Hiểu Sai Hai Chữ "Đồng Minh" - Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng Viết Sách Không Đúng

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng viết cuốn sách "Khi Đồng Minh Tháo Chạy" chứng tỏ tác giả không hiểu thấu đáo ý nghĩa hai chữ "Đồng Minh". Vì sự sống còn, trong Thế chiến II, Hoa Kỳ đồng minh với Anh, Pháp, Nga để chống lại phe trục gồm Đức Quốc Xã, Phát Xít Ý và Quân Phiệt Nhật, mặc dù cộng sản Nga chủ trương đào mồ chôn tư bản Mỹ. Nhưng khi chiến tranh chấm dứt, sự sống còn không cần thiết nữa thì Nga vẫn là kẻ thù của Mỹ (Thế giới Tự Do) và Ý, Nhật, Tây Đức trở thành đồng minh.

Là người có văn bằng Tiến sĩ, xuất thân từ Đại học Hoa Kỳ, lẽ ra Tiến sĩ Hưng phải hiểu rằng trong bang giao quốc tế, không bao giờ có bạn muôn đời và kẻ thù truyền kiếp. Vấn đề là tương quan quyền lợi. Không cần dẫn chứng, thực tế đã cho ta thấy điều đó. Viết cuốn sách với tiêu đề "Khi Đồng Minh Tháo Chạy" là trốn tránh trách nhiệm của kẻ dự phần nắm vận mệnh quốc gia và gửi một tín hiệu sai lầm cho các thế hệ mai sau cái tinh thần ỷ lại. Người Mỹ đọc cuốn sách của Tiến sĩ Hưng sẽ khinh, vì không lý do gì Hoa Kỳ gắn bó với một Đất Nước mà tiền viện trợ không vào túi dân, lại vào túi quan tham, phát súng đạn để tiêu diệt kẻ thù thì lại dùng súng đạn để thanh toán lẫn nhau tranh giành quyền lực, con cái các quan lớn đi du học nước ngoài, dân nghèo cam phận làm bia đỡ đạn. Lại thêm có cả phong trào biểu tình đốt Tòa Đại sứ và đòi đuổi Mỹ về nước của nhóm đội lốt tôn giáo làm công cụ cho cộng sản.

Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, Hoa Kỳ không còn coi Việt Nam là đồng minh nữa. Bằng cớ là Nguyễn Khánh làm cuộc chỉnh lý, dẹp bỏ Thượng Hội đồng Quốc gia thì bị Đại sứ Maxwell Taylor kêu đến trình diện để xỉ vả. Nguyễn Khánh lánh mặt, bèn phái Tướng Nguyễn văn Thiệu, Tướng Nguyễn Cao Kỳ đến chịu trận. Theo lời thuật trong hồi ký, Đại tá Phạm Bá Hoa kể rằng mỗi khi một ông Tướng nào âm mưu đảo chánh, rủ ông Tướng khác theo mình thì đều khoe là đã được Đại sứ Mỹ đồng ý. Vậy thì, tư cách đồng minh đâu còn nữa! Thật đáng tiếc cho ông Diệm có dưới tay một đám tướng lãnh vừa bất tài, vừa không biết tự trọng, không có tinh thần quốc gia dân tộc!

Mới đây, Tiến sĩ Hưng ra mắt cuốn sách "Tâm Tư Tổng Thống Thiệu" đã khiến cho nhiều người chê bai, phê bình. Mỗi người sống trên đời đều có tâm tư hay nỗi niềm riêng. Có người bày tỏ, có người ấp ủ mang xuống tuyền đài. Tổng thống Ngô Đình Diệm bị bọn man rợ giết bất thần, không kịp trăn trối với hậu thế. Người đời sau, vì đạo đức và công lý, nếu viết tâm tư Tổng thống Diệm là điều dễ hiểu. Tổng thống Thiệu sau khi bỏ đồng bào, đồng đội chạy tháo thân, còn sống một thời gian dài, chết già chứ không đột tử, tất nhiên ông có nhiều thì giờ để giải bày tâm tư của mình với nhân dân. Nhưng ông Thiệu đã im lặng, có lẽ ông không đủ can đảm nói lời tạ tội với nhân dân, nên ông đã mang nỗi niềm riêng xuống tuyền đài. Nếu Tiến sĩ Hưng thực lòng yêu mến và kính trọng ông chủ cũ của mình, theo tôi nghĩ, cách tốt hơn hết là Tiến sĩ Hưng nên để linh hồn ông Thiệu yên nghỉ. Người có thể may ra nói lên phần nào tâm tư ông Thiệu là Hoàng Đức Nhã; chứ không phải Nguyễn Tiến Hưng!

Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, nhân vật lãnh đạo nhân dân bảo vệ sự sống còn của Miền Nam, tất nhiên ông là người có trọng trách lớn nhất. Phi công vận tải chỉ được phép mang dù khi thi hành phi vụ thả dù người hay vật liệu. Nhưng nếu là phi vụ chở hành khách, phi công không được mang dù để khi phi cơ bị trở ngại kỹ thuật thì người phi công phải bình tĩnh lo cứu sinh mạng hành khách, chứ không phải vì sẵn có dù mang theo mà nhảy ra ngoài thoát thân. Người hạm trưởng phải sống chết với hành khách chứ không thể ôm phao nhảy xuống biển để thoát thân một mình. Huống chi là người lãnh đạo tối cao, chỉ vì sợ Mỹ đe dọa mạng sống mà lén lút thoát thân bỏ mặc đồng bào? Mỗi hành vi của nhà lãnh đạo đều bị lịch sử phán xét. Ông Nguyễn văn Thiệu là người như thế nào đối với lịch sử?

Ông Thiệu là người tinh khôn, thận trọng, nhẫn nhục và thủ lợi cá nhân. Người có đặc tính như vừa kể có thể giúp ích cho bản thân, gia đình. Nhưng nếu người có đặc tính đó mà lãnh đạo đất nước thì đất nước nhất định tiêu vong. Dưới đây là một số dữ kiện đã xảy ra trong đời của nhà lãnh đạo nền Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam:

1/ Theo lời tường thuật trong hồi ký của Đại tá Phạm bá Hoa, Tổng thống Diệm rất tin cẩn ông Thiệu nên trao chức Tư lệnh Sư Đoàn V Bộ Binh cho ông Thiệu. Sư đoàn V trú đóng gần thủ đô Sài Gòn, nếu có binh biến thì Sư đoàn V kịp thời cứu giá. Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu trưởng Liên Quân, năm 1963 móc nối Đại tá Thiệu tham gia đảo chánh ông Diệm. Lúc 1 giờ trưa ngày 1 tháng 11 tiếng súng đảo chánh nổ ra, ông Thiệu đem quân về Sài Gòn, giữ yên tình trạng chờ đợi để thăm dò tình hình. Nếu phe đảo chánh có cơ thắng thì ông Thiệu ngả về phe đảo chánh. Nếu phe đảo chính yếu thế, ông Thiệu sẽ là người chỉ huy chống đảo chánh để được tiếng cứu Tổng thống Ngô Đình Diệm. Qua hành động này, ông Thiệu chứng tỏ là người tinh khôn, sẵn sàng phản chủ hay cứu chủ tùy theo hoàn cảnh. Suốt 8 năm làm Tổng thống, ông Thiệu không bao giờ mạo hiểm lấy một quyết định nào mà ông xét thấy không chắc mang cái lợi cho bản thân ông. Đem sự khôn ngoan đó áp dụng vào lúc quốc gia gặp cơn dầu sôi lửa bỏng, thì quốc gia phải tiêu thôi! Cái khôn đó, dân gian gọi là "láu cá".

2/ Năm 1965, chính phủ dân sự do kỹ sư Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng và bác sĩ Phan huy Quát làm Thủ tướng không giải quyết nổi sự bất hòa, giao lại quyền lãnh đạo Đất Nước cho Quân đội vào buổi tối ngày 18 tháng 6. Hôm sau có cuộc họp của Hội đồng Quân Lực nhóm tại Bộ Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến, Thiếu tướng Tư lệnh KQ Nguyễn Cao Kỳ đề nghị Trung tướng Nguyễn văn Thiệu đứng ra thành lập chính phủ, vì lúc bấy giờ ông Thiệu đang là Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng trong Nội các Phan Huy Quát, lại là người đang Chủ tọa phiên họp. Ông Thiệu nhất mực từ chối, mặc dầu được toàn thể hội nghị vỗ tay tán đồng. Tướng Kỳ nhất mực đề nghị Tướng Thiệu khiến cho Tướng Thiệu đe dọa: "Nếu tiếp tục đề nghị tôi, tôi sẽ tuyên bố bế mạc buổi họp". Kế đến, Tướng Kỳ đề nghị Tướng Nguyễn Chánh Thi thì Tướng Thi cũng từ chối như Tướng Thiệu. Sau giờ giải lao, hai Tướng Thiệu, Thi bàn nhau đề nghị Tướng Kỳ đứng ra thành lập chính phủ và Tướng Kỳ đồng ý nhận lãnh trách nhiệm qua sự trao phó của Quân Đội, vì không lẽ để cho con thuyền quốc gia không có người cầm lái. Không phải ông Thiệu không ham chức Thủ tướng, nhưng bản tính tinh khôn, trốn tránh trách nhiệm, ông Thiệu nhận thấy tình hình quá khó khăn nên không dại gì đưa đầu chịu báng.

