Giáo Dân Hợp Tuyển

TỦ SÁCH THĂNG TIẾN GIÁO DÂN

 

 

 

 

 

 

 

GIÁO DÂN HỢP TUYỂN

 

SỐ 1 THÁNG 1/2012 VỚI CHỦ ĐỀ

GIÁO DÂN TRONG GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

GIÊRÔNIMô nguyỄN VĂN NỘI

VÀ NHÓM BẠN THỰC HIỆN

ĐÔI LỜI TỰ BẠCH

 

1. Từ các vị lãnh đạo cao cấp nhất cho đến các linh mục chính phó xứ tại Việt Nam đều tuyên bố rằng: Giáo Dân là Dân Chúa, Giáo Dân là sức mạnh của Giáo Hội, Giáo Dân là đội ngũ xung kích trên mọi mặt trận của Giáo Hội. Nhưng thực tế chưa chắc đã được như thế. Giáo dân Việt Nam vẫn là thành phần đông đảo và thụ động trong Giáo Hội. Giáo Dân Việt Nam vẫn sống đạo một cách nặng tính sùng mộ mà còn thiếu hiểu biết Đạo và kém thực hành Giáo Lý của Đạo. Giáo dân Việt Nam vẫn núp dưới bóng hàng giáo sĩ và lệ thuộc quá nhiều vào hàng giáo sĩ. Bằng chứng là Công Nghị Tổng Giáo Phận Sài-gòn (20-26/11/2011) nêu nhiều ý kiến, đề nghị liên quan tới Giáo Dân (mà linh mục Phê-rô Nguyễn Văn Hiền, Tổng Thư Ký của Công Nghị đã đúc kết và trang web Tổng Giáo Phận đã chuyển đăng. Sau đây là một số đề nghị:

- Đề nghị 12: Linh mục là người nối kết mọi thành phần Dân Chúa trong giáo xứ với nhau (80%) và là người chịu trách nhiệm về sự hiệp thông của cộng đoàn (77%). Linh mục nên dành thời gian để gặp gỡ giáo dân và tạo điều kiện cho các đoàn thể gặp gỡ, học hỏi và làm việc với nhau (74%), quan tâm chăm sóc và nâng đỡ giáo lý viên, ca viên, thiếu nhi (66%).

- Đề nghị 13: Linh mục cần thay đổi não trạng và lối nhìn về giáo dân, đặc biệt là người trẻ và phụ nữ, coi họ như những cộng sự viên chứ không phải những người giúp việc (85%), tin tưởng và trao trách nhiệm cho giáo dân (79%), khuyến khích và tạo điều kiện cho họ tham gia vào đời sống của giáo xứ (72%). Để mọi người có thể đóng góp ý kiến và tham gia vào các sinh hoạt của giáo xứ, linh mục cần phải có kế hoạch và chương trình mục vụ phù hợp với kế hoạch và chương trình mục vụ của giáo phận (77%), đồng thời thông báo cho cộng đoàn được biết một cách sớm sủa và đầy đủ (68%).

- Đề nghị 18: Để xây đắp hiệp thông huynh đệ trong Giáo Hội, cần huấn luyện chủng sinh và tu sĩ biết sống mầu nhiệm tự hạ, hy sinh và từ bỏ, hiền lành và khiêm nhượng như Chúa Giêsu (94%), biết sống và làm việc với mọi thành phần Dân Chúa (73%), đồng thời xây dựng hàng giáo dân trưởng thành, được huấn luyện đầy đủ về mặt đức tin, được học hỏi về Kinh Thánh, phụng vụ, giáo lý (77%) và giáo huấn xã hội của Giáo Hội để biết nhận định đúng đắn các vấn đề và sự kiện xã hội (53%).

- Đề nghị 19: Giáo phận cần huấn luyện các thành viên của hội đồng mục vụ giáo xứ biết rõ vai trò và nhiệm vụ của mình, biết sống hài hòa với các linh mục và mọi thành phần Dân Chúa (78%).

- Đề nghị 20: Các đoàn thể và hiệp hội tông đồ trong giáo phận nên có những cuộc gặp gỡ và trao đổi, học hỏi và làm việc chung với nhau (52%), tránh tinh thần cục bộ, cạnh tranh và loại trừ nhau (70%). Anh chị em di dân và nhập cư cần được tiếp đón và giúp đỡ (73%), hòa nhập và tham gia vào các sinh hoạt của giáo xứ (58%); vì lợi ích của của anh chị em di dân, cần có sự phối hợp giữa giáo xứ nơi đi và nơi đến (67%).

 

- Đề nghị 23: Linh mục cộng tác với các ban mục vụ bằng cách giúp giáo dân hiểu biết và tích cực tham gia, giới thiệu nhân sự tham dự các khóa huấn luyện (65%).

- Đề nghị 24: Về truyền giáo, linh mục cần gây ý thức cho giáo dân (45%), đặc biệt là giới trẻ (59%), quan tâm đến khía cạnh truyền giáo trong các dịp ma chay và cưới hỏi (40%), kết nghĩa với các giáo xứ hay giáo điểm vùng xa (26%), đóng góp nhân vật lực cho công cuộc truyền giáo (42%).

- Đề nghị 27: Về công lý và hòa bình, linh mục cần quan tâm đến các vấn đề xã hội, nắm vững giáo huấn xã hội của Giáo Hội để nhận định và giúp giáo dân nhận định đúng đắn về các vấn đề ấy (62%), quan tâm đến người nghèo và giúp đỡ họ không phân biệt tôn giáo (66%).

2. Ai là người sẽ thực hiện những đề nghị vừa nêu và nhiều đề nghị khác của Công Nghị Giáo Phận? Hẳn nhiên và trước hết là các Vị Lãnh Đạo Giáo Phận, mà cao nhất là Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Giáo Phận và Đức Giám Mục Phụ Tá, rồi tới các Linh Mục Hạt Trưởng, các Linh Mục Trưởng các Ban Mục Vụ, các Linh Mục Chính Phó Xứ, các Tu Sĩ Nam Nữ thuộc các Dòng.

 

Thế còn Giáo Dân? Giáo Dân có quyền tiếp tục sống cách thụ động và chờ lệnh không?

- Chắc là không.

- Phải chăng đây là lúc Giáo Dân, ít nhất là thành phần Giáo Dân Nòng Cốt phải thay đổi tư duy và cách sống, phải chủ động và tích cực trang bị cho mình những thứ cần thiết để sống hiệp thông và thực thi sứ vụ của toàn Giáo Hội một cách đầy đủ hơn.

 

3. Giáo dân hỢp tuyỂN (GDHT) ra đời nhân 50 năm Công Đồng Vatican II (1962-2012) và sẽ cố gắng mỗi 3-4 tháng ra một số. Mục đích là hỗ trợ anh chị em Giáo Dân cập nhật kiến thức và kinh nghiệm đời sống Đức Tin của mình, bổ sung cho các bài giảng của các Linh Mục và cho các Khóa Huấn Luyện của các Trung Tâm, Nhà Thờ. Cũng nhằm liên kết các cá nhân và các Nhóm Giáo Dân thành sức mạnh canh tân và thăng tiến trong Giáo Hội Việt Nam.  

 

Trong Giáo dân hỢp tuyỂN (GDHT) số 1/2012 này gồm có 9 bài như sau:

1. “Để Giáo Dân là Mùa Xuân của Giáo Hội Việt Nam” của ông Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.

2. “Giáo Dân thời Giáo Hội sơ khai: những viên gạch xây dựng một Nền Thần Học Giáo Dân” của linh mục tiến sĩ Peter C. Phan (Phan Đình Cho).

3. “Giáo Dân trong Hội Thánh” của linh mục Felipe Gomez Ngô Minh, SJ.

4. “Giáo Dân trong Lịch Sử” của linh mục Felipe Gomez Ngô Minh, SJ.

5. “Giáo Dân sống Đức Tin trong xã hội tục hóa” của báo MISSI.

6. “Giáo Dân đồng trách nhiệm” của báo CathoNewsAsia.

7. “Các nhà thần học Ấn Độ đề nghị tăng thêm vao trò của Giáo Dân và giảm bớt vai trò của Giáo Sĩ” của báo UCA.

8. “Giáo Dân phải tham gia vào chính trị” của trang nhà VRNs trích bài giảng của linh mục Giu-se Nguyễn Thể Hiện, DCCT và bài viết của Gio-an Lê Quang Vinh.

9. “Giả như tôi là một Cán Bộ Giáo Dân” của linh mục tiến sĩ Herchel H. Sheets.

 

Chúng tôi xin chân thành cám ơn các tác giả có bài trong GDHT số 1/2012 này. Vì việc làm không hề có tính thương mại, chúng tôi tin chắc rằng các tác giả ủng hộ chúng tôi trong việc tạo điều kiện cho nhiều anh chị em Giáo Dân có cơ hội tiếp cận các bài viết giá trị của các ngài.

Chúng tôi rất mong được nhiều Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ và Giáo Dân tham gia góp bài và góp ý cho các số tới.

 

Hy vọng những bài viết trong GDHT số 1/2012 này đáp ứng một phần nào nhu cầu và ước nguyện của nhiều Giáo Dân trong việc nâng cao kiến thức về thần học và giáo hội học cũng như về lịch sử liên quan tới Giáo Dân. Cũng hy vọng GIÁO DÂN HỢP TUYỂN số 2/2012 sẽ ra mắt phục vụ các thành phần Dân Chúa vào Mùa Phục Sinh tới.

 

Nguyện xin Chúa chúc lành cho công việc nhỏ bé của chúng con. Chúng con xin dâng lên Chúa Hài Nhi tập tài liệu này làm món quà mọn.

 

Sài-gòn Mùa Giáng Sinh 2011.

 

 

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội và Nhóm Bạn



ĐỂ GIÁO DÂN LÀ MÙA XUÂN CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM

 

[Mừng 40 Năm Công Đồng (2005-1965)]

 

Vào đề

Tôi xin đi từ ba việc nhỏ để đến một vấn đề lớn. Ba việc nhỏ là những gợi ý mà tôi thu nhận được từ cuộc sống. Việc nhỏ thứ nhất là nội dung một cuốn sách mà tôi đã có dịp đọc cách đây hơn 10 năm nhưng vẫn còn nhiều dư âm. Việc nhỏ thứ hai là lời phát biểu tại La Vang của các Giám mục Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm Việt Nam hồi cuối tháng 8 năm 1999. Và việc nhỏ thứ ba là buổi trao đổi chia sẻ thân tình của một linh mục. Còn vấn đề lớn là vấn đề được đặt ra cho tất cả những ai thuộc về Giáo Hội công giáo Việt Nam hôm nay. Đó là vấn đề làm sao cho người giáo dân càng ngày càng trở thành mùa xuân của Giáo Hội Việt Nam. Nói cách khác làm sao để thiên niên kỷ thứ ba là thiên niên kỷ của Giáo Dân Việt Nam?

 

Từ ba việc nhỏ . . . . . . . . . . .

Việc nhỏ thứ nhất :

Cách đây hơn 10 năm tôi đọc được một cuốn sách mà tôi cứ nhớ mãi. Cuốn sách có tựa đề GIÁO DÂN LÀ MÙA XUÂN CỦA GIÁO HỘI vừa mới được phát hành lúc bấy giờ và đề cập đến những sự kiện nổi bật của Giáo Hội Pháp. Đại khái tác giả cho thấy sự thăng tiến của người Giáo Dân Pháp trong những thập niên vừa qua, về mặt hiểu biết về Thánh Kinh, Thần Học, Phụng Vụ và Lịch Sử Giáo Hội và sự tích cực tham gia mục vụ của họ trong Giáo Hội Pháp.

Giáo Hội Pháp được mệnh danh là "trưởng nữ" của Giáo Hội Công Giáo La-mã. Nhưng Giáo Hội ấy có Hàng Giáo Sĩ ngày càng ít đi và già nua. Trong khi đó thì Hàng Giáo Dân càng ngày càng hiểu biết và tích cực tham gia vào công việc mục vụ của Giáo Hội. Nguyên nhân chính khiến người Giáo Dân được nâng cao trình độ về mặt đạo hay việc họ tích cực tham gia công việc mục vụ không phải là sự thiếu các linh mục mà là ý thức của toàn dân Chúa ở Pháp, từ Hàng Giáo Phẩm cho đến Hàng Giáo Dân.

Để chứng minh rằng Giáo Dân Pháp đã thay đổi rất nhiều về mặt kiến thức và kinh nghiệm sống đức tin, tác giả cuốn sách đã nêu lên nhiều sự kiện, nhiều chứng từ. Thí dụ tác giả cho biết sự kiện đáng mừng này là có rất nhiều Giáo Dân tự nguyện ghi tên theo học các khóa Thánh Kinh, Thần Học, Phụng Vụ, Lịch Sử Giáo Hội, Luân Lý tại các đại học Công Giáo. Có người xin nghỉ hưu sớm để đi học. Có người hy sinh một phần thu nhập của gia đình để đi học. Theo tác giả thì sự nâng cao trình độ của Giáo Dân- tuy chỉ là của một số ít- cũng làm thay đổi suy nghĩ và hành động của nhiều Giáo Sĩ. Tác giả đưa ra một chứng từ mà tôi rất tâm đắc. Đó "là lời tự thú" của một vị Linh Mục chánh xứ kia, đại khái như sau: "Trước kia, tôi ít quan tâm đến việc chuẩn bị bài giảng thánh lễ chủ nhật, vì tôi cho rằng tôi muốn giảng gì thì giảng, tôi muốn nói gì thì nói, trong Giáo Dân có ai hiểu biết hơn tôi đâu mà có ý kiến hay phản đối. Nhưng từ ngày trong xứ tôi có mấy Giáo Dân đã tốt nghiệp cử nhân Thánh Kinh, Thần Học hay Phụng Vụ thì tôi biết tôi không thể muốn giảng gì thì giảng, muốn nói gì thì nói, vì nếu tôi nói sai sẽ có người có ý kiến với tôi. Trái lại tôi thấy phải dọn kỹ mỗi bài giảng của mình, phải đọc sách, phải nghiên cứu thêm cho bài giảng đầy đủ và có sức thuyết phục."

Còn về bằng chứng của việc người Giáo Dân Pháp tích cực tham gia công việc mục vụ của Giáo Hội Pháp thì tác giả nêu lên rất nhiều ví dụ khác nhau. Chẳng hạn việc chuẩn bị hôn nhân cho các cặp nam nữ trong hầu hết các giáo phận không còn là công việc của mình các linh mục nữa, mà đã trở thành việc mục vụ mà giáo dân thực hiện chung với giáo sĩ. Các cặp vợ chồng (được huấn luyện chuyên môn về đạo cũng như về khả năng giao tiếp, hiểu biết tâm lý) đóng vai đồng hành với các cặp nam nữ tìm hiểu về hôn nhân và chuẩn bị cử hành bí tích hôn phối trong lòng Giáo hội.

Một ví dụ khác: việc dạy giáo lý trẻ em tại các giáo xứ không những chủ yếu là việc của giáo dân mà còn là việc của các bậc cha mẹ cộng tác chặt chẽ với các giáo lý viên, để giúp con em mình học hỏi về đạo và tập sống đạo, từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội. Việc giúp những người trưởng thành muốn tìm hiểu về đạo hay muốn đón nhận bí tích thanh tẩy cũng phần lớn do người giáo dân đảm nhận, trong tinh thần phối hợp với các linh mục.

Việc nhỏ thứ hai :

Hồi cuối tháng 8 năm 1999, tôi có một diễm phúc lớn là có mặt tại Huế và La Vang khi phái đoàn Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đến thăm giáo phận Huế và hành hương La Vang. Sau bữa cơm trưa với Hàng Giáo Sĩ giáo phận Huế tại phòng khách trung tâm hành hương La Vang, các Giám Mục Hoa Kỳ có buổi trao đổi rất thân tình với các Linh Mục địa phương. Các ngài trả lời nhiều câu hỏi được đặt ra. Có một câu hỏi mà tôi rất thích và câu trả lời cũng rất hay. Câu hỏi đó thế này:

"Đối với Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ thì điều gì khiến Giáo Hội lạc quan nhất và điều gì khiến Giáo Hội bi quan nhất".

Đức Giám Mục Joseph A. Fiorenza, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ và là trưởng phái đoàn đã trả lời như sau:

"Có nhiều điều khiến Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ chúng tôi lạc quan và cũng có những điều khiến chúng tôi bi quan. Điều khiến Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ lạc quan nhất là sự năng động và tích cực của Giáo Dân trong việc tham gia mọi sinh hoạt mục vụ của Giáo Hội"

Để minh chứng cho khẳng định của mình, Đức Cha Joseph A. Fiorenza nêu lên hai sự kiện.

Sự kiện thứ nhất là "ở tất cả các giáo xứ, chúng tôi đều có hội đồng mục vụ giáo xứ, trong đó người Giáo Dân cộng tác chặt chẽ với nhau và với các Linh Mục, Tu Sĩ trong địa bàn để lo toan mọi công việc của cộng đoàn."

Sự kiện thứ hai là "trong các tổ chức của Giáo Hội, từ các ủy ban của Hội Đồng Giám Mục cho đến các tổ chức của các giáo phận, giáo xứ người Giáo Dân đều giữ những vai trò quan trọng như giám đốc, trưởng văn phòng, cố vấn."

Như để chứng minh cho lời nói của mình Giám Mục Joseph A. Fiorenza nói tiếp:

"Như quí cha thấy đây: cùng đi với chúng tôi có ba giáo dân mà chúng tôi hân hạnh được giới thiệu:

  • người thứ nhất là ông . . . cố vấn chiến lược của ủy ban di dân và tỵ nạn của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ;
  • người thứ hai là ông . . . giám đốc điều hành cơ quan viện trợ Công Giáo Hoa Kỳ
  • và người thứ ba là ông . . . cố vấn ngoại vụ của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ về các vấn đề Đông Nam Á .

Họ đều là những Giáo Dân có gia đình vợ con, có lòng nhiệt thành và trình độ, không chỉ về mặt chuyên môn nghề nghiệp mà cả về Giáo Lý, Thánh Kinh, Thần Học nữa. Họ là những chuyên viên không thể thiếu, là cộng sự viên đắc lực của Hàng Giám Mục chúng tôi."

Việc nhỏ thứ ba :

Mới đây tôi có dịp gặp lại linh mục Nguyễn Thái Hợp, Dòng Đa Minh là người có thời khoá biểu ở ba châu lục khác nhau trong một năm: một khoảng thời gian ở châu Âu mà chủ yếu là ở Roma, một thời gian khác ở Peru thuộc châu Mỹ La tinh và một khoảng thời gian khác ở Việt Nam thuộc châu Á. Linh mục Nguyễn Thái Hợp chia sẻ với tôi điều mà ngày nay nhiều vị lãnh đạo cũng như nhiều nhà thần học công giáo đều xác tín. Đó là thiên niên kỷ thứ ba sắp tới sẽ là thiên niên kỷ của Giáo Dân. Nói cách khác sự sống còn và phát triển của giáo hội công giáo trong ngàn năm thứ ba sẽ tuỳ thuộc chủ yếu vào đội ngũ giáo dân.

