Ý Niệm Thiên Sai Trong Do Thái Giáo

Hạn từ “thiên sai” (messiah) phát nguyên từ hạn từ Hípri “mashiach” nghĩa là “được xức dầu”. Thời Cựu Ước, xức dầu với dầu thánh là một hành vi thánh hiến. Bởi thế, ta thấy Thánh Kinh nhắc đến các vật dụng trong Nhà Tạm được xức dầu như “chiếc khiên được xức dầu” của Vua Saul, cũng như việc xức dầu các tư tế, tiên tri, tổ phụ và vua, kể cả ông vua ngoại đạo là Cyrus II, người sáng lập ra Đế Quốc Ba Tư. Theo nghĩa nguyên gốc của hạn từ, “các người được xức dầu” này đều được coi là những người nhận sứ vụ đặc biệt từ Thiên Chúa, và chính tước hiệu cũng nói lên cả tính bất khả xâm phạm trong địa vị lẫn tính thánh thiêng trong chức vụ của họ. Một cách tình cờ, tập tục xức dầu thánh này nay vẫn còn được phỏng theo tại các buổi đăng quan của vua chúa, nữ hoàng. Theo một nghĩa rộng hơn, hạn từ “chủ nghĩa thiên sai” hay ý niệm thiên sai (messianism) có ý nói tới các lý thuyết liên quan tới việc cải thiện vị thế của nhân loại trong tương lai. Chiều kích thời gian là chiều kích căn bản đối với ý niệm thiên sai này. Người ta mong diễn trình thời gian này sẽ dẫn tới một thay đổi lớn và ngay cả sự hoàn hợp sau cùng giúp cho nhân loại đạt được một tình trạng tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn và hoàn hảo hơn. Trong ngữ cảnh ấy, khởi điểm của mọi hoài mong thiên sai là một đánh giá tiêu cực đối với hiện tại. Chính vì hiện tại bị coi là không thỏa mãn, vì đầy rẫy những sự ác, đói kém, đau khổ, chết chóc, tội lỗi, nên nó cần bị thay thế bởi một thời đại mới.

Các ý thức hệ và phong trào thiên sai không nhất thiết tập trung vào một khuôn mặt thiên sai. Tuy nhiên, các phong trào ấy luôn có khuynh hướng liên kết sứ điệp cách mạng có tính ảo tưởng của họ vào một nhân cách nhiều lôi cuốn có tính đặc sủng. Mang theo mình lời hứa thay đổi triệt để cho điều tốt hơn, bất kể là hy vọng giải phóng, cứu thoát hay cứu chuộc, các phong trào thiên sai này luôn đóng một vài trò quan trọng trong lịch sử nhân loại. Trong các xã hội tiền hiện đại, trong đó, tôn giáo gây một ảnh hưởng trổi vượt, chủ nghĩa thiên sai là một trong những cỗ xe thực tiễn lớn nhằm chuyên chở việc cổ võ các cải tân vĩ đại, không chỉ có tính tôn giáo, mà còn có tính văn hóa, xã hội và chính trị nữa.

Mặc dù các phong trào thiên sai xuất hiện trong nhiều nền văn minh khác nhau, nhưng chúng đặc biệt là đặc điểm của hai truyền thống Do Thái Giáo và Kitô Giáo. Cựu Ước không bao giờ nói tới một đấng được xức dầu có tính cánh chung, một đấng sẽ tới để khai mở thời tận cùng (1), và ngay cả các đoạn tự gọi là “thiên sai” vì chứa những lời tiên tri loan báo một hoàng kim thời đại trong tương lai dưới sự cai trị của một vì vua lý tưởng, cũng không bao giờ minh nhiên sử dụng hạn từ “Thiên Sai”. Dù thế, nhiều học giả ngày nay cho rằng chủ nghĩa thiên sai của Do Thái Giáo có nguồn gốc thánh thiêng mà người Do Thái quen gán cho các vị vua của họ. Mặc dù, các vị vua được xức dầu của Israel không bao giờ được coi là “thần thiêng”, một số các phẩm tính thần thiêng và chức năng thiên sai vẫn được gán cho họ. Nhiều lời tiên tri và thánh vịnh từng được giải thích theo nghĩa này, và việc hiển dương vương quyền vẫn được nối kết với các học thuyết về thiên sai của Kitô Giáo lúc ban đầu.