3/ Không ngờ Tướng Kỳ ổn định được tình hình, mang lại uy tín quốc gia bằng đường lối ngoại giao khéo léo để chứng minh sự tự vệ của Miền Nam là chính đáng, dẹp yên cuộc biến động Miền Trung, tổ chức thành công bầu cử Quốc hội Lập Hiến và viết xong Hiến Pháp. Theo sự tiết lộ của Đại sứ Cabot Lodge với Tướng Kỳ: "Nếu Nội các của Tướng Kỳ bất lực, không mang lại sự ổn định cho công cuộc chống xâm lăng cộng sản thì Hoa Kỳ có hai chọn lựa: (a) bỏ mặc Miền Nam cho cộng sản thôn tính; (b) Hoa Kỳ sẽ "take over" trực tiếp điều hành cuộc chiến, không cần thiết Miền Nam phải có một chính phủ. Năm 1967, tổ chức cuộc bầu cử Tổng thống, Quân đội đề nghị Tướng Cao văn Viên thay ông Thiệu tạm thời giữ chức Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, ông Thiệu làm Tổng Tham mưu trưởng, ông Kỳ đại diện Quân đội ra tranh cử Tổng thống, vì ông Kỳ đã điều hành trôi chảy công việc Hành pháp. Tại sao các Tướng lĩnh đưa ra đề nghị vừa nêu? Có hai lý do: (a) Hai liên danh Quân đội ra tranh cử thì sẽ không chắc thắng liên danh dân sự ; (b) Trong cuộc đối đầu với biến động Miền Trung, Tướng Thiệu bình chân như vại, phó mặc cho Tướng Kỳ loay hoay tả xung hữu đột, tỏ ra là người thiếu tinh thần đồng đội (teamwork) và vô trách nhiệm. Tướng Thiệu phản đối đề nghị của các Tướng lĩnh và quả quyết nói: "Nếu chỉ có hai lá phiếu (của ông và vợ ông) thì ông cũng nhất định ra tranh cử." Năm 1965, Tướng Thiệu không chấp nhận lời đề cử của Tướng lĩnh đứng ra thành lập Chính phủ vì nhận thấy tình hình quá khó khăn. Năm 1967, Tướng Thiệu nhất định chống lại đề nghị của Tướng lĩnh và cương quyết ra tranh cử Tổng thống vì nhận thấy tình hình Đất Nước đã ổn định, nên không thể bỏ lỡ cơ hội. Cuối cùng, các Tướng lĩnh tổ chức Đại hội Toàn quân nhóm tại Bộ Tổng Tham mưu với mục đích đẩy Tướng Thiệu ra khỏi Quân đội (giải ngũ), để mặc cho ông ra tranh cử như một ứng cử viên dân sự. Sau khi đã hoàn thành bản Nghị Quyết, Tướng Cao văn Viên ra mời Tướng Thiệu và Tướng Kỳ ngồi chờ bên ngoài vào phòng hội để nghe đọc kết quả. Lúc bấy giờ, người Tướng Thiệu bỗng nhiên rũ xuống như một cái cây sắp đổ; Tướng Kỳ cảm thấy thương tâm quá nên đưa tay ra hiệu cho Tướng Viên: "Thôi! Các anh khỏi phải đọc kết quả, tôi trở về phục vụ Không Quân và nhường cho ông Thiệu đại diện Quân đội ra tranh cử ghế Tổng thống". Lập tức Tướng Hoàng Xuân Lãm phát biểu: "Hoan nghênh tinh thần đoàn kết vì Quân đội của anh Kỳ; nhưng anh Kỳ đã thương Quân đội thì xin thương cho trót. Yêu cầu anh Kỳ đứng phó cho Tướng Thiệu thì mới mong Liên danh Quân đội thắng cử được. Nếu đề nghị của tôi mà hai anh không đáp ứng thì tôi xin trả cặp lon Tướng này cho Quân đội". Vừa nói, Tướng Lãm vừa đưa tay lên tháo cặp lon đang mang trên vai. Những dữ kiện này, người viết biết được qua sự tường thuật của Tướng Nguyễn ngọc Loan và được kiểm chứng với Tướng Cao văn Viên, Tướng Nguyễn Bảo Trị. Tuy nhiên những vị Tướng còn sống hiện nay cũng biết rõ sự kiện này. (Tướng Loan rất bất mãn quyết định "bốc đồng" – chữ ông Loan dùng – của Tướng Kỳ).

Để bảo đảm tập thể Quân đội trách nhiệm lãnh đạo Đất Nước, Tướng Nguyễn Đức Thắng (hiện còn sống) đề nghị thành lập Quân Ủy hội như là Bộ Chính trị của cộng sản, mà thành viên gồm có Tướng Thiệu, Tướng Phạm Xuân Chiểu (Tổng thư ký Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia), Tướng Kỳ và các Tướng Tư lệnh Quân Đoàn, Tư lệnh Quân binh chủng. Tướng Kỳ được bầu làm Chủ tịch Quân Ủy hội. Tất cả thành viên Quân Ủy hội đều đặt bút ký, trong đó có cả Tướng Thiệu. Nghĩa là trên bề mặt, Tướng Thiệu là Tổng thống, nhưng chịu sự lãnh đạo của tập thể Quân đội. Sau khi Đại Hội bế mạc, Tướng Kỳ trở về Bộ Tư lệnh Không Quân. Trưởng tình báo CIA ở Sài Gòn là William Colby vào ngay Tân Sơn Nhất hỏi Tướng Kỳ tại sao ông lại nhường cho ông Thiệu ra tranh cử Tổng thống, trong khi phía Mỹ đã chuẩn bị ủng hộ ông. Tướng Kỳ đáp: "Đây là vấn đề nội bộ của Việt Nam, Hoa Kỳ không nên can thiệp". Ông Colby ra sức thuyết phục để Tướng Kỳ thay đổi quyết định, nhưng Tướng Kỳ cương quyết giữ nguyên quyết định. (Phải chăng Tướng Kỳ cố giữ chữ "Tín" của đạo người quân tử?). Sau khi kết quả bầu cử đã có, dân biểu Lê Phước Sang cũng nỗ lực thuyết phục Tướng Kỳ thay đổi quyết định qua đề nghị sau: Quốc Hội sẽ không phê chuẩn kết quả bầu cử, phải tổ chức bầu cử lại và Tướng Kỳ sẽ không đứng chung liên danh với Tướng Thiệu nữa". Đề nghị của dân biểu Lê Phước Sang cũng bị ông Kỳ từ chối vì ông cho rằng đó là một trò ma-nớp chính trị bẩn thỉu. Kẻ thù sẽ khinh.