Nếu nhìn lại lịch sử Giáo Hội người ta có thể thấy rất rõ vai trò hết sức quan trọng của các Giáo Sĩ và Tu Sĩ trong thiên niên kỷ thứ hai. Chính Hàng Giáo Sĩ và Tu Sĩ là những người con của Giáo Hội đã đi tiên phong trong mọi mặt trận. Họ vừa là thành phần ưu tú của Giáo Hội vừa được đào tạo và tổ chức mỗi ngày mỗi hoàn hảo chặt chẽ hơn. Họ chẳng những đã đóng góp vào việc xây dựng Giáo Hội tại các nước Phương Tây và mà còn đem Tin Mừng cứu độ đến cho các dân tộc sống rải rác khắp các châu lục khác.

Nhưng nói thế không có nghĩa là trong thiên niên kỷ trước, chỉ có các Linh Mục và Tu Sĩ đóng góp xây dựng Giáo Hội, còn các thành phần khác như Giám Mục, Giáo Dân thì không đóng góp gì cả. Không phải thế! Trong thiên niên thứ hai tất cả mọi thành phần Dân Chúa đều góp công to lớn vào việc xây dựng và phát triển Giáo Hội cả về chiều sâu lẫn chiều rộng.

Nhưng phải nhìn nhận là giới Giáo Sĩ và Tu Sĩ đã có sự đóng góp mang tính quyết định. Tương tự như thế khi ta nói thiên niên kỷ thứ ba sẽ là thiên niên kỷ của giáo dân thì không hề có nghĩa là chỉ có hàng giáo dân mới đóng vai trò quan trọng trong Giáo hội mà phủ nhận vai trò của hàng giáo phẩm và hàng giáo sĩ, tu sĩ, mà chỉ muốn nói rằng: người giáo dân sẽ có một vai trò nổi bật trong giáo hội ở thiên niên kỷ sắp tới.

Dường như ở mỗi thời đại Thiên Chúa dành một vai trò quan trọng chủ yếu hơn cho một thành phần của dân Chúa. Cuối thế kỷ XX Công đồng Vaticano II đã là một lễ Hiện Xuống mới, một cuộc khai sinh mới của Giáo hội Chúa Ki-tô trong thế kỷ XX và XXI và những thế kỷ tiếp theo sau. Kết quả của công đồng đang tác động trên đời sống giáo hội khắp nơi nơi một cách sâu rộng.

. . . . . .đến một vấn đề lớn

Đó là vấn đề Giáo Hội chúng ta sẽ dành cho Giáo Dân vai trò nào trong thiên niên kỷ sắp tới? Hay nói văn hoa thì là vấn đề Giáo Dân đã là Mùa Xuân của Giáo Hội Việt Nam chưa? Chúng ta đã nói thiên niên thứ hai là thiên niên kỷ của Giáo Sĩ và Tu Sĩ. Nói thế có nghĩa là trong ngàn năm vừa qua Giáo Sĩ và Tu Sĩ đã được nâng cao trình độ một cách đáng kể và đã nắm giữ một vai trò rất quan trọng trong Giáo Hội. Tương tự như thế, nếu chúng ta cho rằng thiên niên kỷ thứ ba sẽ là (hay phải là) thiên niên kỷ của Giáo Dân, thì có nghĩa là Giáo Dân sẽ được thăng tiến cách rõ rệt về mặt trình độ và sẽ được giao phó một trọng trách tối quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của Giáo Hội.

Nhưng trước hết chúng ta thử nhìn vào Giáo Hội Việt Nam hiện nay để xem giáo hội của chúng ta có những đặc điểm nào nổi bật. Sau đây là một vài đặc điểm mà chúng ta dễ dàng nhất trí với nhau:

* Một Giáo Hội sinh động

Đặc điểm đầu tiên mà chúng ta phải ghi nhận về Giáo Hội Việt Nam, đó là một Giáo Hội sinh động. Nguyên sự kiện các nhà thờ từ Nam chí Bắc đầy ắp giáo dân vào các ngày chủ nhật và lễ trọng đủ cho chúng ta đưa ra nhận định trên. Chúng ta cũng thấy một vài hình ảnh khác về một giáo hội sinh động là các lớp giáo lý thiếu nhi và thiếu niên tại các giáo xứ, là sinh hoạt của các hội đoàn, là các hoạt động cứu trợ thiên tai của các giáo xứ hay của các nhóm tự phát. Sự sinh động này đã khiến nhiều du khách công giáo phải ngạc nhiên, thích thú, cảm phục.

* Một Giáo Hội rất mộ đạo và nhiều tình cảm tôn giáo

Đặc điểm thứ hai của Giáo Hội Việt Nam là đa số Giáo Dân giữ đạo theo truyền thống, thói quen và nặng tình cảm. Phải nói là họ rất mộ đạo trên bình diện tình cảm hơn là vì xác tín tôn giáo... Cũng phải nhìn nhận rằng đại đa số giáo dân chưa có một kiến thức cao về giáo lý, thánh kinh, thần học và chưa có nhiều kinh nghiệm tâm linh xác tín. Sự mộ đạo của họ mới dừng ở lòng sùng kính chứ chưa ảnh hưởng nhiều đến sự dấn thân chính trị xã hội.

* Một Giáo Hội còn nặng tính Giáo Sĩ

Một đặc điểm nữa mà không ai có thể chối cãi là Giáo Hội Công Giáo Việt Nam còn mang nặng tính Giáo Sĩ. Điều đó cũng bình thường, vì Hàng Giáo Phẩm Việt Nam mới được thiết lập vào năm 1960 tức mới 40 năm nay. Tuy đã có Hàng Giáo Phẩm bản xứ, nhưng Giáo Hội chúng ta vẫn ở dưới sự quản lý (và giúp đỡ về mặt tài chánh) của Bộ Truyền Giáo của Toà Thánh Vatican, nên chúng ta chưa thể cho mình là một Giáo Hội trưởng thành. Một Giáo Hội nặng tính Giáo Sĩ thì mọi việc đều do Hàng Giáo Sĩ quyết định, mọi việc phải qua Hàng Giáo Sĩ mới có, và chỉ có Giáo Sĩ mới được cung kính tôn trọng.

Giáo Dân đã là Mùa Xuân của Giáo Hội Việt Nam?

Chúng ta đã từng nghe nhiều Giám Mục Việt Nam khẳng định rằng: "thời đại ngày nay là thời đại của giáo dân." Nhiều Giám Mục khác, một cách kín đáo hay công khai, đã đề cao vai trò, sự đóng góp và hy sinh to lớn của Giáo Dân Việt Nam, trong lãnh vực rao giảng Lời Chúa cũng như xây dựng cơ sở vật chất cho giáo hội. Chỉ cần mở các trang sổ vàng xây dựng thánh đường ở các nơi, thì chúng ta thấy được sự đóng góp to lớn, quảng đại của nhiều giáo dân.

Đi sâu hơn nữa vào đời sống Giáo Hội, chúng ta sẽ gặp được ở khắp nơi những giáo dân đang cống hiến thời gian, công sức, tài năng, của cải cho Giáo Hội, một cách quảng đại, không tính toán, không biết mệt mỏi. Càng đi sâu vào các cộng đoàn, càng đi đến các vùng sâu vùng xa, chúng ta càng thấy nhiều Ki-tô hữu giáo dân tận tụy hy sinh cho giáo hội và tha nhân. Vì thế chúng ta có thể nói được rằng giáo dân Việt Nam đã và đang là mùa xuân của giáo hội công giáo Việt Nam. Nói giáo dân là mùa xuân của giáo hội có nghĩa là giáo dân là sức sống, là sự tươi trẻ và là tương lai của giáo hội.

Nhưng Giáo Dân cũng chưa là Mùa Xuân của Giáo Hội Việt Nam?

Nhưng nếu chúng ta dựa vào mấy đặc điểm mà Giám Mục Joseph A. Fiorenza chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đưa ra tại La Vang để minh chứng Giáo Hội Hoa Kỳ có lý do để lạc quan cho tương lai, thì trong Giáo Hội Việt Nam chúng ta còn nhiều việc phải làm để Giáo Dân thực sự là Mùa Xuân của Giáo Hội, để Giáo Dân là yếu tố quyết định trong ngàn năm thứ ba của Giáo Hội. Xin chỉ tập trung vào hai điểm chính yếu nhất: vai trò và trình độ của Giáo Dân.

Trước hết là vai trò của Giáo Dân trong các hội đồng mục vụ giáo xứ và hội đồng mục vụ giáo phận.

Chúng ta biết là bộ giáo luật của Giáo Hội Công Giáo đã được sửa đổi theo tinh thần Công Đồng Vatican II và đã được áp dụng từ mấy năm nay. Bộ Giáo Luật mới ấy khuyến khích việc thành lập hội đồng mục vụ giáo xứ và hội đồng mục vụ giáo phận. Thế mà chúng ta chưa có một qui chế thống nhất và đổi mới cho hội đồng mục vụ giáo xứ. Qui chế thống nhất là qui chế chung cho tất cả các giáo xứ của 25 giáo phận từ Nam ra Bắc. Qui chế đổi mới có nghĩa là qui chế được soạn thảo theo tinh thần Công Đồng Vatican II và phù hợp với các khoản giáo luật về cơ cấu này. Hơn nữa trên toàn cõi Việt Nam chưa có nơi nào có hội đồng mục vụ giáo phận. Đó cũng là một thực tế đáng lưu ý và suy nghĩ.

Chúng ta cũng chưa có những trung tâm, những chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho thành phần đặc biệt này. Hội đồng mục vụ giáo xứ là cánh tay mặt của các linh mục và phải là cơ cấu hoàn hảo nhất của giáo dân trong mỗi đơn vị hạ tầng cơ sở của giáo hội là giáo xứ. Hội đồng mục vụ giáo phận là cánh tay mặt của các Giám mục và phải là cơ cấu hoàn hảo nhất của cộng đoàn dân Chúa trong mỗi giáo phận, một giáo hội địa phương.

Chúng ta phải nhìn nhận là trong nguyên lãnh vực này thì mỗi nơi mỗi khác, mỗi người làm việc với một tinh thần khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Không ít người cho rằng hội đồng mục vụ giáo xứ chỉ là tay sai của các linh mục chánh xứ. Không ít người khác còn coi hội đồng giáo xứ như điều kiện thăng tiến và đem lại vinh quang cá nhân. Không ít hội đồng Mục vụ giáo xứ còn chia rẽ, bè phái, tranh giành với nhau.

Thứ đến là trình độ của Giáo Dân. Còn rất nhiều việc có thể làm và phải làm để nâng cao trình độ của Giáo Dân Việt Nam. Chưa nói chi đến các khóa thần học giáo dân, các trung tâm đào tạo cán bộ, các chương trình bồi dưỡng giới trí thức, chỉ nguyên việc đào tạo đội ngũ giáo lý viên trong mỗi giáo phận đã là một công việc vô cùng lớn lao và cấp bách rồi.

Sau cùng là việc đổi mới tư duy, chuyển từ não trạng cho Giáo Dân sang não trạng của giáo dân. Từ xưa đến nay khi chúng ta nói đến tổ chức đoàn thể, mục vụ, hoạt động giáo dân thì chúng ta nghiêng về suy nghĩ là tổ chức đoàn thể mục vụ hoạt động ấy được tổ chức là nhằm phục vụ Giáo Dân (hoàn toàn đúng) nhưng theo nghĩa là CHO Giáo Dân hơn là CỦA Giáo Dân.

Thí dụ trong ban Giáo Dân (thật ra chưa phải là tiểu ban) thì số thành viên Linh Mục nhiều hơn thành viên Giáo Dân. Chúng ta vẫn quen với não trạng mang nặng "giáo sĩ tính" là trong Giáo Hội làm gì cũng phải do các Linh Mục đứng đầu, chỉ huy, quyết định. Có thể vì đội ngũ Giáo Dân còn quá mỏng và quá yếu kém, nên các Linh Mục phải làm thay, phải lo cho (Giáo Dân).

Nhưng có lẽ nay đã đến lúc chúng ta nên xem xét lại quan niệm này. Vả lại nếu Giáo Dân luôn luôn cần có "người bảo trợ" thì chẳng bao giờ họ khá lên được. Cũng giống như đứa trẻ, luôn phải bám vào tay người lớn để bước đi, thì còn lâu mới có thể bước đi một mình. Các linh mục có mặt bên cạnh Giáo Dân trong ủy ban hay trong hoạt động của họ, thì vai trò hết sức quan trọng của các ngài là làm cố vấn và linh hướng chứ không phải là thay thế Giáo Dân.

Kết luận

Vai trò và trình độ của giáo dân Việt Nam không thể thay đổi, nếu như các vị lãnh đạo (các giám mục) và cơ quan tối cao của Giáo hội Việt Nam (hội đồng giám mục) không thay đổi. Thay đổi trong tư duy, trong hành động và trong cách tổ chức. Cho đến nay việc hình thành và hoạt động của các ban của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam còn rất nhiều khó khăn. Có ban chỉ có trên giấy tờ hay trong lời phát biểu nội bộ hơn là trên thực tế. Lại có ban chỉ có một Giám Mục làm chủ tịch, mà không hề có nhân viên, cũng không có văn phòng!

Ước chi hiện trạng ấy mau chóng thay đổi! Ước chi Giáo Hội Việt Nam đón mừng thiên niên kỷ thứ ba bằng các chương trình hành động thiết thực nhằm nâng cao vai trò và trình độ của giáo dân lên! Sự thay đổi và ước mơ ấy chỉ có thể thành hiện thực với điều kiện là Nhà Nước và các qui định về hoạt động tôn giáo của Nhà Nước cũng thay đổi, theo chiều hướng càng ngày càng cởi mở, hiểu biết và tin tưởng người dân hơn (Giám Mục, Linh Mục và Giáo Dân cũng là người dân).

 

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

(Sàigòn Thu 1999)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

GIÁO DÂN THỜI GIÁO HỘI SƠ KHAI:

NHỮNG VIÊN GẠCH XÂY DỰNG MỘT NỀN THẦN HỌC GIÁO DÂN.

         Lm. Phêrô Phan Đình Cho - Trần Duy Nhiên dịch

 

LTS: Linh mục Giáo Sư Tiến Sĩ Phêrô Phan Đình Cho - được thế giới biết đến với tên Peter C. Phan – đậu bằng tiến sĩ Triết học tối ưu với lời khen của hội đồng (summa cum laude) và bằng tiến sĩ Thần Học (Doctor of Divinity) tại London University, tiến sĩ Thần học tại Salesian Pontifical University, Rôma; Liên Hội Thần Học Gia Công Giáo tại Chicago (Catholic Theological Union) đã trao tặng cha tước vị tiến sĩ Danh Dự. Cha nguyên là chủ tịch Hiệp Hội Thần Học Gia Công Giáo Hoa Kỳ (Catholic Theologiacal Society of America), cựu Giáo sư tại University of Dallas, Texas, và Catholic University of America. Hiện nay, cha là Giáo sư và Khoa trưởng tiên khởi khoa Tư Tưởng Công Giáo về Xã Hội (Chair of Catholic Social Thought), phân khoa Thần Học tại Đại Học Georgetown, đại học Dòng Tên nổi tiếng tại Washington D.C. Cha còn là sáng lập viên Viện Triết Đạo ở Hoa Kỳ. Cha từng là chủ nhiệm một bộ sách 8 tập về thần học hệ thống (systematic theology). Ngoài những bài viết cho các sách báo và tạp chí thần học, cha viết một số sách như Tư Tưởng Xã Hội, Văn Hóa và Cánh Chung, Vĩnh cửu trong thời gian, Ân sủng và Kiếp Người. (Social Thought, Culture and Eschatology, Eternity in Time, Grace and the Human Condition. Vì mang giòng máu Việt Nam, nên những suy tư thần học của cha vừa mang tính uyên bác Tây phương, vừa mang tính nhạy cảm Đông phương, do đó tiếng nói của cha được thế giới đón nhận như một làn gió mới đầy uy tín. Mặc khác, vì là một giáo sư của các trường Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ, đồng thời thường được mời diễn thuyết và giảng dạy nhiều nơi trên thế giới, nên hầu như toàn bộ tác phẩm của cha được viết bằng Anh Ngữ. Trong số này, Maranatha khởi sự đăng bản dịch một bài của cha, nhan đề là ‘The Laity in the Early Church: Building Blocks for the Thelogoly of the Laity.’

 

Khi mà nguyên nhân trước mắt của cuộc khủng hoảng hiện đang làm rúng động Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ và tại những nơi khác do việc lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ, thì tự bản chất, cuộc khủng hoảng ấy lại mang chiều kích Giáo Hội. Vấn đề này liên hệ đến tương quan giữa các vị lãnh đạo Giáo Hội và giáo dân. Nhiều giáo dân đã tỏ ra vô cùng phẫn nộ trước cách thức mà các giám mục và hồng y, và thậm chí các đấng có thẩm quyền trong giáo triều Rôma, đã xử sự trước vấn đề các giáo sĩ thích liên hệ tình dục với trẻ em. Chẳng những các vị lãnh đạo Giáo Hội ấy đã không nắm bắt được tính chất và tầm vóc của việc lạm dụng tình dục nơi hàng giáo sĩ, mà các ngài chứng tỏ rằng mình hoàn toàn thiếu trách nhiệm đối với giáo dân. Hệ quả là những phong trào quần chúng đã được hình thành hầu thôi thúc Giáo Hội chẳng những thay đổi cách thức đào tạo các linh mục tương lai, mà quan trọng hơn nữa là thay đổi cách thức hiểu và sống vai trò người giáo dân trong Giáo Hội. Do đó, điều cần thiết ấy là một nền thần học (về) giáo dân thích hợp hơn. Tiểu luận này mong góp phần để xây dựng một nền thần học như thế, bằng cách xem xét bản chất và nhiệm vụ của giáo dân trong thời Giáo Hội sơ khai. [1]

 

Có một thành phần gọi là “giáo dân” trong Tân Ước không?

Mục đích của ngoặc kép là để chúng ta lưu ý về cách sử dụng từ ngữ ‘giáo dân’ trong Tân Ước. Khái niệm hiện nay về giáo dân như (thành phần) đối lập với giáo sĩ và tu sĩ là một khái niệm không hề tìm thấy trong Tân Ước. Danh từ Hy Lạp laos (λαός - nguồn gốc của từ ‘laity’ = giáo dân) chỉ định dân được tuyển chọn (Israel) chứ không phải là những người không có chức thánh hoặc không phải là tu sĩ trong Giáo Hội, và danh từ kleros (κλeρoς  - nguồn gốc của từ clergy = giáo sĩ) dùng để chỉ một lô đất hay di sản mà mình nhận hoặc những người được giao phó cho mình chăm sóc, chứ không phải là những người được phong chức trong Giáo Hội. Quả thực, giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ ngày nay đều họp thành một thực thể mà Tân Ước vừa gọi là laos theou (λαός θεoυ), nghĩa là dân của Thiên Chúa (1 Pr 2, 10) vừa gọi là kleros (κλeρoς), nghĩa là di sản của Thiên Chúa. (1Pr 5, 3).

