946-1965: 22 / 1976-1978: 2 / 1989: 1 / 1999: 1 / 2005:
1 / 2011: 1.
Ngoài phòng khám bệnh khoa học của các bác sĩ, vào
năm 1905, Hội Đồng Giám Mục cũng đã thành lập một ủy ban điều tra chính
thức của giáo quyền nhằm phân quyết những trường hợp nào là phép lạ,
trường hợp nào là không. Ủy ban làm việc môt cách cẩn thận và vô tư theo
cách thức của một tòa án. Những trường hợp được tuyên bố là phép lạ thì
không thể hồ nghi gì được nữa. Từ năm 1905 đến 1913, ủy ban này đã công
bố 32 phép lạ thực.
Như vây, phòng khám nghiệm của các y sĩ cũng
như ủy ban các giám mục đều đã xác nhận tại Lộ Đức đã có những trường
hợp khỏi bệnh cách lạ lùng. Trong tạp chí Études ấn hành năm 1909, linh
mục Teilhard de Chardin đã đưa ra quan điểm của Giáo Hội về phép lạ Lộ
Đức như sau: ‘‘Các phép lạ Lộ Đức là các sự kiện không thể chối cãi
được, chứng minh tác động sáng tạo của Thiên Chúa.’’
(nguồn: Vietcatholic news).
2. Phép lạ bởi đâu?
Những
người không tin có Thiên Chúa khi đứng trước những trường hợp lạ lùng
khoa học không thể giải thích được, đã đem ra rất nhiều lý lẽ để phủ
nhận sự can thiệp của Thiên Chúa như sau:
- Khỏi bệnh vì nguyên
nhân tự nhiên: Vì trong nước suối ở hang Lộ Đức có pha lẫn một thứ chất
hóa học có năng lực chữa được một số bệnh tật.
Nhưng thực sự, khi
đem phân chất thì kết quả cho thấy nước suối ấy cũng chỉ là một thứ
nước lã bình thường như bao thứ nước khác, không có thêm một chất nào
khác có thể chữa bệnh cả. Đàng khác, có nhiều trường hợp bệnh nhân không
xuống đến nước, cũng không uống chút nước ấy, thì bảo khỏi bệnh tại
nước thế nào được?
- Khỏi bệnh là vì lý do tâm lý: Vì quá tin và muốn được khỏi cách mãnh liệt, nên đã ám thị mình đến độ trở thành sự thực.
Nhưng
nếu tin tưởng và ám thị có thể chữa được bệnh, thì nếu muốn được khỏi,
bệnh nhân trước hết đã phải biết tin, biết ám thị. Thế mà có nhiều
trường hợp trẻ con chưa có trí khôn, chưa biết gì hết mà vẫn được khỏi
nhờ lời cầu nguyện của cha mẹ hay người khác, thì khỏi bệnh đâu phải tại
tin hay tại ám thị. Thực ra, ám thị cũng có thể có đôi chút ảnh hưởng
đến một vài thứ bệnh tâm lý, đau thần kinh, điên loạn, chứ không có thể
chữa được các bệnh do vi trùng hay siêu vi trùng gây ra như: Bệnh phong
cùi, ung thư, thổ huyết, lao phổi...
- Khỏi bệnh là vì quy luật
tự nhiên: do ảnh hưởng của một thứ quy luật tự nhiên bí mật nào đó chi
phối mà người ta chưa khám phá ra:
Nhưng nếu vậy thì luật ấy phải
có tác dụng điều hòa, đồng nhất, bất di dịch, cho dù người ta có biết
hay không biết thì luật đó vẫn tác dụng. Hễ cứ hội đủ điều kiện khách
quan là đương nhiên kết quả phải xảy ra. Chẳng hạn, người mù trước làm
thế nào để được khỏi mù thì các người sau cứ làm đúng như thế sẽ đương
nhiên được sáng mắt. Nhưng ở Lộ Đức thì tình trạng lại khác hẳn: Có
người được khỏi khi tắm, người khác thì khỏi khi đang cầu nguyện vào
những thời gian khác nhau trong ngày: sáng, trưa, chiều, tối... Ở điều
kiện nào cũng có người được khỏi. Có những trường hợp hai người bệnh
cùng trong một hoàn cảnh, cùng một thứ bệnh giống nhau, mà người thì
được khỏi, người thì không. Như vậy, không thể nói có một luật bí mật
được.