4/ Sau khi đắc cử Tổng thống, Tướng Thiệu dùng quyền lực Tổng Tư lệnh Quân đội vô hiệu hóa chức năng Quân Ủy hội mà cách đó không lâu ông đã đặt bút ký tên xác nhận tuân hành. Ông dùng ngân quỹ quốc gia mua chuộc Dân biểu, Nghị sĩ làm gia nô. Trước khi bầu cử Tổng thống nhiệm kỳ hai vào năm 1971, ông Thiệu sai gia nô làm ra đạo luật quy định điều kiện ứng cử viên phải hội đủ 25 Dân biểu hay Nghị sĩ hoặc 100 đại diện Hội đồng Tỉnh ký tên giới thiệu. Mặc dầu trong vai trò Phó Tổng thống, ông Kỳ cộng tác đắc lực với Tổng thống, như đích thân điều động Quân đội phản công Việt Cộng trong Tết Mậu Thân, khi ông Thiệu còn ẩn náu ở Mỹ Tho; đại diện Tổng thống sang Pháp giải quyết một số bế tắc của Hòa Đàm Paris. Nhưng vào phút chót ông Thiệu mới báo cho ông Kỳ biết ông sẽ chọn Trần văn Hương đứng chung liên danh để ông Kỳ không kịp chuẩn bị tranh cử. Ứng cử viên khác, Đại tướng Dương văn Minh, bị bác đơn tranh cử vì lý do không có giấy chứng chỉ tình trạng hợp lệ quân dịch (!) Cuối cùng, ông Thiệu độc diễn với kết quả phiếu bầu 99%. Cái tiểu xảo của ông Thiệu nói lên tính phản bội của ông đã đành, đồng thời nó làm cho dư luận quần chúng Mỹ chống đối sự hiện diện quân lực Hoa Kỳ ủng hộ một chính quyền phi dân chủ. Tướng lãnh giết Tổng thống Diệm bằng hành động man rợ đã làm cho thế giới nhìn vào Miền Nam bằng con mắt kinh tởm. Ông Thiệu độc diễn làm tiêu tan chính nghĩa quân dân Miền Nam chiến đấu vì Tự Do – Dân Chủ.

5/ Sau cuộc đảo chánh Tổng thống Diệm hoàn thành, ông Nguyễn văn Kiểu – bào huynh của ông Thiệu – giới thiệu em mình vào Đảng Đại Việt. Kỹ sư Hà Thúc Ký và bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn chấp nhận lời tuyên thệ vào đảng của ông Thiệu trong một nghi thức trang nghiêm được tổ chức ở Bộ Tổng tham mưu. Lẽ ra, khi lên làm Tổng thống, ông Thiệu có tư thế thuận lợi kết hợp các hệ phái trong Đại Việt ngồi lại với nhau để cùng nhau chấn hưng và kiện toàn đảng. Nhưng không, ông Thiệu sai ông phụ tá Nguyễn văn Ngân đứng ra thành lập đảng Dân chủ. Phàm người đang ở ghế cầm quyền mà đi thành lập đảng thì chỉ có những kẻ cơ hội, không có tinh thần tự trọng mới tham gia để trục lợi cá nhân. Hơn nữa ông Thiệu không là hình ảnh của một lãnh tụ cách mạng dấn thân thì khó có người noi gương ông gia nhập đảng vì lý tưởng. Ông Thiệu đã phản lại lời thề trung thành với Đảng Đại Việt.

6/ Tình hình chiến sự mỗi ngày một gia tăng khốc liệt. Áp lực của Hoa Kỳ buộc phải ký kết thỏa ước thua thiệt cho phía mình, đáng lý ra Tổng thống Thiệu công khai nói thẳng với quốc dân về sự chèn ép của Hoa Kỳ để cùng nhau lo toan đại sự, nhưng lại sử dụng các vị dân cử gia nô làm luật sửa đổi Hiến Pháp để ông có thể ra tranh cử nhiệm kỳ ba. Sự tham quyền khiến đầu óc u tối, ông Thiệu không nhìn thấy nước mất thì ghế Tổng thống không còn! Đến khi bị địch quân đánh chiếm Ban Mê Thuột thì ông quýnh quáng có những quyết định hốt hoảng, bất nhất, giở trò "tháu cáy" với Mỹ như thể đang chơi canh bạc bịp. Tướng Kỳ từ đồn điền Khánh Dương bay về Sài Gòn, vào Bộ Tổng tham mưu nhờ Đại tướng Cao văn Viên trình với Tổng thống cung cấp cho ông một binh đoàn chiến xa cùng Bộ binh tùng thiết để tái chiếm Ban Mê Thuột. Do bản tính đa nghi, ông Thiệu từ chối lời yêu cầu của ông Kỳ vì sợ bị ông Kỳ đảo chánh. Cái tâm lý "thà mất nước hơn mất quyền" của ông khiến cho người nào có tấm lòng tận tụy hy sinh vì Đất Nước đành tuyệt vọng.