Vì sự nghiệp của một số vị vua không thoả mãn được các hoài mong thiên sai vốn được đặt vào đó và vương quốc Israel liên tiếp bị các đế quốc lớn thôn tính và đè bẹp, nên người Do Thái ngày càng trở nên thất vọng với thực tại, cho nên niềm tin vào một vị vua thiên sai của họ đã được dự phóng cho tương lai. Sau thời lưu đày Babylon vào thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên và dưới ảnh hưởng của văn chương khải huyền đang thịnh hành lúc ấy (Bái hỏa giáo, Zorastrianism), người Do Thái Giáo tin chắc vào ý niệm tiên tri cho rằng Thiên Chúa sẽ can thiệp một cách ngoạn mục vào lịch sử, nhân danh dân riêng, qua một miêu duệ Vua Đavít; miêu duệ này sẽ giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ và việc ngài xuất hiện đã được tiên tri Êlia loan báo trước. Do đó, hạn từ “mashiach” trở thành có nghĩa “đấng được Thiên Chúa xức dầu”, đấng được xức dầu “tuyệt hảo”, thiên sai của Đấng Toàn Năng sẽ đem vinh quang của thời đại mới cho dân Do Thái. Trong ngữ cảnh này, điều thích thú cần ghi nhận là mặc dù Chúa Giêsu không nói rõ bản chất “thiên sai” của mình, nhưng những kẻ theo Người lúc ban đầu, ai cũng thấy nơi Người cái đấng “con Vua Đavít”, cái đấng “được Thiên Chúa xức dầu” ấy.

Dù sao đi nữa, các rabbi thời xưa mà tư duy còn đọng lại nơi Talmud đã mô tả đấng được xức dầu này như một người công chính, một học giả vĩ đại, một lãnh tụ tinh thần, và một vị vua can trường. Ngài sẽ cứu người Do Thái khỏi lưu đày và sẽ tái lập họ nơi lãnh thổ Israel nơi họ sẽ sống mãi trong hòa bình và độc lập. Tuy nhiên, các ông cũng nhấn mạnh rằng việc làm của đấng được xức dầu này sẽ không giới hạn vào một dân tộc đặc thù mà sẽ còn đem phúc lợi lại cho toàn thể nhân loại. Phép lạ cứu thoát dân Do Thái được coi như một điều tiên quyết đối với việc cứu thoát phổ quát. Khi đấng thiên sai ấy đến, tất cả sẽ thấy ánh sáng và sẽ tuân theo sự hướng dẫn trong giáo huấn của Thiên Chúa. Chiến tranh và tranh chấp sẽ chấm dứt, và nhân loại sẽ được dẫn vào một thời đại của đức tin, của công lý, của hoà hợp và của hoà bình phổ quát.

Với thời gian trôi qua, các hoài mong thiên sai kia mang lấy nhiều nhấn mạnh khác nhau. Có lý thuyết, được trình bày trong phần thứ hai Sách Isaia, cho rằng đấng thiên sai ấy không phải là một vị vua, hay một tư tế, hay một người nào đó, nhưng đúng hơn là một dân tộc: dân tộc Do Thái, được Thiên Chúa chọn để xây dựng Nước Thiên Chúa ngay trên mặt đất để phục vụ lợi ích mọi người. Để chu toàn sứ mệnh của mình, “dân thiên sai” này phải chịu đau khổ và gánh lấy tội lỗi nhân loại. Giáo phái Qumran, tức nhóm Do Thái Giáo sống hình thức “đan viện”, nổi tiếng thời ta như nhóm đã gìn giữ các Sách Cuộn Biển Chết, tin một học thuyết về tính thiên sai kép: đấng thiên sai tư tế xuất thân từ Nhà Aaron và đấng thiên sai vương giả xuất thân từ Nhà Đavít. Quan niệm này rõ ràng cho thấy các đấng được xức dầu này không được quan niệm như các vị cứu tinh theo nghĩa Kitô Giáo nhưng đúng hơn như các lãnh tụ lý tưởng chủ trì trật tự xã hội tôn giáo có tính “thiên sai” theo ý Thiên Chúa.