- Khỏi bệnh do có sự lừa dối nào đó: cần phải chờ sự phán quyết của các nhà bác học hoàn toàn vô tư.
Carrel,
một vị tiến sĩ y khoa, giáo sư giải phẫu học tại đại học Lyon Pháp,
trước khi đi Lộ Đức quan sát tận nơi cũng đã nghĩ như vậy. Ông cho rằng:
có lẽ các nhà khoa học chưa khám nghiệm kỹ đủ, có thể còn một vài sơ
suất chưa cân nhắc tường tận. Theo Carrel: Ngoài những sự kiện khoa học
tìm ra và kiểm chứng rõ ràng thì không còn chân lý nào khác có giá trị.
Không thể có phép lạ được! Nhưng trước sự khỏi bệnh lạ thường của Marie
Ferrand, một cô gái đang hấp hối vì bệnh lao ruột ở giai đoạn chót mà
các bác sĩ đều từ chối không dám mổ cho cô, mà Carrel đã chứng kiến tận
mắt từ khi cô gái này mới đến Lộ Đức cho tới lúc khỏi bệnh tức khắc mà
không thể cắt nghĩa được. Ông đã chịu khuất phục và ghi chú trong nhật
ký: “Thật là một chuyện không có thể, nhưng có thực. Quả là bất ngờ: một
phép lạ vừa mới xảy ra”. Ngay lúc đó không còn tin ở mình, Carrel lập
tức mời hai bác sĩ bạn ông tới chứng kiến và các ông này cũng đều chứng
nhận: “Cô này không còn bệnh gì hết, cho cô ra khỏi nhà thương”.
Việc
bác sĩ vô thần Carrel thay đổi tâm hướng đã nói lên một sự thật mà con
người dù yêu sách đến đâu cũng phải suy nghĩ: Quả thật, có Đấng Tạo Hóa,
có Thiên Chúa. Ngài là Đấng đã thiết lập trật tự trong vũ trụ thiên
nhiên, thì trong môt vài trường hợp đặc biệt, Ngài cũng có thể để xảy ra
ngoài trật tự ấy. Đó chính là phép lạ vậy.
TÓM LẠI:
Trước
những trật tự lạ lùng trong vũ trụ thiên nhiên, trước việc sự sống tràn
đầy trên mặt đất, trước những luật luân lý in sâu trong tâm hồn mỗi
người, trước những phép lạ mà khoa học đành bất lực không thể tìm ra lời
giải thích hợp lý... Chúng ta phải công nhận có ĐẤNG TẠO HÓA; CÓ Thiên
Chúa SÁNG TẠO. Chính Ngài đã tạo dựng nên vũ trụ và đã an bài chúng theo
một trật tự chung mà khoa học gọi là định luật thiên nhiên. Chính Ngài
là nguồn gốc của sự sống, đã tạo thành mọi sinh vật từ thấp kém đến cao
quý nhất, và đã phú cho chúng những bản năng riêng để tự phát sinh và
tồn tại. Cũng chính Ngài là tác giả của bộ luật luân lý tự nhiên in sẵn
trong tâm trí con người từ khi sinh ra. Sau cùng, Ngài còn là tác nhân
của những trường hợp đặc biệt xảy ra ngoài trật tự tự nhiên mà khoa học
không thể giải thích được.
Như vậy, tuy khoa học không thể chứng
minh có Thiên Chúa một cách trực tiếp vì ngoài phạm vi nghiên cứu của
nó, nhưng khoa học vẫn có thể góp phần quan trọng trong việc tỏ rõ kỳ
công của Ngài. Chính nhờ những hiểu biết rõ ràng chính xác do khoa học
đem lại, con người dễ dàng sử dụng trí khôn suy luận để nhận ra có bàn
tay quyền năng, có trí khôn siêu việt đã xếp đặt và tạo dựng nên vũ trụ
vạn vật. Bàn tay và trí khôn ấy là của Thiên Chúa Tạo Hóa.