7/ Ngày 21 tháng 4, Tổng thống Thiệu lên đài truyền hình cam kết sẽ cùng anh em quân sĩ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ Miền Nam. Khuya hôm sau ông cùng với Thủ tướng Trần Thiện Khiêm lén lút lên phi cơ đào tẩu sang Đài Loan, bỏ mặc đồng bào mình sống chết ra sao thì ra. Điều tệ hại nhất là ông Thiệu ra lệnh bất nhất cho các cấp chỉ huy ngoài chiến trường: khi thì tử thủ bất kể giá nào; khi thì di tản chiến thuật. Tướng Ngô Quang Trưởng về Sài Gòn trình diện thì ông Thiệu ra lệnh giam lỏng ở Bộ Tổng tham mưu. Khi đào tẩu, ông Thiệu không chịu ra lệnh trả tự do cho Tướng Trưởng. Nếu trưa ngày 29 Tháng Tư năm 1975, Tướng Kỳ không bay sang Tổng Tham mưu để liên lạc với Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân Đoàn IV, nhằm cứu vãn tình hình, thì Tướng Ngô Quang Trưởng đã bị kẹt lại và có thể rục xương trong lao tù cộng sản. So với cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân của cộng sản trên toàn cõi Miền Nam năm 1968, mất Ban Mê Thuột vào năm 1975 đâu đã có gì là trầm trọng mà ông Thiệu lại có quyết định rút lui Quân Đoàn II bằng con đường số 7 Pleiku – Tuy Hòa là con đường đã không sử dụng từ lâu? Hậu quả là các Đại đơn vị đua nhau đổ theo.

*

* *

Sơ lược qua 7 điểm vừa nêu ra trên, người viết trình bày cho độc giả thấy đặc điểm của nhà lãnh đạo Miền Nam, một người chỉ biết thủ lợi cá nhân, sẵn sàng phản chủ (đảo chánh Ngô Đình Diệm), phản bạn (đẩy Tướng Nguyễn Cao Kỳ ra khỏi chính trường), phản đảng (đi lập đảng Dân chủ), phản chiến hữu và đồng bào (thề sẽ sống chết với Đất Nước, rồi bỏ trốn). Thật khó lòng tìm ra được một thành tích nào đáng kể mà Tổng thống Thiệu đã làm vì nhân dân, vì đất nước. Cho nên với chừng ấy bằng chứng, Tiến sĩ Hưng không thể nào phục hồi danh dự hoặc giải bày tâm tư cho Tổng thống Thiệu.

Là một Tướng lĩnh từng làm Tư lệnh Sư đoàn, Tư lệnh Quân Đoàn, Tổng trưởng Quốc Phòng, chẳng hiểu tại sao ông Thiệu có phương cách sử dụng Quân đội một cách hết sức lạ lùng. Hai đơn vị nổi tiếng thiện chiến là Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến thì bị đẩy ra vùng hỏa tuyến làm nhiệm vụ đóng chốt phòng thủ. Chức năng của hai Sư đoàn này là Lực Lượng Tổng Trừ Bị, nghĩa là Lực Lượng Xung Kích ("Force de Frappe" hoặc "Strike Force") dùng để giải cứu quân bạn đang đụng trận nặng hoặc bất thần tấn công vào mật khu địch rồi rút về hậu cứ để tái bổ sung quân số và dưỡng sức cho cuộc can thiệp khác. Sử dụng hai đơn vị tinh nhuệ nhất của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa để đóng đồn thì chẳng khác nào giết con gà mà dùng dao mổ trâu; dùng con ngựa chiến để kéo xe thồ, ai hiểu được thâm ý của vị Tổng Tư lệnh? Chẳng cần phải là nhà chiến lược quân sự để biết sự phí phạm đó! Phải chăng Tướng Thiệu sợ hai đơn vị thiện chiến này ở gần thủ đô thì dễ đảo chánh? Suốt 8 năm cầm quyền, Tổng thống Thiệu không có một kế hoạch sử dụng Quân đội để phá vỡ chiến thuật của Võ Nguyên Giáp: "Căng địch quân ra để đánh". Đời sống binh sĩ cùng cực, nghèo khổ chẳng được quan tâm; tinh thần quân nhân sa sút cũng mặc. Nạn thương phế binh cắm dùi lung tung cứ để yên, không thèm giải quyết. Kẻ nào chết ngoài chiến trường cứ việc chết; kẻ nào ăn chơi phè phởn cứ việc ăn chơi. Người lãnh đạo vô trách nhiệm, không hề có một động thái nào nêu cao tấm gương của người đứng đầu sóng ngọn gió, dám hy sinh cho Dân, cho Nước để động viên toàn lực quốc gia.