Việc người Rôma phá hủy Đền Thờ Giêrusalem năm 70 sau Công Nguyên, tiếp theo là tình trạng lưu đày, chịu bách hại và đau đớn, chỉ càng tăng cường chủ nghĩa thiên sai của người Do Thái, dựa vào ý niệm cho rằng một thời kỳ nhiễu nhương và tai họa phải đi trước việc đấng thiên sai xuất hiện. Trong tiếng Hípri, "chevlei mashiach," có nghĩa “cơn đau đẻ” của thời đại thiên sai. Suốt trong lịch sử Do Thái, mọi cuộc tàn sát từng sát hại dân tộc Do Thái đều được kèm theo một sự gia tăng tâm tình thiên sai thiết tha nơi họ. Thời Trung Cổ, niềm tin thiên sai đã triển nở thành niềm hứng khởi đại chúng; lòng hứng khởi này thường được nuôi dưỡng bằng nhiều tính toán dựa vào Sách Đanien và nhiều đoạn Sách Thánh khác cho thấy sự xuất hiện của đấng thiên sai đã đến gần lắm rồi. Chủ nghĩa “con Đavít”, với các hệ quả chính trị của nó, đã bị phủ bóng bởi các ý niệm có tính khải huyền về một khuôn mặt có tính huyền nhiệm và phần nào thần thoại hơn. Vào thế kỷ thứ sáu, ở thành phố Safed, vốn là trung tâm của phong trào Kabbalist (2), một ngành của nền huyền nhiệm Do Thái, cơn sốt thiên sai càng tăng cường độ dưới ảnh hưởng mạnh của Rabbi Isaac Luria. Ông này tự coi mình là Đấng Thiên Sai Ben Joseph, người mà theo một số nguồn tài liệu, vẫn được coi là phải đến trước vị cứu tinh thứ hai và tối hậu là Mashiach Ben David. Trong thời kỳ này, hầu như mọi thế hệ đều có những vị tiền hô thiên sai và ngụy tạo, mà người tai tiếng nhất chính là ngụy thiên sai Shabbetai Tzevi vào thế kỷ thứ bẩy.

Niềm tin kiên vững vào đấng thiên sai và các hoài mong tha thiết vào việc vị này xuất hiện sau đó đã trở thành nhất định trong tư duy Do Thái Giáo đến độ được liệt kê trong Mười Ba Nguyên Tắc Đức Tin được nhà triết học Do Thái vĩ đại là Maimonides đưa ra vào thế kỷ thứ 12 và nay được lồng vào sách kinh nguyện của Do Thái. Nguyên tắc 12, tức nguyên tắc trở thành ca khúc tử đạo thời Quốc Xã Diệt Chủng, nói như thế này: “Anima'amin be 'emunah shleimah be'viat ha'Mashiach. Ve'af al pi shevitmameah, im kol zeh achkeh lo bechol yom sheyavo”, nghĩa là: “Với một đức tin hoàn toàn, tôi tin vào sự xuất hiện của Đấng Được Xức Dầu. Và dù Người còn chần chờ chưa tới, tôi vẫn hàng ngày chờ đợi Người đến”. Quan niệm của Maimonides về đấng thiên sai chẳng có chi khải huyền hay huyền nhiệm. Đúng hơn, nó thuần lý, nhấn mạnh tới bản chất không phép lạ của thời đại thiên sai.