Newton,
một nhà thiên văn học lừng danh đã dám mạnh dạn lên tiếng quả quyết:
“Tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa ở đầu thiên lý kính của tôi”. P.Termier
cũng cho biết: “Mọi khoa học đều chuẩn bị trí khôn ta nhận biết Thiên
Chúa hiện hữu. Hơn mọi người khác, nhà bác học dù chuyên về khoa nào
cũng thế, bao giờ cũng dễ dàng nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, hỗn
hợp, khuyết điểm... có cùng đích và rất phức tạp. Do đó, nhà khoa học sẽ
dễ dàng có y tưởng về một Đấng Tạo Hóa bất biến, tự hữu, đơn thuần,
hoàn hảo, và là Đấng duy nhất an bài mọi sự. Chính vì thế người ta bảo:
KHOA HỌC DẪN ĐẾN Thiên Chúa. VŨ TRỤ VẬT CHẤT CHÍNH LÀ BÍ TÍCH CỦA Thiên
Chúa”.
3. THẢO LUẬN: 1) Bạn có nên tranh cãi với người vô tín về
sự hiện hữu của Thiên Chúa không? Tại sao? 2) Bạn nên làm gì khi có
người yêu cầu trình bày giáo lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa để giúp họ
thêm xác tín vào quyền năng của Ngài?
4. NGUYỆN CẦU: Lạy Thiên
Chúa Cha Toàn Năng, Đấng tạo thành trời đất. Xin cho chúng con thêm xác
tín vê sự hiện hữu cua Chúa trong vũ trụ thiên nhiên va nơi mỗi chúng
con. Xin cho chúng con năng cầu xin Chúa ban thêm đức tin, giống như
người cha có đứa con bị quỷ câm ám đã thưa với Đức Giê-su: “Tôi tin!
Nhưng xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24).
_____________________
LM ĐAN VINH - HHTM
PHỤ CHÚ:
NĂM ĐƯỜNG LỐI CHỨNG MINH CÓ Thiên Chúa
CỦA THÁNH TÔMA TIẾN SĨ.
Thánh
Thomas d’ Aquin (1225-1274), một vị tiến sĩ thần học rất nổi tiếng thời
trung cổ đã đề ra 5 đường lối chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa như
sau:
1. Sự chuyển động của vũ trụ chứng minh có Thiên Chúa:
Bất
cứ một vật nào đang chuyển động cũng phải lệ thuộc vào một động lực
khác. Chẳng hạn: một chiếc xe đang chạy là do người tài xế đã rồ máy và
điều khiển tay lái, một viên đạn bay ra khỏi nòng súng, một nồi nước
đang sôi lên sung sục là do tác dụng của lửa làm nóng nước lên. Vậy thì
khi nhìn vào vũ trụ, ta thấy có sự chuyển động của các hành tinh, thì
cũng phải có một động lực nào đó đã ảnh hưởng tới và làm cho chúng xoay
vần di chuyển trong không gian. Động lực ấy chính là Thiên Chúa.
2. Luật nhân quả chứng minh có Thiên Chúa:
Nhìn
vào vũ trụ vật chất, ta nhận thấy có sự liên hệ mật thiết giữa vật này
với vật kia, vật có sau lệ thuộc vào một nguyên nhân có trước. Chẳng
han: có khói là đã phải có lửa, có con là đã phải có cha mẹ... Nếu cứ
suy luận lên mãi thì cuối cùng phải đi đến một nguyên nhân tự mình hiện
hữu, không bị lệ thuộc vào một nguyên nhân nào khác mới hợp lý. Nguyên
nhân tự hữu ấy là Thiên Chúa.
3. Sự sắp xếp trật tự minh chứng có Thiên Chúa:
Kinh
nghiệm cho ta biết: sự may rủi bao giờ cũng đi đôi với vô trật tự và
hỗn độn. Chẳng hạn: Lấy 24 chữ cái A B C D... viết vào các mảnh giấy rồi
bỏ trong một chiếc hộp, sau đó lắc hộp và đổ các mảnh giấy ra. Không
bao giờ bạn đạt được thứ tự như cũ: A B C D... Trái lại, bất cứ vật gì
ta thấy được xếp đặt trât tự thì đều là kết quả của một trí khôn nào đó.