Về khái niệm tư tế (= linh mục) và chức tư tế (= chức linh mục), trong Tân Ước, thuật ngữ iereus (ιερεύς: tư tế) hay arkhiereus (αρχιερεύς: thượng tế) chỉ áp dụng cho Chúa Giêsu mà thôi (Dt 4, 10) và thuật ngữ ierateuma (ιεράτευμα: chức tư tế) thì áp dụng cho toàn thể dân Chúa mà không hề có một sự phân biệt nào (1 Pr 2, 5.9). Hai thuật ngữ ấy không bao giờ dành riêng cho bất cứ nhóm người đặc biệt nào trong Giáo hội dựa trên hoặc chiếu theo một bí tích đặc biệt mà họ lãnh nhận hay một nhiệm vụ đặc thù mà họ thực thi cho công đoàn.

Nền tảng cho chức tư tế của Chúa Giêsu là cái chết hy sinh của Người trên thập giá và cuộc phục sinh của Người. Như trong thư Do Thái: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.” (5, 8-10) Về chức tư tế của toàn dân Thiên Chúa, nền tảng thần học là bí tích Thanh Tẩy qua đó, như lời thánh Phaolô, dân Chúa được thanh tẩy trong cái chết của Chúa Kitô, được chôn cất với Người, và sống lại trong sự sống mới cùng với Chúa Kitô (Rm 6,3-5). Tôi sẽ trở lại chức tư tế do phép rửa này như là phẩm giá căn bản duy nhất của Kitô hữu, bao gồm cả ‘giáo dân’ lẫn ‘giáo sĩ’. Ở đây, chỉ cần lưu ý rằng trong Tân Ước không hề có khái niệm ‘giáo dân’ như là một nhóm Kitô hữu khác biệt so với giáo sĩ và tu sĩ, một phẩm trật mà vào thời ấy dĩ nhiên chưa từng hiện hữu. Chỉ có một tư tế duy nhất là Chúa Giêsu và một chức tư tế duy nhất là chức tư tế của Đức Kitô; và toàn thể dân Chúa (laos - λαός) đều là tư tế cùng một tư cách, đó là qua phép rửa mà họ chia sẻ bình đẳng với nhau chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô.

Điều này không có nghĩa là trong Tân Ước không có một số nhiệm vụ đa dạng được nhiều người khác nhau trong Giáo Hội đảm nhận. Phúc âm từng đề cập đến nhóm Mười Hai (Tông đồ) mà vai trò là đại diện cho mười hai chi tộc Israen và làm chứng cho sứ mạng, cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu (Cv 1, 22). Nhưng ngoài nhóm Mười Hai với phần vụ đặc thù của họ là làm chứng tai nghe mắt thấy cho cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, thì vẫn còn có nhiều ‘đặc sủng’, nhiều ‘việc phục vụ’‘hoạt động’ khác trong Giáo Hội sơ khai (1Cr 12, 4-6). Trong số này, có người giữ nhiệm vụ ngắn hạn và người thì dài hạn. Trong số các ‘đặc sủng’ (charismata - χαρισμάτα), thánh Phaolô nêu lên ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn đức tin, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn phân định thần khí, ơn nói các tiếng lạ, ơn giải thích các tiếng lạ (1 Cr 12, 8-10). Trong phần tiếp theo của bức thư ấy, thánh Phaolô còn ghi thêm những phương thức và hoạt động khác: việc tông đồ, giảng dạy, giúp đỡ và quản trị (1 Cr 12, 28).

Không rõ là khi đề ra danh sách này, thánh Phaolô muốn ghi cho đầy đủ (có vẻ không phải như thế) hay muốn sắp xếp theo thứ tự quan trọng (rất có thể), đặc biệt là trong đoạn văn cuối, khi ngài viết: ‘thứ nhất là các tông đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy.’ Dù sao đi nữa, điều chắc chắn là, đối với thánh Phaolô, mọi đặc sủng, mọi công việc phục vụ và hoạt động đều cần thiết và quan trọng cho đời sống Giáo Hội. Cũng như không chi thể nào có thể nói với chi thể khác: Tôi không cần anh! (1 Cr 12,21), thì không phần vụ nào trong giáo hội là dư thừa. Hơn nữa, nếu buộc xếp hạng các loại đặc sủng, thì theo thánh Phaolô, Tình Yêu phải đứng hàng đầu, vì thiếu tình yêu thì không có phần vụ nào còn giá trị gì nữa (1 Cr 13,13). Sau hết, và quan trọng nhất, mọi đặc sủng phải được thực thi để xây dựng cộng đoàn (1 Cr 14,12).

Cuối cùng, cần phải lưu ý rằng ba thuật ngữ episcopos, presbyteros, và diakonos (έπίσκoπoς, πρεσβύτερoς, διάκovoς) nói lên những nhiệm vụ đặc thù cần phải thực thi. Thuật  ngữ thứ nhất có nghĩa là người ‘giám sát’ hay ‘nhìn từ trên’, nhưng thường được dịch là ‘giám mục’ (giám quản); thuật ngữ thứ hai có nghĩa là ‘niên trưởng’ hay ‘trưởng lão’, nhưng thường được dịch là ‘linh mục’ (kỳ mục), và thuật ngữ thứ ba có nghĩa là ‘người phục vụ’ hay ‘bồi bàn’, nhưng thường được dịch là ‘phó tế’ (trợ tá). Trong Philip 1, 1, thánh Phaolô gửi lời chào ‘các vị (xin lưu ý đến số nhiều: các) giám quản (giám mục) và trợ tá (phó tế)’ trong cộng đoàn, và dù chúng ta cũng không biết họ đảm nhận nhiệm vụ gì, thì rõ ràng họ giữ một vai trò quan trọng bởi lẽ thánh Phaolô đã nêu đích danh. Trong Rôma 16, 1 thánh Phaolô đề cập đến một người nữ tên là Phoebe và gọi bà là ‘diakonos (διάκovoς: phó tế) của hội thánh’.

Trong ba bức thư mục vụ - hẳn là không do thánh Phaolô tự tay viết lấy mà do các môn đệ viết nhân danh ngài - thì cũng ghi lại các thuật ngữ episcopos, presbyterosdiakonos (έπίσκoπoς, πρεσβύτερoς, διάκovoς). Trong 1 Timôtê, có một số chức năng và nhiệm vụ được dành cho cả episcopos (giám mục, giám quản) (3, 2-3) lẫn diakonos (διάκovoς: phó tế, trợ tá’) (3,8-12). Những chức năng và nhiệm vụ ấy ít nhiều cũng được đòi hỏi nơi episkopos trong Titô 1, 7. Về phần các presbyteros (πρεσβύτερoς: linh mục - kỳ mục), 1 Timôtê 5, 17 bảo rằng họ phải được ‘đãi ngộ gấp đôi, nhất là những người vất vả phục vụ lời Chúa và giảng dạy.’ Những nhiệm vụ như đặt tay (1 Tm 4, 14), xức dầu bệnh nhận (Gc 5, 14), và quản trị chung (Tt 1.5; 1 Pr 5, 2-3) cũng được nêu là phần vụ của họ.

Tôi đã đặt các từ ‘giám mục’, ‘linh mục’ và ‘phó tế’ trong dấu ngoặc như trên để nhắc độc giả rằng khi những từ này được dùng trong Tân Ước thì chúng không có cùng một nghĩa như ta hiểu hiện nay. Giám mục, linh mục, và phó tế hiện nay – thành phần giáo sĩ trong Giáo Hội – không phải là những người kế vị các ‘giám mục’, ‘linh mục’ và ‘phó tế’ trong Tân Ước, vì những vị được gọi bằng những danh xưng này không họp thành ‘giáo sĩ’ trong giáo hội thời Tân Ước, bởi lẽ Giáo Hội thời ấy không có một phẩm trật như thế…

Sự xuất hiện của Giáo Dân như thành phần khác biệt và thuộc quyền nhóm linh mục.

Rõ ràng là trong Tân Ước chỉ có một tư tế duy nhất, đó là Chúa Giêsu, và toàn thể dân Thiên Chúa bình đẳng chia sẻ chức tư tế của Chúa Kitô thông qua phép rửa (chức tư tế do phép rửa). Nhờ chức tư tế phổ quát (chung) này, mọi Kitô hữu đều bình đẳng từ nền tảng, có cùng một phẩm giá và cùng một ơn gọi nên thánh như nhau. Tuy nhiên, sự bình đẳng nền tảng này giữa các Kitô hữu không có nghĩa là họ đều làm cùng một việc. Có rất nhiều phần vụ và mọi phần vụ đều cần thiết cho sự lành thánh của Giáo Hội; và mọi người phải thực thi các phần vụ mình để kết thành thân thể Chúa Kitô. Nếu phải xếp hạng các phần vụ đó theo thứ tự cao thấp, thì tiêu chuẩn không phải là quyền lực hay sự thánh thiện. Như thế có nghĩa là không có phần vụ nào cao trọng hơn phần vụ khác xét về quyền lực, và không có phần vụ nào tốt lành hơn phần vụ khác xét về sự thánh thiện: chúng đều bổ túc cho nhau. Tiêu chuẩn duy nhất để phân biệt các phần vụ trong giáo hội là công việc phục - vụ - trong - tình - yêu. Như Alexandre Faivre từng nói lên: “Không có vấn đề phẩm trật tôn ti về quyền lực hay về sự thánh thiện. Chỉ có phẩm trật tôn ti trong việc phục vụ mà thôi” [2]

Vậy thì lúc nào và vì sao xuất hiện khái niệm về một nhóm người trong giáo hội được gọi là ‘giáo dân’, khác biệt và bất bình đẳng với một nhóm khác được gọi là ‘giáo sĩ’? Tìm về tư liệu đề cập đến bước đầu của sự xuất hiện này, các sử gia nêu lên một bức thư do thánh Clêmentê viết năm 96 nhân danh Hội Thánh Rôma gửi Hội Thánh Corintô. Nguyên nhân của bức thư này là cuộc đấu tranh tai tiếng để dành lấy quyền lực trong hội thánh Côrintô [3].  Các vị trưởng lão lãnh đạo, từng thực thi nhiệm vụ mình một cách hoàn hảo, bỗng bị một nhóm người trẻ truất phế. Hình như nhóm này muốn đưa vào một cách thức cai quản uyển chuyển hơn, có lẽ với một nhiệm kỳ ngắn hạn thay vì một nhiệm vụ suốt đời. Có thể những người chống đối cũng là những kẻ tự cho rằng mình có các ân sủng hay đoàn sủng đối lập với những tác vụ bình thường.

Thánh Clêmentê viết bức thư ấy nhằm giải quyết xung đột bằng cách dựa trên khái niệm về tôn ti trật tự trong cơ cấu giáo hội. Theo ngài, các tông đồ cắt đặt những tín hữu tiên khởi làm ‘giám quản và trợ tá cho các tín hữu tương lai’ (chương 42). Về sau, các ngài cũng qui định rằng khi những giám quản và trợ tá ấy chết đi thì ‘những người được chấp thuận khác sẽ thay thế nhiệm vụ của họ’ (chương 44). Từ đó, thánh Clêmentê tiếp tục bảo rằng ‘sẽ phạm đức công bình nếu cách chức những người được bổ nhiệm do họ (= các tông đồ), hay được chọn sau này với sự đồng ý của toàn thể hội thánh, do những người có thế giá, từng được mọi người chấp thuận và coi sóc đàn chiên của Chúa Kitô một cách không sai sót, khiêm nhường, trầm tĩnh và không tự phụ’ (chương 44). Thế là mặc nhiên thánh Clêmentê khai sinh một khái niệm quan trọng trong giáo hội học: ấy là khái niệm ‘kế vị các tông đồ.’

Chính trong bối cảnh đó mà thuật ngữ laikos (λαϊκός) xuất hiện lần đầu tiên. Để giải thích quan niệm về tôn ti trật tự trong giáo hội, thánh Clêmentê sử dụng ba hình ảnh. Thứ nhất là hình ảnh của quân đội, trong đó ‘mỗi người theo cấp bậc mình đều thi hành mệnh lệnh của hoàng đế và các tướng lãnh’ (chương 37). Thứ hai là hình ảnh theo thánh Phaolô, ấy là một thân thể có nhiều chi thể, tuy khác biệt nhau, ‘nhưng hành động phối hợp với nhau và hiệp nhất trong vâng phục để phục vụ cho toàn thân’ (chương 37). Thứ ba là hình ảnh của việc thờ phượng Do Thái, với luật lệ qui định nơi chốn, thời gian và người cử hành lễ tế, và không ai được vi phạm luật lệ ấy. Cũng thế,  thánh Clêmentê khẳng định rằng mọi sự trong Giáo Hội phải được thực hiện ‘theo tôn ti trật tự’: ‘Vị thượng tế đã được giao phó nhiệm vụ đặc biệt; các tư tế có địa vị riêng của mình; các Lêvi có thừa tác vụ đặc thù của họ; và người giáo dân (laikos anthropos - λαϊκός αvθρωπoς) bị ràng buộc trong luật lệ dành cho giáo dân (tous laikous prostagmasin - τoυς λαϊκoυς πρoστάγμασιv)’ (chương 40).          Trong văn bản này, tính từ ‘giáo dân’ (laikos - λαϊκός) là một từ mới do thánh Clêmentê đặt ra. Rõ ràng đối với thánh Clêmentê, giáo dân (dù ngài không dùng laikos như một danh từ) hợp thành một nhóm người tách biệt trong giáo hội. Thế nhưng, trong khi Ngài nêu lên bổn phận, nhiệm vụ, và vị trí riêng biệt của ba nhóm kia, thì ngài không nêu một vai trò hay vị trí nào của người giáo dân ngoài việc họ bị trói buộc vào một số lề luật. Dù thánh Clêmentê không nói các lề luật ấy là gì, thì chắn chắn lề luật hàng đầu hẳn là phục tùng và vâng lời, để giữ tôn ti trật tự trong hội thánh.

Từ bức thư của thánh Clêmentê, ba khuynh hướng liên quan đến giáo dân bắt đầu xuất hiện. Thứ nhất, họ được xếp vào một nhóm riêng biệt, khác với nhóm tư tế (thượng tế, tư tế và Lêvi): các thành viên trong giáo hội giờ đây đã chia ra thành hai thành phần là giáo sĩ và giáo dân. Thứ hai, họ không có một nhiệm vụ và vai trò riêng nào, đặc biệt là trong việc phụng tự, so với hàng tư tế: họ không có một ‘khuôn mặt’ và được định nghĩa bằng lối phủ định căn tính (= giáo dân là… không phải là giáo sĩ. Chú thích của người dịch). Thứ ba, những nhân đức chủ yếu của họ là vun trồng tinh thần vâng lời và phục tùng giáo sĩ: chức linh mục theo phép rửa của họ với các hoạt động cần thiết và sự bình đẳng căn bản của họ so với các thành phần khác trong giáo hội đã trở nên mờ nhạt.

Khoảng đầu thế kỷ thứ hai, - như ta đọc được qua ba khía cạnh của phẩm trật giám mục trong bảy bức thư của thánh I-nhã, giám mục Antiôkia, chịu tử đạo tại Rôma năm 107 - việc  một giám mục duy nhất có một hội đồng nhiều linh mục ủng hộ và các phó tế trợ giúp đã trở thành một chuẩn mực, ít ra là tại Tiểu Á. Đối với thánh I Nhã, cơ cấu này, được gọi là cơ cấu ‘giám mục duy nhất’ (monepiscopate), là một bảo đảm cho tính duy nhất và chính thống của Giáo Hội. Mọi người đều có bổn phận vâng lời và phục tùng giám mục, và khi chưa có sự chấp thuận của ngài, thì không thể cử hành cả Bí Tích Thánh Thể lẫn Bí Tích Hôn Nhân. Thánh I Nhã viết cho cộng đoàn Trallia như sau: “Vì khi anh em vâng lời giám mục như thể ngài là Chúa Kitô, tôi thấy rằng anh em sống không chỉ theo phương cách nhân loại mà thôi, nhưng còn theo đường lối của Chúa Giêsu Kitô… Do đó, điều chủ yếu là không bao giờ được hành động mà không có giám mục… Nên tuân phục cả hội đồng linh mục như tuân phục tông đồ Chúa Giêsu Kitô… Mọi người cần tỏ ra kính trọng các phó tế. Các ngài đại diện cho Chúa Giêsu Kitô, nhưng giám mục có vai trò của người cha, và hội đồng linh mục giống như hội đồng của Thiên Chúa và một nhóm tông đồ.” [4]

Rõ ràng, sự phân biệt giữa ‘giáo sĩ’ và ‘giáo dân’ đã trở thành rất đậm nét, và ‘giáo dân’ đã biến mất khỏi lãnh vực thần học với tư cách là một thành phần quan trọng có quyền hạn riêng.

Những giáo dân có ảnh hưởng trong Giáo Hội Sơ Khai: một hình ảnh khác.

Mặc cho căn tính khá tiêu cực của giáo dân vào cuối thế kỷ thứ nhất, thì vào thế kỷ thứ hai và thứ ba có những nhân vật không phải là ‘giám mục’ hay ‘linh mục’ hay ‘phó tế’ qua lễ đặt tay trong một nghi lễ phong chức hoặc do một nhiệm vụ giám quản trong cộng đoàn (và ta có thể gọi nhóm này là ‘giáo dân’), nhưng những lời giáo huấn hay bài viết của họ đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong giáo hội. Có hai người xứng đáng được trân trọng đặc biệt: đó là Justinô và Tertulianô.

Justinô (100 – 165), ra đời tại Samari, là một triết gia ngoại giáo đã đón nhận đức tin Kitô Giáo và tiếp tục dạy triết học cho đến khi chịu tử đạo tại Rôma dưới thời đời Hoàng Đế Maccô Aurêliô. Ông viết một số tác phẩm vào hạng nổi danh nhất như tập Biện Giải (Apology) gửi Hoàng Đế Antôniô Piô và các dưỡng tử ông để bảo vệ Kitô hữu chống lại lời cáo buộc họ là vô thần, vô luân và phản quốc [5]. Chính trong tập Biện Giải này mà ta tìm thấy những giáo huấn ý nghĩa nhất của Justinô về Kitô giáo và Kitô hữu. Đối với ông, mọi Kitô hữu đều là tư tế nhờ phép rửa. Ông không phân biệt giáo sĩ với giáo dân và không xác nhận là có một chức tư tế khác - chức tư tế được tấn phong hay thừa tác - thêm vào và cao hơn chức tư tế do phép rửa. Đối với ông, mọi môn đệ của Chúa Kitô đều có một phẩm giá như nhau, Ông bảo:  Chúa Kitô đã đến để ban một ‘phẩm giá ngang bằng cho tất cả những ai tuân giữ giới răn Người.’ [6]

Điều này không có nghĩa là cộng đoàn mà Justinô mô tả không có một người chủ tọa và cũng không cử hành bí tích Thánh Thể. Quả thật, Justinô để lại cho chúng ta bản tường thuật xưa nhất về cách thức cử hành bí tích Thánh Thể trong thời giáo hội sơ khai. Ông viết rằng trong thánh lễ ngày Chúa nhật, có ít nhất ba loại người với nhiệm vụ khác nhau: “người chủ tọa cộng đồng anh em’, (những) người đọc Sách Thánh, và những người phục vụ gọi là ‘trợ tá’ (phó tế). Thật đáng lưu ý vì Justinô không dùng một danh từ để chỉ định người chủ tọa cộng đoàn, thay vì thế, ông đã sử dụng một động từ, dịch sát mặt chữ là ‘người đang chủ tọa’. Mặt khác, ông không bảo rằng vị ‘chủ toạ’ cộng đoàn phải là người đã được ‘phong chức’ (nghĩa là một giám mục, linh mục hay phó tế) hoặc một người nam. Ông chỉ nêu bốn công việc của người chủ tọa: khuyên bảo và khích lệ dân Chúa sau bài đọc, dâng lời cầu nguyện Thánh Thể tự phát, chủ tọa việc phân phối bánh và rượu đã được hiến thánh, và thu góp những quà tặng để giúp đỡ người thiếu thốn. Rõ ràng ông không nghĩ rằng điều quan trọng là một chức vị cố định như giám mục hay linh mục, khiến cho một người được đặt cao hơn cộng đoàn; điều quan trọng là công việc phục vụ mà một người thực thi cho cộng đoàn.