Dù phần lớn người Do Thái ngày nay không tham gia các phong trào thiên sai tích cực, tuy thế, nhiều người vẫn có sự xác tín mạnh mẽ, hết lòng rằng quả sẽ có một thời đại thiên sai. Niềm tin của họ vào sự xuất hiện của đấng thiên sai đem lại sức mạnh và lòng can đảm cho người Do Thái để họ đương đầu với nghịch cảnh mà dân tộc họ từng chịu đựng qua bao thời đại. Sự sống còn của Do Thái Giáo hiển nhiên phần lớn tùy thuộc niềm hy vọng vô biên vào một tương lai thiên sai. Bất chấp âm hưởng tâm linh và huyền nhiệm của nó, ý niệm thiên sai của người Do Thái chủ yếu vẫn có tính thực tiễn và qui về hành động. Các hoài mong thiên sai của họ không phải chỉ là những giấc mơ. Chúng là các mục tiêu cụ thể đem lại cho họ sự thúc đẩy phải tích cực làm việc cho một thế giới tốt hơn, một thế giới trong đó các giá trị luân lý và đạo đức của truyền thống Do Thái sẽ thắng thế, một thế giới trong đó, các lý tưởng có tính tiên tri tối cao về công chính và cộng đoàn sẽ trở thành thực tại. Ý thức hệ Xion, hiểu như một phong trào giải phóng và trở về tụ họp từ lưu đày ("Kibbutz Galuyot"), chắc chắn có nguồn gốc thiên sai. Mặt khác, việc người Do Thái dấn thân vào nhiều phong trào tiến bộ và cách mạng trên khắp thế giới quả là một dịch bản được thế tục hóa từ ý niệm thiên sai truyền thống của họ. Họ tin rằng, bất chấp các khía cạnh tâm linh và vũ trụ, việc cứu rỗi phải được lồng vào ngữ cảnh lịch sử, chính trị và xã hội trong thế giới họ đang sống (3).

Điều quan trọng cần nhấn mạnh là dù người Do Thái tin vững vào việc xuất hiện của đấng thiên sai, nhưng niềm tin ấy không hẳn là một yếu tố nâng đỡ đức tin của họ. Trái với tín lý Kitô Giáo (4), một tín lý không thể nào quan niệm được mà không có Đấng Được Xức Dầu, trong Do Thái Giáo, Đấng Thiên Sai chỉ là một ý niệm đến sau (afterthought), tự nó không hẳn là một nguyên lý gốc rễ. Bởi thế, ngay Hillel II (5), nhà tư tưởng vĩ đại của Do Thái, dù tin vào sự cứu rỗi, vẫn bác bỏ việc xuất hiện của đấng thiên sai. Các hợp tuyển rabbinic và nền phụng vụ Do Thái nhấn mạnh rằng tác giả cứu rỗi là Thiên Chúa chứ không phải đấng thiên sai. Đấng thiên sai chỉ là một dụng cụ qua đó sự tối cao của Thiên Chúa tự tỏ mình ra mà thôi.

Theo cái nhìn của người Do Thái, đâu mới là điều thực sự xẩy ra vào “ngày của đấng thiên sai”? Câu hỏi này, theo giáo sĩ Henry I. Sobel, cần được trả lời theo hai quan điểm: quan điểm chính thống và quan điểm tự do. Cả hai quan điểm này đều phát sinh từ các đoạn Thánh Kinh, giáo huấn rabbinic, và các nguồn khác trong nền văn chương Do Thái. Người Do Thái chính thống tiếp tục chờ đợi sự xuất hiện của đấng thiên sai có bản vị; khi vị này tới thế gian, ngài sẽ làm nhiều phép lạ: người mù sẽ nhìn thấy, người điếc sẽ nghe thấy, người què sẽ bước đi, và người chết sẽ sống lại. Sẽ không còn đau khổ, bệnh hoạn, nghèo đói, chết chóc. Họ duy trì nguyên vẹn lý thuyết coi đấng thiên sai như chồi cây của Nhà Đavít, đấng sẽ cai trị tại Giêrusalem và sẽ tái thiết Đền Thờ. Vì lý do này, một số người Do Thái cực chính thống chống lại chủ nghĩa Xion (zionism) và việc thiết lập ra Nhà Nước Israel, coi nó chỉ như một ngụy cứu rỗi phàm nhân, và can thiệp vào kế hoạch Thiên Chúa trong việc phái tới một sứ giả đặc biệt để tụ tập mọi lưu dân về Xion. Tuy nhiên, phần lớn người Do Thái chính thống nhìn nhận việc thiết lập quốc gia Israel như bước khởi đầu của việc cứu rỗi, một hành vi dẫn khởi được thi hành dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa và là một hành vi sẽ được Thiên Chúa hoàn thành trong tương lai. Người Do Thái theo quan điểm tự do, trái lại, duy trì niềm tin cổ truyền vào một thế giới sau cùng sẽ được cứu rỗi, nhưng không phải nhờ một sứ giả đặc biệt do Thiên Chúa sai tới. Điều họ chờ đợi là việc xuất hiện một thời đại thiên sai trong đó, công lý, tình huynh đệ và hòa bình sẽ thống trị và mọi người sẽ sống bằng giáo huấn của Thiên Chúa. Vào ngày đó, lời tiên tri của Dacaria, tức hy vọng độc thần cho toàn thể nhân loại, sẽ nên trọn: “Chúa sẽ là Đấng Duy Nhất, Danh Người sẽ duy nhất”.