Chẳng hạn: nhìn xem một vườn cây ăn trái được sắp đặt thứ tự, cây cối
tùy loại mọc ngay hàng thẳng lối... ta quả quyết đã phải có một trí khôn
làm chủ vườn cây ấy. Cũng vậy, khi quan sát vũ trụ thiên nhiên, ai ai
cũng thấy có sự xếp đặt kỳ diệu từ cái cực to là các hành tinh, đến cái
cực nhỏ như nguyên tử; Từ sự sống thấp nơi thảo mộc cây cối đến sự sống
phức tạp, trổi vượt nhất nơi loài người... Từ đó, họ sẽ đi đến kết luận:
Phải có một Đấng nào đó toàn năng siêu việt... đã an bài cho vạn vật
hình thành và phát triển hài hòa trật tự. Đấng toàn năng ấy chính là
Thiên Chúa.
4. Bậc thang giá trị nơi vạn vật minh chứng có Thiên Chúa:
Khi
quan sát vạn vật trong vũ trụ ta thấy chúng có những bậc thang giá trị
khác nhau: Có vật thì không mấy thẩm mỹ, có vật lại rất mỹ miều và đáng
yêu, có vật ít hữu ích nhưng cũng có vật lại ích lợi rất nhiều, có vật
lại tầm thường, nhưng cũng có những vật thật là cao quý...từ đó, ta suy
ra: phải có một vị nào đó có mọi điều tốt đẹp, cao quý nhât...làm tiêu
chuẩn cho vạn vật trong vũ trụ hữu hạn này. Đấng tuyệt đối ấy chính là
Thiên Chúa.
5. Cứu cánh của vạn vật minh chứng có Thiên Chúa:
Cứu
cánh nghĩa là cùng đích, là mục đích chính yếu cuối cùng tuyệt đối. Mỗi
người chúng ta đều tự nhiên cảm thấy có ước muốn, khát vọng vô bờ bến.
Không một sự gì đã đạt đươc lại có thể làm ta thỏa mãn và đem lại cho ta
hạnh phúc hoàn toàn. Do đó, bên trên mọi điều mong ước, về vật chất
cũng như tinh thần, ta ước muốn một điều gì bền bỉ, hoàn hảo, vĩnh
viễn... Sự hoàn hảo tuyệt đối mà con người mong muốn đạt tới ấy gọi là
cứu cánh của con người. Cứu cánh ấy không thể có trong vạn vật ở trần
gian mà chỉ có được ở nơi Thiên Chúa. Chính sự khát vọng tuyệt đối, sự
hướng về cứu cánh tuyệt đối ấy là bằng chứng cho thấy có Thiên Chúa.
Thánh Augustin nói: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng lên con hướng về Chúa, nên
tâm hồn con luôn xao xuyến mãi cho tới khi nào con được nghỉ yên trong
Chúa”.
TÓM LẠI: Với trí khôn suy luận từ sự vận chuyển của các
vật bị động đến một động lực không bị động; Từ các vật không thể tự mình
mà có đến một Đấng Tự Hữu; Từ sự trật tự của vũ trụ đến một trí khôn
toàn năng đã an bài xếp đặt; Từ các bậc thang giá trị của vạn vật đến
một giá trị tuyệt đối vô hạn; Từ sự mong ước tuyệt đối đến một Đấng là
Cứu Cánh mà vạn vật hướng về... Tất cả đã chứng minh cho chúng ta một
điều không thể chối cãi được. Đó là: vũ trụ vạn vật đã do Thiên Chúa tạo
dựng nên. Nhưng Thiên Chúa ở đây vẫn chỉ là một vị Thiên Chúa trừu
tượng, xa xôi, không có liên hệ bao nhiêu với mỗi người chúng ta. Đây là
Thiên Chúa của các triết gia mà thôi. Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là
một Thiên Chúa của tình thương, liên hệ chặt chẽ với loài người và đã
bày tỏ bản tính của Ngài qua các tổ phụ, các tiên tri Cựu Ước, và qua
chính Con Một Ngài là Đức Giêsu Kitô thời Tân Ước. Tất cả những điều
Thiên Chúa mặc khải ấy đã được chép lại thành môt bộ sách gọi là Thánh
Kinh. Do đó, ngoài việc dùng lý trí suy luận để biết có Thiên Chúa, con
người còn có bổn phận phải tìm hiểu học hỏi Thánh Kinh để biết Chúa là
ai?, nhờ đó sẽ tỏ lòng biết ơn bằng cách tôn thờ, cảm tạ, yêu mến, cầu
xin và vâng Lời Ngài.