Người thứ hai trực tiếp nhấn mạnh đến chức tư tế của giáo dân là Tertulianô, gốc Phi Châu, (160-220). Dù ông rời Giáo Hội Công giáo để gia nhập giáo phái Montanô, thì những điều ông viết cũng ảnh hưởng nhiều trên nền thần học Tây phương. Việc nhấn mạnh này lại càng ý nghĩa vì Tertulianô, ngược với Justinô, công nhận có hai thành phần trong giáo hội: giáo dân, mà ông gọi là ‘plebs’, nghĩa là thứ dân hay thường dân, và ‘ordo presbytororum’ hay giáo sĩ, nghĩa là giai cấp những giám mục, linh mục và phó tế, là những người ‘lãnh đạo và chủ chăn’. Nhưng Tertulianô dứt khoát nêu rõ rằng giáo sĩ xuất phát từ giáo dân, một thành phần có phẩm giá tư tế bình đẳng với giáo sĩ. Quả thật, bởi lẽ giáo dân là tư tế, nên Tertulianô bảo rằng khi vắng giáo sĩ, thì giáo dân (dù theo ông thì không bao gồm nữ giáo dân) có thể và có bổn phận rửa tội và dâng Thánh Thể trong thời gian đó: “Nơi nào không có tòa của giáo sĩ, thì anh em là giáo dân, anh em hãy dâng (Thánh Lễ) và rửa tội, và anh em sẽ là tư tế cho chính mình. Nói cách khác, khi nào có ba người họp lại, dù chỉ là giáo dân, thì đã có giáo hội’.

Từ khác biệt đến bất bình đẳng: Nghi thức phụng vụ đặt tay cho hàng giáo sĩ.

Bất chấp lời khẳng định mạnh mẽ của Justinô và Tertulianô về chức tư tế do phép rửa của giáo dân và quyền bình đẳng giữa họ với hàng giáo sĩ trong Giáo Hội, thì vào giữa thế kỷ thứ ba, sự khác biệt giữa giáo dân và giáo sĩ đã dần dần biến thành sự bất bình đẳng: giáo dân thấp kém hơn giáo sĩ. Chúng ta đã lưu ý trước đây về sự thấp kém của nữ giáo dân so với nam giáo dân trong thần học của Tertulianô. Ở đây, ngay cả nam giáo dân cũng bị xem là thấp kém so với giáo sĩ như vậy. Khuynh hướng này bắt đầu với Origen (185-254). Ông lý luận rằng giáo sĩ cao trọng hơn giáo dân bởi vì họ có quyền tha tội cho giáo dân. Sự cao trọng trong địa vị được chuyển sang một nếp sống tinh thần: giáo dân được tái hôn khi vợ mình đã qua đời, trong khi đó thì giáo sĩ không được phép tái hôn. Hơn nữa, thừa tác vụ dạy dỗ với tư cách là thầy giảng hay kinh sư, mà vào thế kỷ thứ ba vẫn do giáo dân đảm nhiệm (Clêmentê thành Alexandria và chính Origen từng là thầy giảng trước khi trở thành linh mục năm 230), bắt đầu thu hẹp lại vào hàng giáo sĩ.

Sự phân biệt giữa giáo sĩ và giáo dân được xác định qua quyết định của giáo luật và phụng vụ vào thế kỷ thứ ba trong một văn kiện quan trọng được xem là Truyền Thống các Tông Đồ, mà tác giả là một linh mục La Mã, thánh Hippolite (170-236). Văn kiện này cực kỳ quan trọng vì nó mô tả nghi lễ được cử hành tại Rôma vào thế kỷ thứ ba. Qua văn kiện này, rõ ràng là sự phân biệt giữa giáo sĩ và giáo dân được hình thành qua phụng vụ. Một giáo dân muốn trở thành giáo sĩ thì phải thông qua nghi lễ đặt tay, còn được gọi là ‘ordinatio’ (mà trong từ vựng Việt Nam hiện nay gọi là: lễ nghi phong chức): “Việc đặt tay (keirotonia - χειρoτovία) được dành cho giáo sĩ (kleros- κλeρoς) để cử hành phụng vụ (leitourgia - λειτoυργία).” Việc đặt tay này được dành cho những ai được phân công cử hành phụng vụ hay ‘hy lễ’ (nghĩa là bí tích Thánh Thể), đấy là giám mục, linh mục và phó tế. Những tác vụ khác trong phụng vụ, ví dụ các nhiệm vụ của một góa phụ, một trinh nữ, một người giảng dạy, đọc sách hay chữa bệnh, thì không được phép hay đòi buộc đặt tay. Điều cần thiết cho các tác vụ này là nghi lễ ‘bổ nhiệm’ hay ‘nhậm chức’.

Những giáo dân nào được đặt tay để cử hành phụng vụ? Trong khi cuốn Truyền thống các Tông Đồ không nhắc gì đến phụ nữ, thì một tài liệu khác, tập Didascalia Apostolorum (Giáo Huấn các Tông Đồ), cũng được viết vào thế kỷ thứ ba bằng tiếng Hy Lạp, nhưng chỉ còn lại bản tiếng Syria, có đề cập đến nữ phó tế. Tập này kêu gọi Kitô hữu tôn kính giám mục ‘vì đối với anh em, giám mục giữ vị trí của Thiên Chúa Tối Cao. Phó tế giữ vị trí của Chúa Kitô nên anh em phải yêu mến họ. Anh em cũng phải yêu mến các nữ phó tế, là những người giữ vị trí của Chúa Thánh Thần. Đối với anh em, những trưởng lão (linh mục) đại diện cho các tông đồ.’ [7]

Một trường hợp đáng chú ý khác là trường hợp của người tuyên xưng, nghĩa là một Kitô hữu bị bắt hoặc bị giam cầm hay xử phạt bằng một hình thức nào đó (chứ không chỉ bị nhạo báng mà thôi) vì đức tin Kitô giáo trong thời kỳ bách hại và tuyên xưng đức tin mình. Theo Truyền Thống các Tông Đồ: “Nếu một người tuyên xưng từng bị bắt nhân danh Chúa, thì không được đặt tay trên người đó để phong chức phó tế hay chức linh mục, bởi lẽ người tuyên xưng đã được vinh dự hưởng chức linh mục nhờ việc tuyên xưng của mình. Nhưng nếu người tuyên xưng đó được tấn phong giám mục, thì cần phải đặt tay trên người đó.” [8] Mặc dù chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng người tuyên xưng là một người nam, và nhiều dịch giả sử dụng đại từ giống đực để chỉ định người tuyên xưng, chúng ta biết rằng không chỉ người nam mà người nữ cũng bị bắt giam vì đức tin và đã tuyên xưng đức tin mình. Do đó, phụ nữ ‘cũng đã được vinh dự hưởng chức linh mục nhờ việc tuyên xưng của mình’….

 

Chú thích:

[1] Cuộc nghiên cứu kinh điển về giáo dân do Yves Congar: Lay People in the Church: A Study for a Theology of Laity, do Donald Attwater dịch (Westminster, MD: Christian Classics, 1985). Những cuộc nghiên cứu gần đây hơn về giáo dân bao gồm: Rémi Parent, Church of the Baptized: Overcoming the Tension Between the Clergy and the Laity, do Stephen W. Arndt dịch (New York: Paulist Press, 1989); Alexandre Faivre, The Emergence of the Laity in the Early Church, do David Smith dịch (New York: Paulist Press, 1990); và Peter Neuner, Der Laie und das Gottesfolk (Frankfurt am Main: Verlag Josef Knecht, 1988).                                                                                      

[2] Alexandre Faivre, The Emergence of the Laity, 9

[3] Về bản dịch tiếng Anh bức thư này, xem Early Christian Fathers, ed. Cyril Richardson (New York: Macmillan, 1970) 43-73. Về lời bình luận bức thư này liên quan đến giáo dân, xem Alexandre Faivre, The Emergence of the Laity, 15-24.

[4] Về bản dịch tiếng Anh các bức thư của thánh I Nhã, xem Early Christian Fathers, ed. C. Richardson, 87-120. Câu trích dẫn trên đây là ở trang 98-99.

[5] Về bản dịch tiếng Anh cuốn Apology của Justinô (thường gọi là First Apology [Biện giải thứ nhất] để phân biệt với cuốn Apology thứ hai), xem Early Christian Fathers, ed. C. Richardson, 242-289.

[6] Justin, Dialogue with Trypho, 134.3.

[7] Didascalia Apostolorum, II, 26.6-8.

[8] Apostolic Tradition, 9.

 


GIáo Dân trong HỘi Thánh

 

Felipe Gómez Ngô Minh [1]

 

I . GiỜ Đã ÐiỂm...

Có lẽ một trong những thành quả đáng kể nhất của công đồng Vaticanô II là việc nêu bật vai trò của giáo dân ở giữa lòng cuộc sống Hội Thánh. Chỉ trong quãng thời gian trên dưới một thế hệ nay, đã thấy có nhiều giáo hữu không chịu chức thánh đóng giữ những vai trò trọng yếu hoặc trở nên những thành phần năng động trong Giáo Hội. Hẳn là còn phải tiến xa hơn nữa cho đến khi đa số thầm lặng này tham gia hàng loạt và tích cực vào sứ mệnh của Ðức Kitô ở giữa thế giới. Trong quá khứ, giới giáo dân được quan niệm như là Giáo Hội thụ huấn, hoàn toàn ở dưới quyền chi phối của giáo sĩ. Họ chỉ là giới tiêu dùng tựa như khách hàng trong siêu thị tôn giáo của các bí tích. Nói Giáo Hội là người ta nghĩ ngay đến hàng giáo phẩm hoặc các giáo sĩ: Giáo Hội bảo... Giáo Hội dạy... Giáo Hội tỏ rõ lập trường của mình... v.v. có nghĩa là các giám mục và lắm khi chỉ một mình Giáo chủ Rôma! làm như thế; còn khối các tín hữu khác thì chỉ là đàn chiên được chăn dắt bởi các mục tử. Thánh Piô X đã quả quyết với một lời bi tráng như sau: Chỉ duy các mục tử mới có quyền hành và uy thế... Còn dân chúng [tức giáo dân] thì chỉ có quyền để các mục tử dẫn dắt, và như đàn chiên dễ bảo, biết nghe theo các ngài... [2] Nhân đức căn bản của giáo dân là vâng lời và cách thức góp phần vào công trình của Giáo Hội là góp tiền của cho các cuộc lạc quyên, là góp "tiền oi" mỗi Chúa nhật. Thực vậy, đối với đa số, sống đạo chỉ cốt tại việc xem lễ các ngày Chúa nhật và lễ buộc. Ðó là bổn phận cốt cán của đời sống kitô!

May thay, hình ảnh có phần biếm họa trên đây hiện đang chuyển mình biến đổi. Bởi một mặt, Giáo Hội (hàng giáo phẩm) đang mạnh mẽ thúc dục giáo dân gia nhập các phong trào tông đồ muôn hình thái và tham gia tích cực vào trong sứ vụ chung của Giáo Hội. Giáo Hội đã phải đấm ngực thú nhận lỗi tại tôi... mọi đàng vì thái độ tiêu cực đã từng có đối với dân Chúa, vì đã bỏ quên các đặc sủng Thánh Thần ban cho họ, đã bỏ rơi tài năng đa dạng của họ, cũng như vì đã đối xử với họ như là loại dân thiêng liêng thứ cấp. Và mặt khác, bởi có kiến thức đầy đủ và được đào tạo chu đáo, giáo dân ngày nay không những không còn ngại ngùng, mà hơn nữa, còn mạnh mẽ dấn thân vào trong các công tác tông đồ và hành chánh của Giáo Hội. Không thiếu gì giáo dân đích thân đứng ra thành lập các phong trào hoặc hội đoàn tông đồ hay đạo đức. Và hiện nay, cũng không thiếu gì giáo dân đang đứng đầu dẫn dắt các cộng đoàn giáo xứ. Và trong khắp thế giới, đại đa số các giáo lý viên đều là giáo dân: họ là những thầy giáo khai tâm, có sứ mạng gieo hạt giống Lời Chúa vào lòng các thế hệ trẻ. Giáo Hội có bổn phận nhìn nhận địa vị của họ, không chỉ cứ sự không thôi mà còn cứ luật nữa. Bởi thế, đã đến lúc phải gấp rút sửa đổi nhiều điều trong Giáo Hội, phải thay đổi cả não trạng, thái độ và cơ cấu: thời kỳ đã mãn! [3]

Giáo Hội Trung Ương

Trong thời tân đại, giáo dân công giáo đã sống đạo theo lối hầu như hoàn toàn thụ động. Ðã có ít nhiều sáng kiến cá nhân: Pauline-Marie Jaricot đã sáng lập hội Truyền Giáo tại Lyon (năm 1822); cùng với một nhóm bạn, Frédéric Ozanam đã khởi động và khai sinh Hội Thánh Vinh Sơn Phaolô (năm 1835). Rồi năm 1924, phong trào JOC (Jeuneuse Ouvrière Ca­­­­tholique, Thanh Lao Công) được sáng lập tại Bỉ dù do sáng kiến của một giáo sĩ, Joseph Cardinj và đã lan rộng đến nhiều nước dưới nhiều thể dạng khác nhau. Còn có một số sáng kiến xuất hiện tại nhiều nơi khác, nhưng chỉ là những sáng kiến đơn thuần địa phương, không có được tầm hưởng quốc tế.

Phong trào Công Giáo Tiến Hành đã khởi đầu hồi thế kỷ 19 bằng những bước ngập ngừng, mập mờ, với sự ủng hộ chưa nói được là hoàn toàn của Ðức Piô IX. Rồi tiếp đó, các thông điệp Tân Sự (Rerum novarum) của Ðức Lêô XIII và Năm Thứ Bốn Mươi (Quadragesimo anno) của Ðức Piô XI đã thúc giục người công giáo dấn thân vào các lãnh vực chính trị và lao động. Qua Ubi arcano Dei (năm 1922), Ðức Piô XI đã đặt nền móng nhằm thiết kế một phương thức mới cho công tác hoạt động tông đồ giáo dân; ngài cũng đã viết một thông điệp cho Công Giáo Tiến Hành nước Ý (Non abbiamo biso­gno, 29-6-1931), với mục đích chinh phục môi trường đang bị tục hóa của Châu Âu. Các Giáo hoàng đã lưu ý cách riêng đến các nước Tây phương, là những nước có đông người công giáo. Ðức Piô XII đã dốc lực tổ chức các phong trào công giáo trên bình diện quốc tế. Theo ngài, giáo dân có thể được quan niệm như là phụ tá của giáo sĩ; trong thông điệp Năm Thánh (Anni sacri, 12.3.1950), ngài viết: Bởi linh mục không thể đến với tất cả và làm hết mọi sự, và cũng chẳng có thể thường xuyên thỏa mãn cho tất cả được, nên các thành phần chiến đấu trong hàng ngũ Công Giáo Tiến Hành có bổn phận góp phần trợ lực cho kinh nghiệm và công lao của họ (số 8). Và trong thông điệp Những Người Loan Báo Tin Mừng (E­van­ge­lii praecones), ngài phát biểu tiếp: Cần phải có những giáo dân quảng đại và nhiệt thành hợp tác với giáo sĩ trong việc tông đồ, cũng như tham gia đông đảo vào trong các hàng ngũ Công Giáo Tiến Hành. [4]

Khi ngõ lời với Công Giáo Tiến Hành Ý (7.12.1963), Ðức Phaolô VI đã tóm lược như sau về quan niệm đối với giáo dân trong thời tiền Vaticanô II: Các con thường khẳng định rõ: là những giáo dân nam nữ thuộc mọi giai tầng xã hội, chúng con cương quyết gắn bó với thừa tác vụ phẩm trật của Giáo Hội, hầu trở nên, trước tiên, những người con nhiệt tình hiếu thảo, luôn biết lắng nghe lời hàng giáo phẩm, sẵn sàng đón nhận các huấn lệnh, cũng như chia sẻ những lo âu, khổ nhọc và niềm hy vọng của các ngài; chúng con cũng cam kết đem toàn lực hoạt động với tất cả lòng trung thành để tiếp tay làm cho sức hữu hiệu tông đồ của các ngài được dâng cao và tỏa rộng thêm mãi.

Ðức Gioan XXIII cũng đã từng khai triển tư tưởng này, như đọc thấy chẳng hạn, ở trong thông điệp Thủ Lãnh Các Mục Tử (Princeps pastorum, 28.11.1959), bàn Về tác vụ truyền giáo, các giáo sĩ địa phương, và việc hợp tác của giáo dân. Ngài viết: Thời đại chúng ta đòi hỏi cần phải cố gắng không những như xưa, mà còn nhiều hơn nữa (trong việc giáo dân dấn thân hoạt động cho các công tác tông đồ), bởi lẽ nhu cầu ngày càng lớn càng nhiều, nhu cầu ứng đáp cho lòng mong ước của đông đảo con người hiện đang khao khát lương thực thiêng liêng của giáo lý chân thật... Cũng là điều thiết yếu, việc hết mọi thành viên trong Giáo Hội đều cùng nắm tay hợp tác để thực hiện công cuộc cứu độ của Giáo Hội. [5]

Hầu như bao giờ các văn kiện này cũng quan niệm hoạt động của giáo dân như chỉ là một yếu tố phụ thuộc; giáo dân được phép hợp tác với giáo phẩm trong công việc tông đồ của giáo phẩm; họ có thể bổ túc cho những thiếu hụt của giáo sĩ, nhưng thật ra không cần thiết.