Dùng mọi thủ đoạn, mánh khóe để bước lên đài danh vọng tột bực, ông Thiệu không ý thức được sự hữu hạn của kiếp người. Quyền lực, tiền bạc, cơ ngơi không thể đi theo mình khi hai tay buông xuôi. Cái có thể còn lại mãi mãi là lưu danh thơm tiếng tốt cho hậu thế. Ở vào cương vị có điều kiện để thực hiện lợi ích cho nhân quần xã hội nhằm lưu danh thiên cổ, ông Thiệu lại chọn con đường lưu xú vạn niên. Hai bên đánh nhau, tất có kẻ thắng, người bại. Nhưng cuộc bại trận năm 1975 là cuộc bại trận quá sức nhục nhã, bởi vì binh hùng tướng mạnh vẫn còn đó, vũ khí đạn dược vẫn còn đó mà đành tan tác như một đàn gà mất mẹ. Chấp nhận khoác chinh y, không người lính nào có ý định đào ngũ khi được chỉ huy bởi cấp chỉ huy can trường sống chết với thuộc cấp. Bản năng con người là tham sống sợ chết, nhưng mọi sự trên đời đều có cái giá của nó. Người chỉ huy phải vượt bản năng để tùy tùng cấp dưới noi theo. Đó là lý do tại sao trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt đào tạo sĩ quan chỉ huy tương lai nêu cao phương châm: "Tự Thắng Để Chỉ Huy". Tức là thắng cái bản năng tham sống sợ chết. Tướng Thiệu nguyên là Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, chắc chắn ông phải thuộc nằm lòng câu đó hơn ai hết. Tiếc thay, khi nếm mùi vinh hoa phú quý, Tướng Thiệu trở thành con cừu, đêm khuya lén lút đào thoát, để lại Tướng lãnh dưới quyền ông phải kê súng vào đầu tự sát và anh em đồng đội bị hành hạ thể xác, chịu nhục tinh thần trong lao tù khổ sai của bạo quyền bất nhân.

Những câu trả lời của Tiến sĩ Hưng với độc giả về vấn đề tham nhũng của ông Thiệu là lối ngụy biện, chối quanh giống như cán bộ tuyên truyền của Đảng Cộng Sản đang cai trị Đất Nước bây giờ. Chẳng hạn, ông Hưng nói rằng ông đã du hành nhiều quốc gia trên thế giới, ông thấy nước nào cũng có tham nhũng; thậm chí Hoa Kỳ cũng có tham nhũng. Theo lời Phật dạy, "tham – sân – si" là bản tính của con người nên phải tu tâm dưỡng tính để đạt chánh quả. Phương Tây cũng có câu: "Power corrupts; absolute power corrups absolutely". Bởi thế, người ta mới bày ra tam quyền phân lập để kiềm chế lẫn nhau; cộng thêm quyền tự do báo chí để phanh phui những vụ ăn cắp, hối lộ. Và giới hạn thời gian cầm quyền (term limit) để tránh sự việc gian nhân hiệp đảng cấu kết lẫn nhau để bòn rút tài sản quốc gia. Nắm chính quyền trong tay, vừa đá bóng, vừa thổi còi, tất nhiên máu tham lam không bị ai ngăn chặn thì tha hồ vơ vét. Bản cáo trạng của linh mục Trần hữu Thanh có chữ ký của 301 linh mục và các dân biểu trong Khối Độc Lập Hạ Viện tố giác những vụ mua quan bán chức, buôn bạch phiến, đầu cơ thực phẩm là những sự kiện không thể chối cãi. Tổng trưởng Thông Tin – Dân Vận Hoàng Đức Nhã ra lệnh tịch thu những tờ báo nào đăng tải bản cáo trạng thì đâu còn gì là công lý nữa?

Khi nhà báo của đài Á Châu Tự Do (RFA) nhắc lại câu trả lời của Tổng thống Thiệu cho một nhà báo ngoại quốc "I have nothing to do with them" (Tôi không mắc mớ gì đến đám người đó). Đám người đó là những thuyền nhân vượt biển, những người tù khổ sai trong trại tập trung cộng sản. Tiến sĩ Hưng bào chữa cho ông Thiệu, đổi thành "I have nothing to do for them" (Tôi không còn gì nữa để làm cho họ). Chắc chắn nhà báo ngoại quốc có thu băng câu trả lời của Tổng thống Thiệu. Nếu quả tình ông Thiệu trả lời "I have nothing to do for them", ông Hưng phải tìm cho ra ông ký giả đã phỏng vấn ông Thiệu xin bản sao của cuốn băng để chứng minh với thính giả thì sự bào chữa mới có sức thuyết phục. Sau khi đã ổn định cuộc sống ở xứ người, Tổng thống Thiệu đã không làm bất cứ điều gì mà trong khả năng của ông có thể làm được để tỏ ra ân hận vì sự vô trách nhiệm của mình với đồng bào, với chiến hữu. Chẳng hạn, lấy tư cách là cựu lãnh đạo của Miền Nam, ông Thiệu có thể bay sang Bangkok gặp vua Thái Lan và các Tướng lĩnh Thái để nhờ họ diệt trừ hải tặc, dành mọi sự dễ dàng cho thuyền nhân. Xin Nam Dương, Mã Lai, Tân Gia Ba đừng xua đuổi tầu bè của người vượt biển thì chẳng còn ai có thể trách móc câu trả lời bất nhân mà Tổng thống Thiệu trót lỡ miệng nói ra.