Căn cứ vào cả hai quan điểm chính thống và tự do trên, Do Thái Giáo đều không nhìn nhận Đấng Được Xức Dầu đã xuất hiện rồi. Tại sao? Đơn giản vì các hoài mong thiên sai của họ chưa được cụ thể hóa. Bóc lột chưa chấm dứt, chiến tranh chưa dừng lại, hận thù chưa tan biến, khó nghèo chưa mất đi. Trên hết, việc tái sinh thiêng liêng của nhân loại, một việc được dự ứng thiết tha, chắc chắn chưa được hoàn tất. Talmud ghi lại rằng trong thế kỷ thứ hai, Rabbi vĩ đại Akiva (6) từng tin rằng Bar Kochba (7) là đấng thiên sai. Ấy thế nhưng khi cuộc nổi dậy của Bar Kochba chống lại người Rôma bị dẹp tan một cách tàn bạo, Rabbi Akiva phải nhìn nhận rằng Bar Kochba không phải là đấng thiên sai vì ông ta không đem lại được hòa bình. Cũng thế, người Do Thái không nhìn nhận Chúa Giêsu là đấng thiên sai. Họ tin rằng Người là một vĩ nhân, một thầy dạy vĩ đại đã lên tiếng truyền dạy các lý tưởng phổ quát của đức tin Do Thái, một con người nhân bản đầy mẫn cảm và thông sáng, được lòng mộ mến thiên sai thời Người đánh động. Chỉ có thế, họ không nhìn nhận Người là đấng thiên sai vì Nước Thiên Chúa chưa tự tỏ mình ra.

Theo Rabbi Sobel, điều quan trọng cần nhấn mạnh là người Do Thái không bác bỏ các ý niệm của Chúa Giêsu về Thiên Chúa. Dù sao, các ý niệm ấy chủ yếu vẫn là các ý niệm Do Thái và căn bản được rút ra từ các giáo huấn của Torah mà Người vốn được dưỡng dục. Vấn đề quan yếu đối với người Do Thái là tín điều Kitô Giáo cho rằng Thiên Chúa đã trở nên người phàm và để cho Con Một của mình chịu cái chết hy sinh để đền tội cho nhân loại. Do Thái Giáo không chấp nhận bất cứ sự phân biệt nào giữa con người nhân bản này với con người nhân bản khác. Không con người nhân bản nào thần thánh hơn con người nhân bản nào. Các rabbis Do Thái giải thích rằng toàn thể nhân loại đều từ Adong mà ra. Tại sao chỉ từ Adong? Để không ai có thể nói rằng cha của mình cao hơn bất cứ cha nào khác. Chỉ có một phụ quyền thần thánh và chỉ có một huynh đệ nhân bản duy nhất phổ quát. Vì Thiên Chúa làm nên mọi người đều bình đẳng, nên không một con người nhân bản nào có thể là trung gian giữa Thiên Chúa và những con người nhân bản khác. Ngay Môsê, người được nói truyện với Thiên Chúa “mặt đối mặt”, như Thánh Kinh dạy ta, cũng chỉ là “người phàm Môsê” (8).