Công đồng Vaticanô II đã đổi hẳn cách quan niệm, và hơn nữa đã đổi luôn cả mô biểu quy chiếu của Giáo Hội học. Suy tư dựa theo thực trạng biện chứng giữa mầu nhiệm và dân Thiên Chúa, công đồng đã nhận ra ngay là cần phải đổi mới Giáo Hội. Các nghị phụ đã thấy là phải không ngừng thanh luyện (x. GH 8) và cải cách Giáo Hội (x. HN 6). Ít khi công đồng dùng đến từ reformatio (cải cách), nhưng lại dùng rất nhiều đến từ reno­va­tio (đổi mới, canh tân) để nhấn mạnh đến tính chất liên tục trong Hội thánh. Mục đích của việc đổi mới là để làm cho mình trở thành ngày càng hữu hiệu hơn đối với ơn gọi của mình (x. HN 6), tức là để chu toàn hoàn hảo hơn sứ mệnh tại thế gian của mình. Ðiều đó giả thiết một nỗ lực căn bản và trường kỳ nơi mọi tín hữu (từ giáo hoàng cho tới người tân tòng cuối cùng), nỗ lực thống hối và cải thiện nội tâm, cũng nỗ lực cải tiến các hình thức sống đạo cá nhân, cách tổ chức và quản trị cộng đoàn, cách thể thi hành sứ vụ, v.v. Còn về những phương tiện thì chính sắc lệnh về Ðại kết cũng đã đề ra một số chỉ dẫn: Giáo Hội thực hiện cuộc canh tân ấy bằng nhiều hình thức khác nhau trong đời sống Giáo Hội, như phong trào Kinh Thánh và phụng vụ, việc rao giảng Lời Chúa và giáo lý, hoạt động tông đồ giáo dân, những hình thức mới trong đời tu trì, nền linh đạo hôn nhân, học thuyết và hoạt động xã hội của Giáo Hội (x. HN 6b). Ðáng chú ý là việc tông đồ của giáo dân được đặc biệt nêu bật. Và hơn nữa, công đồng Vaticanô II là công đồng đầu tiên đã công bố một sắc lệnh về giáo dân, Sắc lệnh về Hoạt Ðộng Tông Ðồ giáo Dân! [6]

Làm thế nào để thay đổi mô biểu của Giáo Hội học? Khi ủy ban chuẩn bị công đồng đề nghị lược đồ về Giáo Hội, thì đa số nghị phụ đã từ chối không nhận và yêu cầu một nhóm thần học gia nổi tiếng soạn thảo một lược đồ khác. Sau nhiều buổi thảo luận gay go và nhiều lần bỏ phiếu, công đồng đã đạt được một kết quả bất ngờ, tựa như theo lối biểu đạt của cha D.-M. Chenu, O.P. một cuộc cách mạng Copernic trong Giáo Hội học: ngày trước, Giáo Hội được quan niệm chủ yếu như là một xã hội đặt dưới quyền thống trị của hàng giáo phẩm, và làm như tâm điểm của Giáo Hội tập trung cả vào nơi quyền bính của hàng giáo phẩm; [7] còn công đồng thì lại đặt tâm điểm nơi chính Thiên Chúa (mầu nhiệm), và cộng đồng tín hữu là dân Thiên Chúa. Trong cộng đồng Giáo Hội, mọi thành viên đều có phẩm giá ngang nhau, dù chức năng có khác nhau. Nguồn gốc chung của mọi thừa tác vụ là phép Thánh Tẩy, rồi các bí tích khác thì làm phát sinh nhiều thừa tác vụ khác nhau; vì thế, trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, chương 3 bàn về cơ cấu phẩm trật và chương 4 về giáo dân, nói cách khác: trước tiên bàn về nhiệm vụ chung, rồi sau đó mới đến các đặc tính của từng phần. Hơn nữa, sử liệu công đồng cũng cho thấy rằng tính chất chung này, đặc biệt là ơn gọi chung tiên tri, tư tế và vương giả là nguyên tắc chú giải (herme­neutical principle) áp dụng cho toàn bộ Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, tức cho nền Giáo Hội học của Vaticanô II. Hiến chế được chấp nhận ngày 21.11.1964, với 2151 phiếu thuận và 5 phiếu phủ quyết. Cho đến Vaticanô II, không một công đồng nào đã bàn luận như thế về giáo dân.

Như vậy, Dân Thiên Chúa (toàn thể tín hữu không phân biệt trật bậc) là nền tảng của Hội thánh cả về phương diện xã hội lẫn về phương diện bí tích. Giáo dân và giáo sĩ quả là khác nhau, song không phải như bề trên với bề dưới: hai bên đều chia sẻ cùng một ơn gọi nên thánh và cùng một sứ mệnh chung là xây dựng Nước Trời. Phải nói là ơn gọi chung này phức tạp và bao gồm nhiều ơn gọi riêng, cùng những đặc sủng tập thể cũng như cá nhân, thông thường thì được ban qua các bí tích khác nhau.

Vậy, nguồn suối của sức đổi mới trong Giáo Hội là missio Dei, tức sứ mệnh Thiên Chúa trao phó (qua sự việc Chúa Cha sai phái Chúa Con, và Chúa Con sai phái Giáo Hội); và mục đích của sứ mệnh ấy là làm chứng cho Thiên Chúa và triển dương vương quyền tại thế của Người. Sứ mệnh là lý do hiện hữu (raison dêtre) của Giáo Hội: thiết lập Giáo Hội là Ðức Kitô có ý tạo nên một phương thế làm khí cụ của việc kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, và của mối hiệp nhất giữa toàn thể nhân loại (GH 1); nói cách khác: Giáo Hội là để cho thế gian, chứ không phải ngược lại, và Dân Chúa (mà đa số là giáo dân) là phương thế để đạt tới mục đích ấy; căn tính của Giáo Hội cốt tại ở sứ vụ này, và giáo dân càng dấn thân cho sứ vụ thì Giáo Hội càng thành tựu chính mình, càng lớn lên, v.v. Giáo Hội sẽ đổi mới hay không và đến mức độ nào, thì đó là tùy vào mức độ dấn thân của toàn thể Dân Chúa cho sứ vụ làm chứng về Ðức Kitô và phục vụ muôn loài. Việc gặp gỡ với xã hội, văn hóa, tôn giáo, v.v. phải diễn ra trong khuôn khổ và với tinh thần của sứ mệnh. [8]

Vaticanô II đã đặc biệt bàn về giáo dân trong chương 4, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, và trong Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân. Tất cả những gì nói về Dân Thiên Chúa thì đều liên quan đồng đều đến cả giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ (GH 30) để mọi người cùng góp phần vào công cuộc chung tùy theo cách thế của mình. Theo công đồng, cứu cánh của Dân thiên sai là phát triển thêm mãi Nước Thiên Chúa và không ngừng tự đổi mới dưới tác động của Chúa Thánh Thần (GH 9). Tất cả mọi thành viên đều tham dự vào chức tư tế cộng đồng (x. GH 10-11) và hưởng nhận những đoàn sủng khác nhau khiến họ có đủ khả năng và sẵn sàng đảm nhận những công tác và nhiệm vụ khác nhau, hữu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo Hội (GH 12). Vì thế, làm việc tông đồ là giáo dân thông phần vào chính sứ mệnh cứu độ của Giáo Hội. Qua việc lãnh nhận bí tích Rửa tội và Thêm sức, hết thảy mọi tín hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ (GH 33b). Ðã được làm anh em của Ðức Kitô cũng như của hàng giáo phẩm và giáo sĩ (x. GH 32d), tất giáo dân có nhiệm vụ cao cả là làm cho quyết định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan rộng tới tất cả mọi người ở mọi nơi, trong mọi thời đại (GH 33c). Cuối cùng, chương 4 kết thúc với lời trích dẫn thư gửi Diognetus (thế kỷ 20): Người kitô làm cho thế giới sống hệt như linh hồn làm cho thân xác sống vậy (GH 38).

Tiếp theo sau đó, Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân đã bắt đầu với lời xác định nói rằng: các kitô hữu giáo dân giữ một phần cá biệt và thiết yếu trong sứ mệnh của Giáo Hội (TÐ 1), rồi khai triển nội dung của nhiệm vụ này, và sau cùng kết thúc với lời kêu gọi: Nhân Danh Chúa, thánh công đồng tận lực kêu mời tất cả các giáo dân hãy quảng đại, mau mắn đáp lại tiếng của Chúa Kitô hiện đang khẩn khoản mời gọi, cũng như hưởng ứng đà thúc đẩy của Chúa Thánh Thần (TÐ 33). Công đồng đã nhắc đi nhắc lại lời kêu mời này trong nhiều văn kiện; chẳng hạn, Hiến chế Mục vụ đã lên tiếng phàn nàn rằng: Tình trạng ly gián giữa đức tin các kitô hữu tuyên xưng và cuộc sống thường nhật của nhiều người, là một trong số những sai lầm trầm trọng nhất của thời đại chúng ta, và đồng thời khẳng định như sau: Giữ những phận vụ sinh động cần được thi hành trong đời sống Giáo Hội toàn thể, không những người giáo dân có sứ mạng đưa tinh thần kitô giáo thấm đượm vào trong thế giới, mà còn được kêu gọi để làm chứng cho Ðức Kitô trong mọi hoàn cảnh, ngay giữa lòng cộng đoàn nhân loại (MV 43ad).

Qua những lời lẽ như thế, rõ ràng là Giáo Hội muốn gióng lên lời mời tha thiết kêu gọi giáo dân hăng say, quảng đại cùng tận lực dấn thân cho sứ mệnh kitô, và hy vọng nhiều người sẽ đáp ứng tích cực.

Ðức Phaolô VI đã đổi mới hệ thống thừa tác vụ không-bí tích trong Giáo Hội (Ministeria Quaedam, 15.8.1972). Chức Cắt tóc và chức Phụ phó tế không còn; các chức Ðọc sách và Giúp lễ thì đã trở thành những Thừa tác vụ mở rộng cho cả giáo dân.

Bộ Giáo luật mới liệt kê nhiều nhiệm vụ giáo dân có thể đảm trách và thi hành: không chỉ các tác vụ giúp lễ và đọc sách trong phụng vụ (đ 230), mà còn cả tác vụ giảng Lời Chúa (trừ bài giảng sau Phúc âm, đ 776; 762.1). Giáo dân có thể dạy thần học với danh nghĩa chính thức (đ 229.3), và đến một mức nào đó, đảm nhiệm cả những phận vụ chưởng ấn (đ 483.2), lục sự (đ 483.2) và biện lý trong giáo phận (đ 494); có thể làm thẩm phán trong một tòa án tập đoàn (đ 1431.2), cố vấn thẩm phán (đ 1424), chưởng lý và bảo hệ viên (đ 1435); có thể làm kiểm toán viên (đ 1428.2) cũng như thụ ủy (đ 1483). Trong giáo phận, giáo dân có thể làm thành viên của hội đồng kinh tế (đ 492.3) và hội đồng mục vụ (đ 512.1); còn trong họ đạo thì giáo dân có thể phối trí những công tác tông đồ dưới quyền chỉ đạo của cha xứ, và nếu không có linh mục, giáo dân có thể đảm trách việc trông coi họ đạo (đ 517.2). Giáo dân có thể làm thừa sai (đ 784), làm thừa tác viên ngoại thường của Phép Rửa (đ 861.2), phân phát (đ 910.2) và đặt Mình Thánh Chúa (đ 943); giáo dân cũng có thể cử hành phụng vụ hôn phối (đ 1112), phụng vụ an táng và nhiều á bí tích khác (đ 1168). Khuôn mẫu pháp lý đã sẵn có, chỉ cần có ứng viên có đủ khả năng và điều kiện vào các chức vụ ấy.

Trong những thập kỷ gần đây, Tòa Thánh cũng đã đề xuất một số văn kiện về giáo dân. Trong Tông huấn về việc dạy giáo lý Catechesi tradendae (16.10.1979), Ðức Gioan Phao­lô II đã nêu bật vai trò của các giáo lý viên giáo dân (số 66). Ðặc biệt, Tông huấn Christifideles laici (30.12.1988), thành quả của Thượng hội đồng giám mục năm 1987, đã được coi là hiến chương của giáo dân. Tình trạng của giáo dân trong Giáo Hội có thể được ví như những người đứng đường rỗi rãi vì không ai mướn, trong khi có nhiều việc phải làm cho vườn nho; giờ đây, gia chủ (Ðức Kitô và Giáo Hội) bảo họ: Cả các anh nữa, hãy đi vào làm vườn nho cho tôi! (Mt 20:3-7). Cả một thế hệ sau Vaticanô II, các giám mục mới đấm ngực thú tội là đã không dùng hoặc không dùng cho đúng mức tài năng và đặc sủng của giáo dân. Bước vào thiên kỷ thứ ba này, trong Giáo Hội, không ai có thể ở rỗi rãi mà không ra tay làm việc được cả. Ðức Giáo hoàng đã nhắc lại lời của Ðức Piô XII nói rằng giáo dân không chỉ thuộc về Giáo Hội, mà chính là Giáo Hội! Thế nên, họ tham dự vào thừa tác vụ tính (ministeria­lity) của Nhiệm thể Ðức Kitô, nghĩa là chia sẻ bản chất tư tế, tiên tri và vương giả của Ðầu là Ðức Kitô, trong chiều kích làm men muối và ánh sáng giữa trần thế, như Vaticanô II đã dạy. Ðể chu toàn sứ mệnh, trước hết giáo dân phải thực sự nên thánh theo ơn gọi và thể cách riêng của mình, phải biết sống hiệp thông với Hội thánh toàn thể và áp dụng những ân huệ của Thánh Thần để phục vụ mọi người. Từ các ân huệ ấy xuất phát các nhiệm vụ, các thừa tác vụ và vai trò khác nhau trong Giáo Hội, lãnh nhận qua các bí tích; do đó, mọi người đều được mời gọi đảm nhận phần trách vụ trong sứ mệnh của Giáo Hội, cả đến trách nhiệm mục vụ trong giáo xứ (Cateche­­si trad. 25-26), cùng tác vụ công bố Tin mừng cho lương dân (x. số 33, 35). Ðức Gioan Phaolô II quả quyết: đã đến giờ phải tiến hành công cuộc tân phúc âm hóa, và nếu đã thông dự trọn vẹn vào trong sứ mệnh tiên tri của Ðức Kitô, tất giáo dân cũng có bổn phận thông dự hoàn toàn vào trong sứ vụ của Giáo Hội (số 34). Chắc hẳn giáo dân cần phải được đào tạo chu đáo hơn cả về mặt giáo lý đức tin lẫn về mặt kỹ năng và đối với công tác đào luyện này, giáo sĩ có một bổn phận đặc biệt Cuối cùng ngài kết thúc: Tôi tha thiết kêu gọi hết thảy mọi giáo hữu, mục tử cũng như giáo dân, hãy mãi mãi kiên trì giữ gìn cho sống động cảm thức về Giáo Hội, luôn luôn ý thức mình là thành phần của Hội thánh Chúa Giêsu Kitô, được thông dự vào mầu nhiệm hiệp thông của Giáo Hội, vào sức năng động của sứ mệnh tông đồ Giáo Hội đảm nhận (số 64).

Các tài liệu khác cũng đều đi theo cùng một đường hướng và đều gióng lên cùng một lời mời gọi. Quả vậy, càng ý thức về những nhu cầu của Giáo Hội, thì Tòa thánh càng mạnh mẽ kêu gọi giáo dân góp phần vào sứ mệnh chung.

Giáo Hội Châu Á

Ngay từ đầu, Giáo Hội Châu Á đã nhìn nhận vai trò trọng yếu của giáo dân, đặc biệt là ở một vài Giáo Hội địa phương như Ðại Hàn và Việt Nam; ở nhưng nơi này, các giáo lý viên đã có một phần đóng góp lớn lao và đặc thù. Từ khi các giám mục Châu Á nhóm họp lần đầu (1970) với việc thành lập FABC (Liên hiệp các Hội đồng Giám mục Châu Á) hàng giáo phẩm đã ý thức về việc giáo dân phải đóng một vai trò đặc thù tại lục địa nhà. Thế nên, một cuộc hội thảo đã được tổ chức tại Hongkong (1977) với chủ đề các thừa tác vụ trong Giáo Hội. [9] Ðể chuẩn bị Ðại hội thứ ba (1982), hai tài liệu về cương vị của giáo dân đã được gửi đến trước cho các thành phần tham dự. [10] Trong số các ủy ban đặc nhiệm của FABC thì có BILA chuyên trách về công tác tông đồ giáo dân (Bi­shops Institute for Lay Apostolate); ủy ban này đã nhóm họp lần đầu hồi năm 1985 với chủ đề: Trusting, Entrusting the Laity (Tin tưởng và ủy nhiệm cho giáo dân). Năm sau, Ðại hội thứ tư của FABC (Tokyo 16-25 tháng 9, 1986) đã bàn riêng về vai trò của giáo dân trong Giáo Hội. Các giám mục xác nhận là giáo dân đã và đang góp phần to lớn cho đời sống đức tin của Dân Chúa (x. số 2.4), cũng như nêu lên những lãnh vực trong đó họ phải đóng giữ một vai đặc biệt, như: gia đình, giáo dục, phương tiện truyền thông đại chúng, lao động, nghề nghiệp, y tế, nữ giới, v.v. Các giám mục quyết định đổi mới các cơ cấu của Giáo Hội để cổ võ niềm hiệp thông theo tinh thần tập thể và đồng trách nhiệm (4.5). Các ngài đã kết luận rằng: muốn cho Giáo Hội Châu Á cường thịnh hơn, thì phải có một giới giáo dân năng động hơn, và điều này đòi hỏi cần phải đào tạo cho tốt hơn cả giáo dân lẫn giáo sĩ để mọi phía biết chung sức tương tác. Và như vậy, chúng tôi hy vong kết quả sẽ là việc phối hợp sâu xa hơn giữa thừa tác vụ của linh mục và tác vụ phục vụ của giáo dân, ngõ hầu công tác phụng sự Giáo Hội và các dân tộc Châu Á tiến hành tốt đẹp hơn (4.8.11).

Trong tất cả các văn kiện đại hội, các giám mục đều lưu tâm đến vai trò của giáo dân. FABC 5 (Bandung, 17-27 tháng 7, 1990) nói rõ rằng: Giáo dân phải đảm trách đặc nhiệm canh tân xã hội Châu Á, làm cho ăn khớp với những giá trị của Phúc Âm. Họ là thừa sai số một trong lãnh vực văn hóa và trong toàn bộ cơ cấu đời sống xã hội (5.1). Ðại hội FABC năm 2000 tại Thái lan, đã nhắc lại một tư tưởng thường xuất hiện trong các văn kiện thần học Châu Á: Chúng ta phải phát huy những cơ cấu tham gia (participative) trong Giáo Hội, ngõ hầu các tài năng và chuyên môn của giáo dân nam nữ có cơ hội được xử dụng đến. Ðược Thánh Thần ban sức năng và nhờ các bí tích cũng cố, giáo dân phải quyết tâm dấn thân vào trong cuộc sống và sứ mệnh của Giáo Hội, đem Tin mừng của Ðức Giêsu áp dụng vào các lãnh vực nghề nghiệp: chính trị, giáo dục, y tế, phương tiện truyền thông và lao động. Muốn được như vậy, thì cần phải sống linh đạo làm môn đồ, để nhờ đó, cả giáo sĩ lẫn giáo dân biết chung sức làm việc với nhau, giữ những vai trò đặc thù của mình, trong sứ mệnh chung của Giáo Hội. Văn kiện này đề xuất một sáng kiến đáng chú ý: để đạt mục tiêu ấy Trong việc huấn luyện các linh mục và tu sĩ tương lai, cũng như trong chương trình huấn luyện liên tục, cần phải làm sao để việc hợp tác của những giáo dân có khả năng vào trong kế hoạch huấn luyện được bảo đảm, ngõ hầu công cuộc đào tạo thực sự hướng tới việc hình thành một Giáo Hội tham gia.