Tiến sĩ Hưng nói rằng Hoa Kỳ không cho ông Thiệu vào định cư nước họ vì Hoa Kỳ lo ngại thành phần phản chiến sẽ gây ra cảnh rối loạn. Luận điệu bào chữa đó tỏ ra xem thường người nghe. Chiến tranh chấm dứt rồi, lực lượng phản chiến cũng tan theo, lấy cớ gì để mà ồn ào? Hơn nữa, ông Thiệu chưa bao giờ bị bọn phản chiến gào thét: "child killer", "war criminal" như ông Nguyễn Cao Kỳ. Tại sao các Đại học Hoa Kỳ mời ông Kỳ đi nói chuyện về chiến tranh Việt Nam chẳng có vấn đề sinh viên la ó phản đối, lại từ chối cho ông Thiệu đến định cư tại Mỹ? Hơn ai hết, Tiến sĩ Hưng biết rõ nguyên nhân vì sao ông Thiệu ban đầu không được Mỹ đón chào. Cũng như Trung tướng Đặng văn Quang, Cố vấn An ninh của ông Thiệu, phải định cư tại Canada bị tình nghi có dính dáng đến buôn lậu ma túy!

Tổng Bí thư Lê Duẩn là người phạm tội ác chẳng kém gì Hồ Chí Minh, nhưng ngày nay không ai nhắc tới để lên án, bởi vì Đảng Cộng sản không bắt buộc cán bộ học tập tư tưởng và noi gương "Bác Lê Duẩn" giống như noi gương "Bác Hồ". Tương tự như thế, nếu Tiến sĩ Hưng không viết sách chạy tội cho Tổng thống Thiệu thì ngày nay chẳng ai buồn đả động đến cái tội đào tẩu của ông Thiệu.

Con em Việt Nam ra nước ngoài có hoàn cảnh, có cơ hội được theo đuổi học vấn đều thành công một cách vẻ vang. Điều đó chứng tỏ dòng giống Việt Nam thông minh chẳng thua sút một giống dân nào trên thế giới. Tại sao cho đến ngày hôm nay nước Việt Nam là một quốc gia đứng cuối bản của nền văn minh nhân loại? Phải chăng nghiệp chướng của dân ta quá nặng nề?

Ông Hồ Chí Minh bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước thì rước về một chủ nghĩa ngoại lai phi nhân phá hủy tận gốc rễ truyền thống đạo đức, luân lý nước nhà. Bộ mặt đạo đức giả của ông Hồ rơi xuống từ lâu, cái ác của ông Hồ và tập đoàn đã hiển hiện qua Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn, Xét lại Chống Đảng. Thế mà vẫn có những kẻ thông minh, tài giỏi răm rắp trung thành và cao giọng tán dương.

Ông Ngô Đình Diệm đã vào tu viện đi tu thì bị vua Bảo Đại bao phen nài nỉ về nước để bảo vệ thành trì Tự Do nhằm chống lại làn sóng Đỏ. Ông Diệm hết lòng phụng sự Đất Nước, có cuộc sống đạo đức gương mẫu, cương quyết bảo vệ chủ quyền Quốc gia thì bị thuộc hạ làm phản vì bọn nối giáo cho giặc vu cho cái tội tày trời: Đàn áp tôn giáo. Bản báo cáo của phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc năm 1963 đã cho mọi người thấy rõ sự cáo giác đàn áp Phật giáo là hoàn toàn bịa đặt, thất thiệt.

Ông Nguyễn Cao Kỳ được Hội đồng Tướng lãnh tín nhiệm làm người đại diện Quân Đội đứng ra tranh cử Tổng thống vào năm 1967, nhưng trong một phút "bốc đồng" (chữ của Tướng Loan) đã nhường cho ông Thiệu. Chiếc ghế Tổng thống, địa vị cao nhất mà hằng triệu người mơ ước, coi như nắm chắc vào tay, không ai có thể ngờ có người đặt sự đoàn kết quốc gia trên cả quyền lợi bản thân, nên đã có dư luận cho rằng ông Kỳ bị Mỹ ép buộc nhường chiếc ghế Tổng thống cho ông Thiệu. Chứng cứ lịch sử ngày nay cho thấy Tướng Kỳ vì muốn giữ sự đoàn kết Quân đội mà nhường cho ông Thiệu là sự thật.

Ông Nguyễn văn Thiệu, một Tướng lãnh nhưng không mang bản chất quân nhân. Ông là một nhà chính trị nhiều mưu mẹo, sử dụng bất cứ tiểu xảo nào để đạt mục đích tối hậu: Chiếc ghế Tổng thống. Điều đáng tiếc là ông Thiệu có cơ hội làm lịch sử, nhưng ông đã không làm!