Người Do Thái nghĩ thế, vì đối với cả người Do Thái chính thống, đấng thiên sai mong đợi cũng chỉ là một con người. Thực vậy, tên của đấng thiên sai ấy trong Sách Đanien vẫn là “Ben Adam” nghĩa đen là “con của con người” chứ không phải “Con Thiên Chúa” như trong quan niệm của Kitô Giáo. Trong lý thuyết Do Thái, với việc nhấn mạnh tới chủ nghĩa độc thần chặt chẽ, không thể lồng Thiên Chúa vào bất cứ khuôn hình hay hình thức nào. Niềm tin vào một đấng thiên sai thần thánh, Con Thiên Chúa nhập thể, đi ngược lại xác tín Do Thái về sự tối cao tuyệt đối và duy nhất của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều tư tưởng gia Do Thái, trong đó có Maimonides, triết gia thời Trung Cổ đã nhắc trên đây, coi Chúa Giêsu là dụng cụ thần thánh Thiên Chúa dùng để làm cho nhân loại quay về với đức tin thật sự. Theo Maimonides: “Mọi giáo huấn của Chúa Giêsu dọn đường cho sự xuất hiện của Vị Vua Được Xức Dầu và chuẩn bị cho nhân loại hợp nhất và cùng nhau như một thờ phượng Thiên Chúa”.

Một số giới trong Do Thái Giáo nghĩ rằng sự kiện có những khác biệt giữa người Do Thái Giáo và Kitô hữu không nên ngăn cản họ trở nên anh chị em, những người có thể làm việc với nhau vì các mục tiêu vĩ đại và cao cả. Họ bảo: anh chị em bao giờ lại không khác nhau. Khác nhau về ý kiến, tư duy, xác tín. Nhưng điều quan trọng hơn những cái đó chính là tình yêu, tình yêu sẽ kết hợp họ như anh chị em. Kitô hữu và người Do Thái Giáo có chung hai giá trị nền tảng: tin Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và là Cha nhân loại, và các nguyên tắc và lý tưởng luân lý từng tạo nên gia tài đạo đức chung của Do Thái và Kitô Giáo. Họ bảo: Kitô hữu và người Do Thái Giáo không hiện diện ở đời này để đua tranh nhau; họ hiện diện ở đời này như đồng minh, như người hùn hạp, gánh vác chung trách vụ thánh thiêng là đem ánh sáng cho thế giới và xây dựng Nước Thiên Chúa trên trần gian. Họ nên tiếp tục làm việc với nhau, luôn cố gắng hướng tới một thế giới tốt đẹp hơn, mà không mất đức tin thiên sai của họ. Dù sao, theo nghĩa sâu sắc nhất, ý niệm thiên sai vẫn đồng nghĩa với hy vọng (9).

Các tâm tình tích cực trên thực ra rất hiếm trong các giới Do Thái Giáo, kể cả lúc này. Và chúng vốn không phải của riêng họ. Kitô Giáo, nhất là Công Giáo vốn đã gọi và thực sự coi người Do Thái Giáo là anh chị em của mình từ lâu. Không ai có thể gọi hành vi giúp người Do Thái của Đức Piô XII và của man vàn các cá nhân và tổ chức Công Giáo trong thời Quốc Xã là gì khác hơn là tình anh chị em trong một đức tin Ápraham. Và cũng không ai không rõ người Do Thái vẫn khăng khăng kết tội Đức Piô XII và cả Giáo Hội Công Giáo đã “im lặng” để Hitler mặc tình sát hại họ. Rồi từ Công Đồng Vatican II cho tới nay, Giáo Hội Công Giáo dưới sự dìu dắt của các vị Giáo Hoàng Gioan XXIII, Phaolô VI, Gioan Phaolô I, Gioan Phaolô II và Bênêđíctô XVI liên tiếp “hạ mình” nhìn nhận vai trò “anh hai” của họ chỉ để cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Nhưng người Do Thái nhiều khi vẫn giữ nguyên thái độ của người anh cả trong câu truyện Đứa Con Trai Hoang Đàng, đầy ghen tương và thù ghét. Dịp viếng Thánh Địa năm 2009, bản thân người viết đã được đọc cuốn hướng dẫn du lịch tựa là “The Golden Tourist Guidebook to Arts, Tradition & Leisure” khá dày và in rất mỹ thuật để sẵn trên bàn các phòng Khách Sạn The Olive Tree. Cuốn sách có nói về ý nghĩa Giêrusalem đối với người Kitô Giáo, và đã mỉa mai nhận định rằng, đối với Kitô hữu “Một đàng, nó là thành phố nơi (Chúa) Giêsu chịu thống khổ, chịu đóng đinh và được chôn cất, cho nên nó thánh thiêng. Nhưng mặt khác, (Chúa) Giêsu lại từng tiên đoán ngày nó bị hủy diệt. Các trưởng lão của Giáo Hội tin rằng một Giêrusalem đổi mới chỉ dành cho các Kitô hữu mà thôi, vì Kinh Thành Do Thái đã bị tiêu hủy và sẽ không bao giờ được họ tái thiết”. Sách cũng nói tới khía cạnh tiêu cực của những cuộc hành hương của Kitô hữu tới Giêrusalem thời Trung Cổ: “Các di bảo (relics) từ nhiều địa điểm khác nhau đã được phân phối từ Giêrusalem cho khắp thế giới…”. Chưa hết, điều họ nhấn mạnh hơn hết để kết luận về phần này là: “Việc người Do Thái thiết lập ra quốc gia Do Thái và việc tái thiết Giêrusalem không phù hợp với thái độ truyền thống của người Kitô Giáo. Một số Kitô hữu coi việc đó như một mâu thuẫn với tín điều của họ”. Bước sang thế kỷ 21, người Do Thái dường như vẫn chưa thoát ra được gọng kìm lịch sử từng giam hãm họ hơn 20 thế kỷ qua.