Riêng tại Việt Nam, ngày từ buổi đầu đón nhận đức tin, giáo dân đã đóng giữ một vai rất đáng ghi nhớ: các thầy giáo và thường dân đã viết lên những trang vẻ vang trong lịch sử Hội thánh. Thư chung của các Giám mục viết năm 1953 ghi nhận rằng: Việc tông đồ giáo dân là việc khẩn cấp cần thiết và ở đây chúng tôi vẫn có ý khuyếch trương việc đó dưới mọi hình thức hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Dù bối cảnh đã thay đổi nhiều, thì năm 2001, các Giám mục Việt nam cũng nói rõ: Chúng tôi ghi nhận sự hợp tác của anh chị em giáo dân. Nhờ được củng cố và đào sâu đức tin qua việc học hỏi và sống Lời Chúa cũng như nỗ lực canh tân đời sống, anh chị em đã quảng đại chia sẻ vật chất và tinh thần cho các điểm truyền giáo cũng như có mặt trong mọi lĩnh vực mà xã hội cho phép.

Bây giờ không ai có thể làm ngơ đối với việc tông đồ giáo dân và vai trò của họ trong Giáo Hội. Ðành là phải thay đổi một số cơ cấu, như hồng y Ratzinger đã nhận định: Những thể chế và tổ chức pháp luật của Giáo Hội đã trở thành lỗi thời. Nguy hiểm là ở chỗ coi chúng như là bản chất của Giáo Hội, đến nỗi chúng ta không còn nhận ra được đâu là điều thật sự chính yếu. Vì thế, cần phải tháo bỏ chúng đi, tựa như giàn giáo không còn cần đến nữa. Bao giờ việc cải cách cũng giả thiết hành động ablatio, cắt bỏ, ngõ hầu nobilis forma, dạng thể thanh cao, của Hiền Thê xuất hiện, và đồng thời quý tướng của Tân Lang, của chính Chúa, tỏ lộ. [11] Một số Giáo Hội đã bắt đầu tiến bước trên con đường này; còn phần đông thì tuy có bàn đến, nhưng trong thực tế cũng vẫn như cũ.

 

Chú thích:

[1] Về tác giả xin xem Lời Nói Ðầu, Hợp Tuyển Thần Học, các số 18&19 (1997), 18-22 (1997-1998) và 31 (2001).

[2] Thông điệp Vehementer, 11.2.1906.

[3] Về lời phát biểu của một giám mục Úc, xin xem John Heaps, A Love That Da­res to Question, A Bishop Challenges His Church, Grand Rapids: Eerdmans 2002.

[4] AAS 43 (1951) 513. Xin xem Jean-Loup Ducasse, et al, Chrétiens dans le monde rural. LAC-MFR-CMR, 1939-1989: 50 ans d'histoire, Éditions ouvrières, 1989.

[5] AAS, 1959, tr. 849.

[6] Về lịch sử Vaticanô II nói chung, xin xem Giuseppe Alberigo, Joseph A. Komonchak (Eds.), History of Vatican II, Vol 1-4, Orbis Books 1996-1999; Collectif, Histoire du concile Vatican II, 3 vols., Cerf 1997.

[7] Vatican II: The Faithful Revolution, Thomas More Publishing, 1998.

[8] Wilbert R. Shenk, Mission, Renewal, and the Future of the Church, International Bulletin of Missionary Research 21 (1997): 154-159.

[9] Asian Colloquium on Ministries, FABC Paper n. 3.

[10] Is the Laity the marginalized majority in the Church? (FABC paper 33f) và Laity in the Church of Asia (Paper 33k).

[11] Joseph Ratzinger, Called to Communion. Understanding the Church Today, San Francisco: Ignatius Press 1996, tr. 142.

 

 

 


Giáo Dân Trong LỊch SỬ

 

Felipe Gómez Ngô Minh

 

Lịch sử là ông thầy sống động: cần phải nhìn vào quá khứ để hiểu rõ hiện tại hơn cũng như để chuẩn bị chính xác hơn cho tương lai. [1] Có lẽ nên nhắc lại một điều dễ quên là Ðức Giêsu, Ðức Maria, thánh Giuse đều là “giáo dân” trong Do thái giáo là tôn giáo của các ngài. Từ đầu cho đến ngày nay và mãi cho đến tận thế, giáo dân là thành phần chiếm đại đa số trong Giáo Hội. Sau ngày Hiện xuống, nhóm môn đồ của Ðức Giêsu đã ý thức mình là Dân mới của Thiên Chúa (x. Rm 9:25-26; 1Pr 2:9-10, v.v.), “theo một đạo” đặc thù (x. Cv 9:2; 19:9.23; 22:4 v.v.); [2] vì thế, những người theo “đạo” này làm thành một “dân.” Trong công đồng đầu tiên, thánh Phêrô gọi các kitô hữu – cả gốc Do thái lẫn gốc lương dân – là một laós, “dân” của Chúa (x. Cv 15:14). Lạ thay, mãi cho đến Vaticanô II, giữa thế kỷ 20, mới thấy khái niệm về “dân” như vừa nói, xuất hiện trở lại trong một công đồng chung!

Thế hệ kitô đầu tiên thể hiện đặc tính “dân Chúa” trên đây bằng nhiều cách, đặc biệt là qua các sự việc ngồi chung cùng một bàn (Lễ Tạ Ơn), chia sẻ tài sản, yêu thương nhau “không phân biệt Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà” (Gl 3:28). Thừa kế các đặc ân của Ítraen, Giáo Hội ý thức mình là “hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người” (1Pr 2:9), tức một dân có một sứ mệnh làm chứng cho “dân ngoại” về Ðấng Phục sinh, như Ðức Giêsu đã truyền bảo (x. Cv 1:8), hoặc như thánh Phêrô đã khuyên là hãy “sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3:15). Chính nhờ giáo dân đã triệt để thi hành nhiệm vụ làm chứng trong những thế kỷ đầu, mà kitô giáo đã có thể tỏa lan rộng ra trong khắp thế giới. [3]

Trong Giáo Hội thời ban đầu, các tín hữu sống đạo trong những cộng đoàn nhỏ – không có cơ cấu hữu hình rõ ràng, một phần là để tránh các vụ bắt bớ – rất gắn bó với nhau nhờ tình tương thân tương trợ, mỗi người đảm trách nhiệm vụ đối với cuộc sống đức tin và sinh hoạt Giáo Hội, những nhiệm vụ khác nhau về cả đối nội lẫn đối ngoại, đồng thời rất mềm dẻo, dễ ứng đáp những nhu cầu bất ngờ, dễ thích nghi với những hoàn cảnh cụ thể, vừa để sống đạo vừa để truyền giáo. Trong thời đầu, Dân Chúa chưa biết đến việc chia thành hai “giai cấp,” giáo sĩ và giáo dân, với những lãnh vực hoạt động rõ ràng và khác nhau. Hẳn là trong mỗi cộng đoàn đều đã có những thủ lãnh (Dân Thiên Chúa đâu phải là một xã hội vô trật tự) và những thừa tác vụ khác nhau; nhưng đa số các phận vụ không cần đến “nghi thức đặt tay” (tức bí tích truyền chức thánh). Trong cộng đoàn, thường có nhiệm vụ từ thiện, chẳng hạn như lo cho cô nhi quả phụ, thăm viếng tù nhân, tiếp đón khách qua đường, v.v., do các phó tế và giáo dân phụ trách. Trong sinh hoạt phụng vụ cộng đoàn (thường tổ chức tại nhà riêng hoặc với nhóm nhỏ: chưa có nhà thờ), thì có nhiều tác vụ tùy đoàn sủng của các cá nhân; chủ tọa là nhiệm vụ của giám mục hoặc niên trưởng; còn các ‘tiên tri’ thì loan báo lời Chúa; và tùy khả năng của mình, mọi thành viên đều tích cực góp phần vào cuộc sống chung.

Khi Giáo Hội phát triển rộng lớn và số giáo hữu trong các cộng đoàn tăng lên, thì phải cần đến những cơ cấu tổ chức có tính cách xã hội, với những chức vụ được xác định rõ ràng dựa theo khuôn mẫu cơ cấu của xã hội loài người (đó là một hình thức “hội nhập văn hóa” như đang được đẩy mạnh hiện nay). Các thể thức hành chánh trở thành phức tạp hơn và đòi hỏi phải có những “chuyên viên” đã được huấn luyện trước; phụng vụ triển khai nhiều nghi thức phong phú hơn với những nhiệm vụ được định hình. Các “sách lễ” xuất hiện nhằm đảm bảo cho phẩm chất được cao. Các sách thì rất quý báu, được trình bày công phu và thẩm mỹ, nhưng ít người biết đọc.

Vai trò của giáo dân trong những thế kỷ đầu không cho thấy có gì rõ ràng, vì thiếu tài liệu. Hơn nữa, thuật ngữ dùng để chỉ các thừa tác vụ chưa nhất định; vì thế những từ đọc thấy trong các tài liệu thường mang nhiều nghĩa không hoàn toàn giống nhau, không dễ để giải thích. Có thể nghĩ rằng lúc đầu, tình trạng còn lộn xộn, mò mẫm đi tìm cách thức tổ chức cộng đoàn, mỗi nơi một khác tùy nhu cầu địa phương; điển hình là trường hợp sau đây đối với Kinh Thánh: có nơi nhận Thư của Bar­naba hoặc Pastor Hermae (thế kỷ 2) là “kinh thánh” nhưng lại không nhận sách Khải huyền và cả Phúc âm thứ tư! Dường như có khi vai trò chủ tọa Lễ Tạ Ơn cũng được trao cho một “tiên tri” (có được “đặt tay” hay không?), hoặc một vị “tử đạo” (một chứng nhân bị tra tấn nhưng hãy còn sống), và có lẽ cả cho một giáo dân ở những nơi không có linh mục (như các tín hữu đầu tiên ở Ðại hàn, nhưng vì họ chưa hiểu Lễ Misa là gì), cho đến khi các chức vụ được xác định rõ ràng. Giáo dân cộng tác đắc lực vào các việc truyền giáo, đào tạo các dự tòng và tân tòng, các công tác từ thiện và việc hành chính. Một trong những giáo dân nổi tiếng bậc nhất thời ấy là thánh Giuxtinô tử đạo († 163), người đã viết sách biện giáo, hoặc Minutius Felix (quyển Octavius n. 200), hay Clêmentê Alêxandria († 215), người sáng lập trường giáo lý (ngày nay chúng ta sẽ gọi là trường thần học) và là thầy dạy của Ôrigênê († 253), v.v. Bị liên tục bách hại trong ba thế kỷ đầu, Giáo Hội đã phải hoạt động kín đáo, âm thầm, không mấy để tâm đến cơ cấu tổ chức, và hết thảy mọi thành viên đều ý thức về trách nhiệm đối với sự sống còn và hoạt động của cộng đoàn.

giáo dân – giáo sĩ

Hiện nay, các sử gia có khuynh hướng trình tả Giáo Hội sơ khai như là một “xã hội dân chủ” trong đó mọi người đều ngang nhau. Ðó là một thứ hình ảnh vừa lãng mạn lại vừa ảo tưởng. Lúc các tông đồ còn sống thì chính các ngài chủ tọa và hướng dẫn cộng đoàn. Các ngài đã bổ nhiệm các lãnh tụ cộng đoàn ở khắp nơi, và sau các ngài đã có những người kế vị. [4] Ðầu thế kỷ 2, các Giáo Hội địa phương đều có giám mục đứng đầu cùng với đoàn niên trưởng và phó tế. Cách đề cử và thay thế có lẽ khác nhau, nhưng cơ cấu ấy đã trở thành phổ quát ở khắp nơi trong thế giới vào thế kỷ 3, tức trước khi chính lục Kinh Thánh được mọi nơi chấp nhận.

Thời ấy cũng là lúc bắt đầu xuất hiện sự phân biệt giữa hai thuật ngữ Hylạp: laikós và kléros, tạm dịch là “giáo dân” và “giáo sĩ.” Laikós (tiếng Latinh: laicus, tiếng Anh: lay, tiếng Pháp: laique…) có gốc là laós tức “dân.” Kinh Thánh đề cập nhiều đến laós theoũ (dân Thiên Chúa) mà ngay từ đầu Kitô giáo đã hiểu theo ý nghĩa chỉ về Giáo Hội: nếu Giáo Hội là dân Thiên Chúa thì hết thảy thành viên là “giáo dân.” Còn từ laikós thì có ý nghĩa tương tự như “bình dân” và chỉ về “dân chúng” mà đại đa số là mù chữ. Thư của Clêmentê số 40 (lối năm 96) dùng từ này để phân biệt các thượng tế, các tư tế Lêvi với giới laikós” trong Do thái giáo. Sau này từ laikós thường mang ý nghĩa chỉ về những người mù chữ bất tài, như thấy được ở trong các tác phẩm của Ôrigênê [5] hoặc Clêmentê Alêxanđria. [6] Còn từ kléros (clergy, clergé) thì dù vốn có nghĩa là “phần được chọn” (Cv 1:17), phần “bắt thăm” được (Mt 27:35; Mc 15:24; Cv 1:26), “phần gia nghiệp” (Cv 26:18; Cl 1:12; 1 Pr 5:12), cũng vẫn có thể áp dụng cho tất cả các ki­tô hữu hoặc cho những ai được chọn để giữ một phận sự đặc biệt như Mátthia. Dần dần các giáo hữu được chọn vào một phận sự đặc thù thì được gọi là kléros,” và khi việc chọn hoặc bổ nhiệm này diễn ra qua một nghi thức, thì cộng đoàn hát lên Thánh vịnh 15, câu 5: “Chúa là phần gia nghiệp (kleronomías) của con...” (x. Tv 72:26). Từ đó ý niệm này đã trở thành trọng tâm trong linh đạo giáo sĩ. Tiếng Latinh dùng từ laicus tương tự như trong tiếng Hylạp. Thế mà trong bản dịch Kinh Thánh Vulgata, thánh Hiêrônimô dùng từ pa­nis laicus, “bánh thường” để phân biệt với bánh thánh dành riêng cho các tư tế trong đền thờ (x. 1Sm 21:5).

Dù sao, cách dùng từ không phải là điều hệ trọng; ý nghĩa của sự việc mới thực sự là điều quan trọng. Một khi đã phát triển, tất Hội thánh phải cần đến tổ chức, cơ cấu; và một cách “tự nhiên,” nhờ Thánh Thần, từ hạt giống tông đồ đã mọc lên các thừa tác vụ là giám mục, niên trưởng, phó tế, v.v. Tổng thể giáo hữu phân làm hai hạng: những ai giữ phận sự chung và những ai giữ phận sự đặc thù, tức giáo dân và giáo sĩ. Hồi thế kỷ 4, xuất hiện một loại thành phần khác là đan sĩ: họ tự coi mình như thuộc hàng giáo dân. Thời Trung cổ, hàng đan sĩ Tây phương đã bắt đầu sống đời sống phụng vụ cộng đoàn một cách nổi bật; do vậy, cộng đoàn cần có một số linh mục; sự kiện này đã khiến dư luận xếp họ vào hàng giáo sĩ. Vì thế, bộ sắc luật của Gratianus (chừng n. 1140) định nghĩa: “Kitô giáo có hai loại thành phần...” tức giáo dân và giáo sĩ, dù thật sự đại đa số các tu sĩ không phải là linh mục.

Như vậy, từ thời Trung cổ trở đi, giáo dân được coi như là hàng ứng đối hoặc với giáo sĩ, hoặc với tu sĩ, hay với cả hai. Ðáng lưu ý là Gratianus quan niệm giáo dân như là hạng thụ động, như là loại kitô hữu “yếu nhược” phải nhượng bộ cho họ được phép sử dụng tiền của, nhục dục, các thực tại phàm tục... Quan niệm này đã trở thành mạnh hơn sau cuộc cải cách hồi các thế kỷ 11 và 12, bởi cho rằng kitô hữu “đích thực” là người trở về với lý tưởng của Giáo Hội sơ khai (theo Cv 2:42; 4:32-35), được thể hiện qua lối sống của các dòng tu; và như thế Giáo Hội đã đi đến chỗ phân biệt hai loại giáo hữu – đệ nhất và đệ nhị, tức giáo sĩ và giáo dân – trong cùng một tổng thể hiệp nhất chặt chẽ. Trong thời thế kỷ 14-15, lối phân biệt này bắt đầu gây ra chia rẽ, đưa dần tới chủ nghĩa quốc gia tục hóa và những vụ ly khai Tin lành. Phong trào Cải cách Tin lành phủ nhận sự phân biệt trên đây, và nhân danh chức tư tế chung để chối bỏ chức tư tế riêng; vì thế công đồng Trentô và Giáo Hội sau này đã nhấn mạnh đến vai trò của phẩm trật và sự phân biệt giữa giáo dân và giáo sĩ cho đến nay, một sự phân biệt nằm ở trong mối hiệp thông của nhiệm thể Ðức Kitô.

Hiện nay, Giáo Hội thường nói về ba hàng ở trong cộng đồng giáo hữu: giáo dân, giáo sĩ và tu sĩ; điển hình là Vaticanô II: trong Hiến chế Tín lý về Giáo Hội, chương 3 bàn về giáo sĩ, chương 4 bàn về giáo dân, còn tu sĩ thì được bàn đến ở trong chương 6. Như thế, giáo dân và giáo sĩ khác nhau qua bí tích và chức vụ; còn giáo dân và tu sĩ thì khác nhau qua bậc sống.

 

Giáo dân tác động trong Hội thánh

Ðã là đa số trong dân Chúa, thì bao giờ giáo dân cũng có ảnh hưởng lớn trên đời sống của Giáo Hội. Rõ nhất là vai trò của các vua chúa công giáo ngày trước. Những thế kỷ đầu, các công đồng chung đều do hoàng đế triệu tập. Thời Trung cổ, trước cuộc cải cách Grêgôriô (thế kỷ 11-12), các vua chúa Châu Âu bổ nhiệm giáo sĩ vào các chức vụ của Giáo Hội tại các vùng thuộc lãnh địa của họ, và giữ vai trò tích cực trong các công đồng. Hẳn là ngày nay Giáo Hội không muốn trở lại với thói lệ ấy; tuy nhiên, đó cũng là điều có thể giúp cho các chính trị gia công giáo ý thức rõ hơn về khả năng họ nắm giữ trong tay để hoạt động cho Nước Chúa ở giũa thời đại này.

Vĩ nhân thì bao giờ cũng có ảnh hưởng trên xã hội, hoặc là về mặt chính trị hoặc là về mặt tôn giáo. Các nhà trí thức là thành phần đáng kể nhất. Trong những thế kỷ đầu Giáo Hội, đã có các nhà biện giáo nổi tiếng như Aristiđes, Giuxtinô, Athênagôras, Minucius Felix, Téctullianô... Thời đế quốc Bydănxiô, chính hoàng đế Giuxtinianô (527-565) đã viết sách thần học, cũng như nhiều giáo dân khác. Boetius († 524) ở Ý đại lợi, một triết gia và là chính khách, cũng đã viết nhiều tác phẩm tầm cỡ và gây được ảnh hưởng lớn. [7] Nghị sĩ Cassiôđôrô († 580) giã từ cuộc sống trần thế để đi sáng lập đan viện, nhưng vẫn tiếp tục viết nhiều sách có tầm hưởng lớn. Ở Âu châu, trong thời Trung cổ, khi đa số giáo dân đều mù chữ, bất lực, thì cũng đã có những cá nhân xuất sắc, chẳng hạn như Ðantê (1265-1321) là một thi sĩ đặc thù công giáo, tiếng tăm quốc tế.