Chắc chắn không ai có thể lý giải được vì sao dân tộc Việt Nam thông minh, cần cù, dũng cảm mà nay bị cầm đầu bởi một tập đoàn vừa ngu, vừa dốt, không còn một chút lòng tự trọng để biết xấu hổ. Thôi thì đành đổ tội "Cái Số". Đúng vậy! Cái số phận dân tộc Việt Nam (trong đó có cả người viết bài này nữa) là cái số phận con rệp, số ăn mày. Sách của Tiến sĩ Hưng là một trong những đóng góp kéo dài cái số con rệp của Việt Nam, bởi vì không giúp điều gì cho tuổi trẻ để nhìn về tương lai.

Người Việt Chống Cộng ở Hải ngoại thường nhắc câu nói của ông Thiệu "Đừng nghe những gì cộng sản nói; hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm" để cảnh giác những người ngây thơ cả tin. Thực ra nguyên văn câu nói ấy là của triết gia người Pháp gốc Nga Do Thái – Vladimir Jankélévitch – dạy học ở Paris, mà bà Ann Hobart dịch ra Anh ngữ như sau: "Do not listen to what they say; look at what they do". Ông Thiệu chỉ đổi chữ "They" ra thành hai chữ "cộng sản" mà thôi.

Ông Thiệu là người cực kỳ đa nghi đến độ ông đứng trước gương soi mà còn phân vân cái hình phản chiếu trong gương là ai. Cho nên chuyện ông Thiệu tin vào lời cam kết không bỏ Việt Nam của Tổng thống Richard Nixon là điều đáng ngờ. Ông Thiệu chỉ tin vào số tử vi "bốn tí" (sinh giờ tí, ngày tí, tháng tí, năm tí, cầm tinh con chuột) thì sinh mạng ông, gia đình ông sẽ không hề hấn gì, cho dù Miền Nam rơi vào tay cộng sản. Ông đã có kế hoạch "dĩ đào vi thượng" (đào tẩu là thượng sách).

Nếu tâm tư có điều cần bày tỏ, thổ lộ thì Tổng thống Thiệu tự tay viết ra; chứ ông chẳng tin ở ai mà trao phó phần vụ đó. Ông Thiệu tự biết ông có tội với đồng bào, nên khi ở Mỹ, ông đi đứng lén lút; chứ không dám ngang nhiên công khai như ông Kỳ. Tiến sĩ Hưng viết tâm tư giùm cho Tổng thống Thiệu chỉ là một chiêu "mượn hoa cúng Phật" để người đời chú ý, vì một người có bằng Tiến sĩ, làm Tổng trưởng Kế Hoạch, Phụ tá Tổng thống mà không hiểu ý nghĩa đích thực của hai chữ "Đồng Minh" thì tâm tư bản thân ông Tiến sĩ chẳng có gì đáng cho thiên hạ lưu tâm. Vì vậy, tôi bắt chước Tổng thống Thiệu, đổi chữ "cộng sản" ra thành ba chữ "Tiến sĩ Hưng" để kết luận bài viết này: "Đừng tin những gì Tiến sĩ Hưng viết; mà hãy đọc kỹ những gì Tiến sĩ Hưng trả lời báo chí hoặc đài phát thanh".

Người ta thường nói "Hãy để lịch sử phán xét". Câu hỏi đặt ra: "Lịch sử là ai?". Ba mươi lăm năm chưa phải là thời gian dài, nhưng cũng đủ cho ta nhìn thấy công tội của các nhân vật lịch sử. Nếu gạt ra ngoài định kiến chính trị, soi xét vấn đề một cách công minh, ta vẫn đánh giá được ai công ai tội. Là người gia nhập Đảng Đại Việt rất sớm, nhưng không biết Đảng trưởng của mình lập chiến khu Ba Lòng chống Ngô Đình Diệm; là người có tín ngưỡng Phật giáo và hoạt động trong Gia đình Phật tử, nhưng không biết Võ Đình Cường ở Huế là cán bộ Tôn giáo vận, Trí vận của cộng sản có chủ trương vu cáo Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo, tôi đã chống chế độ Ngô Đình Diệm. Nhờ tiếp cận với thông tin đáng tin cậy, ngày nay tôi biết Ngô Đình Diệm là người thực tâm yêu Đất Nước Việt Nam, yêu Dân Tộc Việt Nam. Vì thế, tôi nói lên sự hối tiếc của tôi về một nhà ái quốc mà không sợ ai vu vạ tôi bênh vực Cần Lao Công Giáo.

Hằng đêm tôi cầu xin cố Tổng thống Ngô Đình Diệm tha tội sự vong ân của người Việt Nam, đừng trừng phạt dân Việt Nam như Ngài đã trừng phạt gia đình Tổng thống Kennedy, để Việt Nam sớm thoát sự dữ do đảng cộng sản gây ra. Người viết tin rằng dân ta muốn qua khỏi kiếp nạn của ngày hôm nay thì mỗi người trong chúng ta ở mọi phía, mọi nơi cần phải thành tâm sám hối và cầu nguyện.

Bằng Phong Đặng văn Âu,

Houston, Ngày 16 tháng 6 năm 2010