Sẽ đăng: Ý Niệm Thiên Sai theo Kitô Giáo

Chú Thích

(1) Theo quan điểm Do Thái Giáo. Xin xem phần Ý Niệm Thiên Sai Theo Kitô Giáo (sẽ đăng)

(2) Kabbalah là một môn phái tư tưởng quan tâm tới khía cạnh huyền nhiệm của Do Thái Giáo theo trường phái Rabbi. Họ dùng các giáo huấn thần bí để giải thích mối liên hệ giữa Đấng Tạo Hóa vĩnh hằng, mầu nhiệm và vũ trụ hữu tử, hữu hạn vốn là vật Người tạo nên.

(3) Dù có người cười mà cho rằng họ là thành phần giầu có nhất của xã hội Mỹ, và là các nhóm vận động hành lang đã không tặc ngân sách ngoại viện.

(4) Henry I. Sobel, Judaism And Messianism Ecumenical Trends, May 1982 (Nguyên thủy, Rabbi Sobel trình bày bài này như một diễn văn đọc tại Ủy Ban Quốc Gia Đối Thoại Tôn Giáo Giữa Người Do Thái Giáo Và Người Công Giáo tại Sao Paulo, Brazil, tháng Giêng, 1982.)

(5) Hillel II, cũng được gọi vắn tắt là Hillel, vốn là thành viên của Thượng Hội Đồng Do Thái trong các năm 320 và 385 Công Nguyên, được coi như cha đẻ ra lịch cố định của Do Thái.

(6) Rebbe Akiva ben Yosef (khoảng 50– khoảng 135 Công Nguyên), một thế giá lớn trong các vấn đề về truyền thống Do Thái và là một trong những người đóng góp chủ chốt nhất vào công trình Mishnah (san định các lời truyền khẩu của Do Thái Giáo, tức Torah Truyền Khẩu, và công trình lớn đầu tiên của Do Thái Giáo rabbinic) và công trình Midrash Halakha (bộ phương pháp xưa nhất nghiên cứu và giải thích Thánh Kinh Do Thái)

(7) Cuộc nổi dậy của Bar Kokhba (132–136) chống lại Đế Quốc Rôma. Đây là cuộc nổi dậy thứ ba của người Do Thái và là cuộc nổi dậy sau cùng trong chiến tranh giữa người Do Thái và Rôma. Simon bar Kokhba, viên lãnh tụ của cuộc nổi dậy này, được coi như đấng thiên sai, người anh hùng tái lập Israel. Ông ta dành được độc lập cho Israel trong 2 năm, rồi sau đó bị đạo quân Rôma gồm 12 lữ đoàn đè bẹp.

(8) Nhưng có người cười, cho rằng, mọi người bình đẳng, nhưng sao lại có Dân Riêng?

(9) Henry I. Sobel, tài liệu đã dẫn