Từ khi có Ðại học (thế kỷ 12-13), đa số thành phần giáo sư đều thuộc giới giáo dân, và là những người thường xuyên hoạt động trong các lãnh vực trực tiếp liên quan với đời sống Hội Thánh. Suốt nhiều thế kỷ, ở Âu châu, “khoa học” luôn luôn mang một chiều kích “thần học.” Khó mà kể ra hết được con số các vĩ nhân giáo dân công giáo. Dưới đây, xin lược kê chẳng hạn: Thomas More (†1535), Erasmus († 1536), B. Pascal († 1662), Joseph de Maistre († 1821), F. R. Chateaubriand († 1848), J. Donoso Cortés († 1853), De Lisle († 1878), L. Veuillot († 1883), M. Blondel († 1949), hoặc gần đây hơn, J. Maritain († 1973), E. Gilson († 1978), X. Zubiri († 1983), v.v. Những nhà trí thức công giáo này đã quyết dấn thân hoạt động trong lãnh vực tôn giáo.

Chúng tôi đã không liệt kê các phụ nữ thời xưa, vì đa số đều là tu sĩ: dẫu các ngài không phải là giáo sĩ nhưng dư luận cũng không xếp họ vào hàng giáo dân. Tuy nhiên, vẫn phải nhắc đến các bà vợ công giáo lùng danh trong lịch sử Giáo Hội, như nữ nô lệ Ninô – một khi trở thành vợ của vua nước Gêócgia, thì đã làm cho chồng (và cả nước) tin vào Ðức Kitô – hoặc thánh Mônica, mẹ thánh Âugutinô; hoặc Gidêla vợ của Thánh Stêphanô vua Hungari, v.v. Còn các nữ tu, thì ở đây, chỉ cần nhắc đến thánh Gertrude Cả, hai thánh Catarina Sienna và thánh Têrêsa Mẹ – cả hai đều là tiến sĩ Giáo Hội – v.v. Hoặc gần đây hơn, thì có thể nhắc đến Edith Stein, Mẹ Têrêsa Calcutta hay Chị Chiara Lubich chẳng hạn.

Trong lịch sử Giáo Hội, các giáo dân đã ghi đậm những nét hoạt động vàng soi hết sức nổi bật và đặc biệt trong lãnh vực dạy giáo lý cả cho trẻ con lẫn cho dự tòng, trong công tác rao giảng Tin Mừng, nhất là tại các lãnh địa truyền giáo, cũng như trong các công việc đạo đức.

Khi cần phải cải cách Giáo Hội đang bị sa sút (do lối sống tệ hại của hàng giáo sĩ), thì chính giáo dân đã mạnh mẽ ra tay hành động, như một thánh Phanxicô Assisi († 1226) hay một D. Êrasmô († 1536): các pho sách của ông này là những tác phẩm được đọc nhiều nhất hồi thế kỷ 16. Cùng với Thomas More (†1535) ở Anh, J. Luis Vives († 1540) ở Tây ban Nha, Casparo Contarini († 1542) ở Ý đại Lợi, Êrasmô đã cố tạo nên dư luận công giáo đưa tới việc triệu tập công đồng Trêntô, bắt đầu cuộc cải cách: cuộc cải cách của Giáo Hội đã bắt đầu trước Luther! Khi Ðức Phaolô III quyết định phải đổi mới Giáo Hội, ngài đã bổ nhiệm vào chức hồng y một số giáo dân nổi tiếng như Reginal Pole, người Anh – sau này sẽ chủ tọa khóa đầu tiên của công đồng (n. 1546) – M. Cervini – sau này sẽ trở thành giáo hoàng Marcello II († 1555) – A. Massarelli, thư ký của công đồng dù chưa phải là linh mục. Trong công đồng cũng còn có nhiều giáo dân, như bá tước L. Nogarola, là người thuyết giảng cho các giám mục.

Trong thời thế kỷ 17, đặc biệt là tại Pháp, các ‘nhóm mạn đàm’ (sa­lon) đã gây được ảnh hưởng lớn, như các nhóm mạn đàm họp tại nhà bà de Bérulle hoặc bà Acarie († 1618): là mẹ của 6 người con, bà này vẫn hăng say làm việc cho Giáo Hội với ảnh hưởng rất mạnh. Là sĩ quan có 5 con, là tác giả của cuốn sách viết về cách giáo dục con cái, được gọi là “linh hồn” của hội Thánh Thể, Ông Gaston de Renty († 1649) lo phụ trách việc linh hướng cho nhiều nữ tu viện và được coi là “cố vấn của các thánh.” Các vị này đều là bạn của thánh Phanxicô Salê, người đã tẩy xóa thành kiến thời trước, và cắt nghĩa cho thấy là các giáo dân có thể nên thánh trong đời sống hằng ngày trong đấng bậc giáo dân của họ. Trong xã hội thời ấy, đã có những giáo dân “thường” sống một cuộc sống đức tin rất sâu xa, những giáo hữu hăng say “đấu tranh” trong các hoạt động tông đồ, các bà cùng hợp tác làm việc bác ái với thánh Vinh Sơn Phaolô, và cả các bà quý phái như Mme [de] Sêvigné cũng sống một đời thấm nhuần sâu đậm tinh thần kitô.

Thế kỷ 18 là một thời tai biến cho Giáo Hội: giới trí thức bội giáo phá hoại đức tin, tấn công cơ cấu của Hội thánh; việc bắt ép giáo hoàng giải tán Dòng Tên là một dẫn chứng cụ thể; rồi phải kể đến việc cách mạng Pháp làm đảo lộn cả trật tự cổ truyền và bắt giam Ðức Piô VI (1775-1799). Giới trí thức rơi vào tình trạng tê liệt, không phản ứng; trái lại, giới bình dân đã phản ứng mạnh mẽ bằng cách nổi dậy, như cuộc nổi dậy ở Vendée (1793), hoặc cuộc “chiến của nông dân” ở Bỉ (năm 1798).

Thế kỷ 19 đã phải chứng kiến hiện tượng tục hóa ào ạt, cọng với thái độ chống đối Giáo Hội ra mặt từ phía các chế độ chính trị. Thần học chỉ còn hoạt động tương đối hữu hiệu tại một vài nơi, như ở Ðức hoặc ở Anh với Henry Newman; còn tại các nước khác thì đúng là thời trị vì của các loại sách giáo trình. Nhưng giáo dân thì lại rất sinh động. Joseph Goerres – người Ðức – đã xuất bản bộ sách bốn cuốn về thực tại thần nghiệm kitô trong các năm 1836-1842; W. G Ward –người Anh – đã viết về tự nhiên và ân sủng (n. 1860); Louis Veuillot – người Pháp – đã xuất bản cuốn sách viết về cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô (n. 1864).

Ðầu thế kỷ 19, ở Ðức quốc, có nhóm gọi là ‘Câu lạc bộ Muenster’ (Circle of Mušnster) – công chúa Amelia Gallitzin làm chủ tịch – đã nối liên lạc với nhiều phong trào và nhà trí thức, như Goethe; qua việc khảo luận Kinh Thánh và các Giáo phụ, nhóm đã tạo ra được bầu khí trí thức công giáo; người nổi tiếng nhất là J. Goerres; ông viết nhiều sách và kiên trì đấu tranh cho quyền tự do lương tâm; ông cũng là người đã nêu cao xác tín này là Giáo Hội cần phải sống trọn phổ quát tính, chứ không được đóng khung trong não trạng quốc gia cục bộ. Những giáo sĩ tham gia nhóm ấy là J. A. Moehler và I. von Doellinger.

Trong khi đó, ở Pháp, cũng thấy xuất hiện một số giáo dân đặc tài là R. Chateaubriand (1768-1848), J. de Maistre (1751-1821) và L. de Bonald (1754-1810). De Maistre đã minh bạch khẳng định vai trò tích cực của giáo dân ở trong Hội thánh, cho dù tư tưởng của ông có còn mang nặng quan niệm lỗi thời của quá khứ. Trong thế hệ tiếp theo sau thì đã có Ch. de Montalambert (1810-1870), F. Ozanam (1813-1853) và bà Swetchine – gốc Nga – là người thường tiếp đón tại nhà mình những nhân vật đặc sắc nhất của Paris. Cha Lacordaire O.P., đã viết như thế này về bà: “Các lời khuyên của bà đã giúp nâng đỡ tôi nhiều trong những lúc gặp cơ nguy mất can đảm và hứng khởi.” Nhờ sống thánh ở giữa thế gian, theo tư thế là một giáo dân, bà quả đã trở thành “mẹ linh hướng” cho nhiều tâm hồn.

Nước Bỉ đã sống qua một giai đoạn đặc biệt: giáo dân và giáo sĩ tán đồng về tình trạng biệt lập giữa Giáo Hội và Nhà nước; nhờ bầu khí ôn hòa ấy, đại học Louvain đã được hồi phục (n. 1835). Tại Pháp thì dư luận công giáo chia rẽ trầm trọng do việc đối chọi giữa các khuynh hướng “tự do” (libé­raux) và “bảo thủ quá khích” (ultramontains = “bên kia núi Alpes”), chủ trương giáo hoàng có quyền độc tôn, hoặc Tòa thánh Rôma có quyền can thiệp vào nội bộ Giáo Hội Pháp, tức nhằm chống lại một số đông giám mục vẫn còn nhuốm nặng chủ nghĩa Pháp giáo (Gallicanisme), bảo vệ quyền độc lập hoàn toàn của Giáo Hội Pháp. Thêm vào đó là “vấn đề Rôma,” tức sự việc nước Ý thống nhất đã tiếm quyền của giáo hoàng trên các lãnh thổ tòa thánh và trên cả thủ đô Rôma. Dư luận công giáo, nhất là giáo dân, đã phản ứng mạnh mẽ và can đảm.

Giữa thế kỷ 19, cuộc cách mạng 1848 tại Pháp, đã gây nhiều thay đổi sâu xa cho châu Âu. Tại Ðức quốc, hàng giáo phẩm đã được giải phóng khỏi ách chính trị và cùng năm ấy đã nhóm họp lần đầu tiên; cố vấn của các giám mục là một giáo dân, ông Moritz Lieber, và là người đã soạn bản tuyên ngôn của các giám mục gửi cho các tín hữu toàn quốc; rồi sau đó, cuộc họp mặt của cộng đồng Giáo Hội Công giáo Ðức gọi là “Ngày Công Giáo” (Katholikentag) đã được tổ chức, như vẫn thấy hằng năm cho đến ngày nay. Các nước khác cũng tổ chức các nghiệp đoàn công giáo và các nhóm chính trị, tựa như các đảng “dân chủ kitô giáo” ngày nay.

Về diện trí thức, nước nào cũng có vấn đề riêng của nước đó, cần giải quyết. Tại Anh quốc, Ambrose M. P. de Lisle (1809-1878) đã đứng lên đẩy mạnh việc hồi phục các đan viện công giáo, tổ chức một hội quốc tế để cầu nguyện và thành lập một hội cổ võ công tác đại kết (n. 1857). Cũng nên lưu ý là cho đến năm 1850, giáo phẩm công giáo Anh quốc mới được hồi phục. Còn William G. Ward (1818-1882) là một nhà biện giải sắc bén và là giáo sư thần học; trả lời cho một linh mục phàn nàn về ông, Ðức Piô IX nói: “Sao mà không dạy thần hoc được... ông ta là một người công giáo dấn thân cho Chúa và đã nhận một bí tích mà cha và tôi cũng không nhận được!” Ðại diện tiêu biểu của nhóm công giáo tự do Anh quốc là lord Acton (J. Dalberg: 1834-1902), là người sáng lập hai tạp chí nổi tiếng: The Rambler và The Home and Fo­reign Review, gây được ảnh hưởng lớn trên dư luận; thời Vaticanô I, ông đã vận động chống lại giáo lý về bất khả ngộ của giáo hoàng, nhưng sau công đồng, ông đã công khai chấp nhận tín điều. Cuối thế kỷ 19, Việt Nam cũng đã có một giáo dân xuất chúng là Petrus Ký (1837-1898), người đã làm rạng danh lớn cho đức tin công giáo.

Tại Pháp, dư luận cho rằng Léon Ollée-Laprune (1841-1898) là giáo dân xuất sắc nhất của thời ấy. Ông đã giúp Ðức Lêô XIII soạn thảo thông điệp Tân Sự (Rerum Novarum, n. 1891) và văn kiện gọi là thông điệp Union à la République của Ðức Lêô yêu cầu người công giáo Pháp chấp nhận chế độ cộng hòa. Trong thế kỷ 20, Ðức Piô X và nhất là các Ðức Piô XI và XII đã đặc biệt nêu bật vai trò của giáo dân trong Hội thánh, và như thế dọn đường cho hiện trạng ngày nay. Ở Ðức quốc, một nhóm giáo dân đã sáng lập một hội mang tên là Goerresgesellschaft (1876), có mục đích đẩy mạnh đà tiến của khoa học theo tinh thần kitô, và cho đến nay, hội vẫn còn hoạt động. Ðại diện của nhóm là Karl Muth (1877-1944), người mạnh dạn cổ võ việc phát huy văn hóa công giáo, đặc biệt là qua tạp chí Hochland. Ở Pháp, bầu khí đã bị tục hóa đến một mức đáng lo ngại: chỉ có thể tự do sống đức tin âm thầm biệt lập đối với chế độ chính trị; thực vậy, nhà nước tỏ rõ thái độ kỳ thị đối với các nhà trí thức công giáo, như G. Fonsegrive (1952-1917) đã nhận định. Các sử giả công giáo thời ấy đã có công nêu lên cho công luận biết rõ không biết bao nhiêu điều khích lệ về Giáo Hội; đáng ghi nhớ hơn hết trong các sử gia nói trên là G. Schuerer, ở Ðức (1860-1941), G. Goyau, ở Pháp (1969-1939) và G. Brom, ở Hà Lan (1882-1959). Thời ấy, nước nào cũng bắt đầu xuất bản tạp chí công giáo, chẳng hạn như ở Pháp thì có tờ Esprit, với những nhân vật hợp tác đáng kể như J. Maritain (1882-1973), J. Lacroix (1900-1986), H. Marrou (1904-1977), và nhất là Emmanuel Mounier (1905-1950).

Trong thế kỷ 20, thì khó mà liệt kệ cho hết được – bởi quá đông – số các giáo dân đã tích cực góp phần về mặt trí thức, cho sứ mệnh của Giáo Hội. Nên nhắc đến các tên tuổi như Charles Péguy (1873-1914), Paul Claudel (1868-1955) và George Bernanos (1888-1948) ở Pháp; G. K. Chesterton (1874-1936), Hilaire Belloc (1870-1953), v.v. ở Anh quốc; Menénđez Pelayo (1856-1912), M. de Unamuno (1864-1936), X. Zubiri (1898-1983), v.v., ở Tây ban nha; A. Manzoni (1785-1873), G. Marconi (1874-1937) – người phát minh kỹ thuật phát thanh – v.v. ở Ý Ðại Lợi; còn ở Nhật bản thì không thể quên được ảnh hưởng của Shusaku Endo (1923-1996). [8]

 

Các phong trào công giáo

Trên đây là những giáo dân xuất chúng, được kể như là “vĩ nhân.” Tuy nhiên, không phải chỉ có thế, bởi còn có đại đa số giáo dân xưa nay chỉ được coi như là thuộc hàng “thứ dân” hay “dân đen,” nhưng chính họ là Giáo Hội sống động. Kỳ thực, Giáo Hội đã khởi sinh với một nhóm người bình dân được Thánh Thần linh ứng soi dẫn và hằng không ngừng từng bước lớn lên cho đến bây giờ. Không có tài liệu về sinh hoạt của Giáo Hội trong những thế kỷ đầu; hễ nói đến “nhóm” hay “phong trào” là người ta nghĩ ngay đến các người lạc giáo, ly khai khỏi thân thể của đại Giáo Hội. Chỉ khi Giáo Hội được tự do (sau n. 313), danh xưng “phong trào” mới được phổ biến và hiểu theo nghĩa là một hội, một nhóm sinh hoạt... giữa lòng Kitô giáo.

Trước hết, có phong trào tu hành. Cũng nên nhớ lại rằng đời tu trì là sáng kiến do giáo dân đề xuất nhằm phản ứng chống lại lối sống tục hóa của giáo sĩ. Hoặc nói cách khác, nhiều tín hữu ước muốn được làm chứng một cách hoàn hảo cho Ðức Kitô, theo mẫu gương của các vị tử đạo trong những thời bị bách hại trước kia: khi mà đức tin không còn bị cấm cách, khi mà lối sống của giáo sĩ chẳng còn nói lên được gì lý tưởng Tin Mừng, thì các tín hữu muốn thoát ra khỏi những dính bén thế tục, đi vào sa mạc sống đời ẩn tu riêng lẻ hoặc trong các đan viện, để tìm cách thể hiện trọn vẹn lý tưởng cao đẹp ấy. Thời thế kỷ 4, bên Ai cập, đã có từng ngàn ẩn tu và đan sĩ. Hồi thế kỷ 5, thánh Biển Ðức – một giáo dân – đã khai sáng lối sống tu trì cho Tây phương. Quả vậy, rất nhiều dòng tu đã được thành lập do giáo dân, như: thánh Phanxicô Assisi, bảy vị sáng lập dòng Tôi tớ Ðức Mẹ, thánh I-nhã, v.v.

Tại Châu Âu, trong thời Trung cổ, đã xuất hiện từ gốc bình dân, nhiều phong trào cải cách. Phát sinh từ dòng Phanxicô hồi thế kỷ 13-14, phong trào Fratricelli đã được nhiều giáo dân ủng hộ. Rồi từ nhóm này, một số phong trào khác đã xuất phát ở vùng bắc Âu, như các nhóm Lollards hoặc Beghards và Beguines ở Bỉ, Hà Lan và Anh quốc; đa số đều mang sắc thái lạc giáo, nhưng cũng có nhiều người đạo đức thật lòng. Ðáng chú ý hơn hết là nhóm Begui­nes, vì họ là nhóm phụ nữ sống nghèo, ở chung thành cộng đoàn, không có lời khấn như tu sĩ, và chăm lo làm việc phục vụ dân nghèo vì Ðức Kitô. Noi gương họ, phía nam giới cũng tổ chức thành cộng đoàn mang tên là Beghards, thường sống ở ngoại ô các thành phố, theo tinh thần Phanxicô. Trong các thế kỷ 14-15, hơn cả hàng giáo sĩ, hai nhóm này đã trở thành trọng tâm thiêng liêng của xã hội trong vùng. Một số cộng đoàn thuộc phong trào này đã tồn tại cho đến thời cách mạng Pháp hồi cuối thế kỷ 18. [9]

Một hiện tượng khác đáng lưu ý là các Dòng Ba. [10] Từ lúc khởi đầu đời sống tu hành đã có nhiều giáo dân muốn “thông hiệp” với các người sống lối sống ấy, chẳng hạn như là với các đan sĩ dòng Biển Ðức – hoặc là với tu sĩ của nhiều dòng khác – trong tư cách là hiến sĩ (oblati). Tuy nhiên, phải nói là Dòng Ba đã thực sự xuất hiện cùng với các dòng khất thực hồi thế kỷ 13: nhiều giáo dân ao ước được thông dự vào tinh thần của các dòng mới này, như dòng Phanxicô (chính thánh Phanxicô đã soạn luật cho họ), rồi các dòng Ða Minh, Cát Minh, Âugutinô, Ba Ngôi, Xitô, Thánh Norbert, v.v. Nếu có một số thành viên khấn giữ một vài điều, thì tất cả đều hứa sống theo linh đạo của dòng, và như thế được hưởng nhiều đặc ân thiêng liêng Tòa thánh ban cho các dòng, như các ân xá chẳng hạn; trong một số trường hợp, họ cũng được mặc tu phục khi khi liệm xác để chôn cất. Thành quả thánh thiện quả là lớn: chỉ dòng ba Phanxicô không thôi thì đã có chừng 75 thánh và chân phước. Thời tân đại, thay vì Dòng Ba, Dòng Tên đã lập ra Hiệp hội Thánh Mẫu, giúp cho các giáo dân muốn sống linh đạo Inhã; còn các dòng mới khác cũng có một tổ chức tương tự như Dòng Ba và kêu mời giáo dân chia sẻ tinh thần của họ. Gần đây, vẫn còn xuất hiện những Dòng Ba mới, như Dòng Ba của Dòng Ngôi Lời Nhập Thể (Instituto del Verbo Encarnado) ở Áchentina, thành lập năm 1988. Hiện đại hơn, còn có Ðạo binh Thánh Micaê chuyên lo việc Truyền giáo qua Internet. Hiện có nhiều nhóm mang tên trùng lẫn, làm cho khó nhận diện, như “dòng giáo dân” (secular orders, ordres séculiers ...); tuy nhiên, điều đó cho thấy tinh thần mới đang hiện diện ở trong Giáo Hội. [11]

Từ thời Trung cổ cho đến về sau thời Phục hưng, giáo dân đã họp thành những Hội Ái Hữu (Confraternities), với mục đích thiêng liêng khác nhau. [12] Các hội này vốn dành cho nam giới; nhưng nữ giới cũng đã tổ chức những nhóm tương tự. [13] Các nhóm này cho thấy là giáo dân đã ý thức rõ về bổn phận của mình, bổn phận nên thánh ở giữa thế gian, và quả thật, họ sống mạnh đời sống đức tin giữa lòng xã hội. Có khi họ tụ họp theo giai cấp, hoặc theo nghề nghiệp, và cũng có thể là tự do, không theo một tiêu chí nào cả; có khi thì gồm cả giáo sĩ lẫn giáo dân. Trong một xã hội thuần túy công giáo như thế, các phường hội cũng có mục đích tôn giáo, cũng có thánh bổn mạng và những ngày lễ riêng, những việc đạo đức và cả đến sách phụng vụ riêng, v.v. Thông thường họ nhắm mục đích từ thiện, tức sống đức tin qua bác ái; nhưng cũng cổ vũ nghệ thuật, việc học hỏi Kinh Thánh hoặc khoa học, và nhất là sống tương trợ lẫn nhau về mọi mặt. Giáo dân rất ái mộ các hội này đến nỗi, thí dụ, ở Firenze (Ý) năm 1500 đã có 156 hội, và chừng 120 hội ở Venezia. Mỗi hội đều có quy chế được thẩm quyền Giáo Hội phê chuẩn. Hiện nay, ở Tây ban nha vẫn còn có nhiều hội như thế. Khi xã hội bị tục hóa (sau thế kỷ 18), các phường hội đã biến hóa và trở thành nghiệp đoàn như thấy trong thời nay; nhiều tổ chức trí thức hoặc kỹ thuật khác cũng đã bắt nguồn từ các hội ngày xưa.

Giữa thế kỷ 19, xuất hiện những hiệp hội xã hội. Ở Ðức quốc, A. Kolping († 1865), một thợ đóng giày, đã thành lập hội đồng nghiệp để làm chứng cho Tin Mừng trước các đồng nghiệp. Ở Áo quốc, đã có một phong trào tương tự. Ở Pháp, sau 1870, nhóm “catholiques sociaux” (công giáo xã hội) đã thay thế cho nhóm “catholiques libéraux” (công giáo tự do); năm 1887, xuất hiện nghiệp đoàn kitô giáo đầu tiên ở Paris và Lyon. Ở Bỉ, các nghiệp đoàn kitô giáo – khởi đầu năm 1866­ hiện là những nghiệp đoàn lớn nhất trong nước, thu nạp được hơn 1 triệu 6 trăm ngàn công nhân. Các nước Châu Âu đều có những nghiệp đoàn như thế cả. Bỉ có công đặc biệt vì một người Bỉ, J. Cardijn đã sáng lập tổ chức JOC, tức Thanh Lao Công (Jeu­­nesse Ouvrière Chrétienne) năm 1925; tổ chức đã phát triển rộng lớn, có mặt và hoạt động trong hết mọi nước công giáo, giúp cho hàng triệu thanh niên sống đạo tích cực ở giữa thế giới lao động. Tổ chức áp dụng mẫu thức sư phạm ba bước: quan sát, nhận định, và hoạt động. [14] Ảnh hưởng các nghiệp đoàn kitô giáo gây được, hơn kém tùy nơi, nhưng bất cứ ở nơi nào cũng đều đáng kể. Gần đây, nổi tiếng nhất có lẽ là hoạt động của Công đoàn Liên Ðới (Solidarnosk) (Công đoàn) ở Balan, bởi đã góp phần lớn trong việc làm cho đế quốc cộng sản đổ sụp.

Có lẽ phong trào “phổ quát” nhất trong thế kỷ 20 là Công giáo tiến hành (CGTH). Trong thời các giáo hoàng Piô IX và Piô XI, tôn chỉ, mục đích và lãnh vực hoạt động của CGTH đã không được xác định rõ ràng; chỉ biết là trong thực tế nó bao gồm tất cả các việc tông đồ của giáo dân; quả thế, Ðức Lêô XIII đã coi tổ chức “dân chủ kitô giáo” và “công giáo tiến hành” chỉ là một. Khi chế độ phátxít giải tán các tổ chức tư (1926-1927), Ðức Piô XI đã lên tiếng phản ứng bằng cách “định nghĩa” CGTH là một “phương thức thông phần vào việc tông đồ của hàng giáo phẩm,” và nói rõ rằng chánh phủ không có quyền cấm chỉ. Tại nhiều nước, phong trào giữ một phong thái độc lập hơn; sau này, Vaticanô II sẽ nói đó là việc “hợp tác với giáo phẩm” trong sứ mệnh của Hội Thánh, theo cương vị đặc thù của giáo dân. Quả vậy, sau thế chiến II, CGTH sáp nhập nhiều phong trào khác và chia thành nhánh, nhằm đáp ứng nhu cầu của từng giới, như: thanh niên, phụ nữ, sinh viên, lao động, v.v. đúng theo lời của Ðức Piô XII thúc dục mọi người dấn thân làm việc tông đồ trong hết mọi lãnh vực: xã hội, trí thức, chính trị, v.v... bởi giáo dân là tiền quân của Giáo Hội, đặc biệt là trong các lãnh vực chuyên nghiệp. Nhưng tại nhiều nơi, hàng giáo phẩm tỏ ra ái ngại, sợ giáo dân dấn thân “quá mức” và cố giữ họ lại ở trong phạm vi tôn giáo; chẳng hạn, trong thư chung năm 1953 của các giám mục Việt nam, có đoạn viết: “Công giáo tiến hành là một phương tiện truyền giáo và chỉ có mục đích truyền giáo.” Từ CGTH đã phát sinh nhiều tổ chức khác, như Caritas và Cursillo ở Tây ban nha, chẳng hạn. Khởi đầu năm 1867, phát triển mạnh dưới thời Ðức Piô XI, CGTH Ý đại lợi đã bừng lớn hẳn lên dưới thời Ðức Piô XII, đạt đến con số 3.372.000 thành viên trong năm 1953, và gây được ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội và chính trị. Sau Thượng Hội Ðồng Giám Mục 1987, CGTH Ý đã thành lập một ủy ban đối ngoại để cổ võ giáo dân tham gia truyền giáo và dấn thân hoạt động cho hòa bình thế giới. Tổng quát mà nói, trong thập kỷ 70, phong trào CGTH cũng đã trải qua cơn khủng hoảng chung trong bối cảnh văn minh Tây phương và trong Giáo Hội; đầu thế kỷ 21, hình như phong trào đã nhìn thấy được những dấu chỉ phục hưng.

Sau Vaticanô II và một khi đã vượt qua thời khủng hoảng, nhiều phong trào ngày trước vẫn tồn tại và nhiều phong trào mới đã mọc lên đông đảo có lẽ hơn bất cứ thời đại nào khác trong lịch sử Giáo Hội. Chính Ðức giáo hoàng đã viết: “Thời gian gần đây, đã thấy được hiện tượng các hiệp hội giáo dân mặc lấy những hình thái đặc biệt đa dạng và rất ư là sống động. Nếu trong lịch sử Giáo Hội, các tổ chức giáo dân đã không ngừng tiếp nối nhau mọc lên, như đang thấy rõ qua sự hiện diện của các đoàn thể, các dòng ba và các hiệp hội khác nhau. Gần đây, hiện tượng ấy quả đã trở thành đặc biệt phồn vinh: chúng ta đang chứng kiến việc phát sinh và nẩy nở của các tổ chức, các nhóm hội, các cộng đồng, các phong trào, v.v. dưới vô số dạng thái khác nhau; trước sự kiện ấy, ai mà không nghĩ rằng đây là một thời đại mới của các hiệp hội giáo dân.” [15] Tháng 5, 1998, các phong trào đã tụ họp tại Rôma (250.000 đại diện) và trong bài ngỏ lời với các đại diện, hồng y Ratzinger đã nói là Giáo Hội đang sống qua “một mùa xuân Thần Khí” và, vì thế, cần phải “bớt đi những hình thức để dành chỗ nhiều hơn cho Thần Khí” ngõ hầu giáo dân mạnh dạn nắm lấy sứ mệnh của mình. Khó mà kể cho hết được trong một danh sách: [16] nào là các nhóm phong trào canh tân trong Thánh Linh hoặc phong trào Focolare do Chiara Lubich sáng lập sau thế chiến II, đã gầy dựng nên; nào là các nhóm hoạt động trong lãnh vực gia đình (Catholic Fa­mily…, Marriage encounters…, Couples for Christ…); nào là những tổ chức dành cho thanh thiếu niên, những cộng đoàn Tân dự tòng (Neocatechumenal) do Kiko Argüello, một người vô thần trở lại công giáo, đã khai sinh tại Madrid; rồi còn có phong trào Hiệp thông và Giải phóng (Communion and Liberation), v.v.

Cuối cùng, có lẽ đặc thù nhất của thời đại là phong trào các Cộng đoàn cơ bản (Comunidades de base/ Basic Christian communities). Khởi sự tại Châu Mỹ Latinh như một trào lưu “tự dưới lên,” các Cộng đoàn cơ bản đã lan dần ra khắp thế giới như là hiện thân của quần dân trong cuộc đấu tranh cho các quyền lợi căn bản của họ. Ðó là một sáng kiến công giáo, nhưng sau này không chỉ Tin lành mà cả đến các tôn giáo khác cũng đã lấy lại để tổ chức các cộng đoàn nhỏ làm phương tiện phát huy tinh thần huynh đệ và tương trợ giữa xã hội. [17] Trong các cộng đoàn cơ bản, giáo hữu quen nhau, cầu nguyện với nhau, chia sẻ Kinh Thánh và phát huy tinh thần huynh đệ nhằm đối phó với tình thế tôn giáo và xã hội. Trong các nhóm như thế, giáo dân và giáo sĩ hợp tác với nhau trong bối cảnh hàng xóm, nơi môi trường làm việc, v.v.; giáo xứ có thể giữ vai trò phối hợp các cộng đoàn. Cộng đoàn cơ bản giúp củng cố căn tính tôn giáo cho các thành viên cũng như giúp họ kháng cự những công kích từ phía tinh thần tục hóa, các tôn phái quá khích, các tổ chức bóc lột và áp bức, v.v. Quả thật, các cộng đoàn nhỏ này đã trở thành công cụ truyền giáo hữu hiệu vào bậc nhất. Khi các kitô hữu là thiểu số, thì một cộng đoàn như thế quả là bối cảnh sống đạo cần thiết để có thể dễ dàng cảm nghiệm mầu nhiệm Giáo Hội. Một cộng đoàn chưa phải là Giáo Hội, song là một phần tử trong niềm hiệp thông công giáo. Hiện có những cộng đoàn kitô giáo như thế ở thôn quê cũng như nơi thành thị, ở giữa giới tiện dân cũng như giữa giai cấp giàu có, trong các đại học cũng như giữa những người di dân mù chữ: đức tin chỉ là một cho mọi người và bất cứ ở đâu. [18]

 

———o O o———

 

Trong lịch sử Giáo Hội, như phác trình lại trên đây, giáo dân đã tích cực tham gia và tác động vào trong sứ mệnh của Giáo Hội bằng nhiều cách thể, tùy khả năng nhận được và hoàn cảnh từng thời đại. Vì có nhiều cách thể tham gia, cho nên ai cũng có thể tìm thấy được cho mình một chỗ đứng ở trong Hội thánh. Hơn bao giờ hết, hiện giờ giáo dân đang ý thức rõ về quyền lợi và nhiệm vụ của mình trong cộng đoàn Giáo Hội; đó là một ân huệ của Thần khí. Nếu thế, thì đã có đủ cơ sở vững vàng để hy vọng là tương lai của Giáo Hội sẽ rực rỡ hơn.

 

-------------------------

[1] Osborne, Kenan, Ministry: Lay Ministry in the Roman Catholic Church. Its History and Theology, New York, Paulist Press, 1993.

[2] Cộng đoàn kitô như là Dân mới của Thiên Chúa xuất hiện mới ở trong các văn bản của Phaolô và Luca: xem Rm 9:25-6; 2Cr 6:16; Tt 2:14; Cv 15:14; 18:10; x. Dt 4:9; 8:10; 10:30; 13:12; 1Pr 2:5-10; Kh 18:4; 21:3…

[3] Bruce, F. F. The Spreading Flame, Eerdmans 1980; Ramsay MacMullen, Chris­tianity in the Roman Empire (A.D. 100-400), New Haven: CT, Yale Univ. Press 1984; Faivre, Alexandre. The Emergence of the Laity in the Early Church, Paulist Press 1990 (nguyên văn Pháp ngữ Les laðcs aux origines de l’Église, Le Centurion 1984).

[4] Thư của Clêmentê gửi Giáo Hội Côrintô, 42-45.

[5] In Jeremiam, homilia 11,3.

[6] St Romata, 3.12.90.1; 5.6.33.3; Paedagogus 3.10.83.2.

[7] Xin xem chẳng hạn De Trinitate, De consolatione Philosophiae…

[8] Xin xem Jay P. Corrin, Catholic Intellectuals and the Challenge of Democracy, Unversity of Notre Dame Press 2002.

[9] Astell, Anne, ed., Lay Sanctity, Medieval and Modern, Notre Dame Univ. Press, 2000.

[10] “Ðược gọi là Dòng Ba hay với tên nào khác tương tự, các Hiệp Hội gồm các thành viên sống giữa đời, nhưng dự phần vào tình thần thiêng liêng với một Dòng tu, làm việc tông đồ và tiến tới sự hoàn thiện dưới sự điều hành tối cao của Dòng tu đó” (Giáo luật, điều 303).

[11] Jordan Hite (Ed.), A Handbook on Canons 573-746: Religious Institutes, Secular Institutes, Societies of the Apostolic Life, Liturgical Press 1985.

[12] “Prière et charité sous l'Ancien Regime. Actes du Colloque de Nancy-Epinal, 6 et 7 octobre 1990”: số chuyên đề của Historie, Economie et Société, 10:3 (1991), tt. 279-435; Vincent, Catherine, Les confréries médiévales dans le Royaume de France: XIII-XVe siècle, Paris: A. Michel, 1994; Confraternities & Catholic reform in Italy, France, & Spain. Edited by John Patrick Donnelly and Michael W. Maher, Kirksville, MO: Thomas Jefferson University Press, 1999.

[13] Marie A. Conn, Noble Daughters: Unheralded Women in Western Christia­nity, 13th to 18th Centuries, Greenwood Publishing 2000.

[14] Françoise Richou, La Jeunesse ouvière chrétienne. Genèse d'une jeunesse militante, L'Harmattan, collection “Logiques sociales,” 1997.

[15] Christifideles laici, số 29.

[16] Xin nhắc đến một số nhóm và phong trào đặc biệt nổi tiếng: Movements and Communities: ADSIS Communities; Caritas Internationalis (CI); Catholic Fraternity of Covenant Communities and Fellowships of Charismatic Renewal; Catholic Family Movements; Catholic Fraternity of Covenant Communities and Fellowships; Communauté de l’Emmanuel and Schušnstatt Movement; Communauté des Béatitudes “Marthe et Marie de Béthanie”; Communauté des Béatitudes; Communion and Libération; Conference of Catholic International Organizations (CIO); Cursillos de Cristiandad; Équipes Notre Dame (END)[ Teams of Our Lady]; Focolare Movement; Foyers de Charité; Fraternity of St. Thomas Aquinas Associations (FASTA); International Catholic Centre for UNESCO (CCIC); International Catholic Conference of Scouting (CICS); International Coordination of Christian Worker Youth (CIJOC); International Federation of Communities of Parish Catholic Youth (FIMCAP); International Federation of Catholic Men (FIHC-Unum Omnes); International Federation of Catholic Rural Adults (FIMARC); International Federation of Marriage Preparation Centres (FICPM); International Forum of Catholic Action (FIAC); Knights of Columbus; L'Arche; Marriage Encounters; Movement for a Better World; Neocatechumenal Way; Pax Romana; Prelature of Opus Dei; Regnum Christi Movement; Retrouvaille International Inc.; Society of St. Vincent de Paul; Sodalitium Christianae Vitae; St. Egidio Community; Talleres de Oración y Vida; Teresian Association; Volunteer Missionary Movement; World Organization of Former Pupils of Catholic Education (OMAAEEC); World Union of Catholic Women’s Organizations (UMOFC), etc...

[17] Sergio Torres and John Eagleson (Eds), The Challenge of basic Christian communities: papers from the International Ecumenical Congress of Theology (1980: Sao Paulo, Brazil), Maryknoll: Orbis Books 1981; Andrew Dawson, Susan Peterson,,The Birth and Impact of the Base Ecclesial Community, International Scholars Publications 1998.

[18] Tại Châu Á, xin xem về cô Cora Mateo và giám mục Orlando Quevedo, FABC Paper số 92i (Tháng Giêng 2000).

 

 


Giáo Dân SỐng ĐỨc Tin GiỮa Xã HỘi TỤc Hóa

Điều chính yếu và nền tảng trong cuộc đời tôi, chính là Đức Tin. Niềm Tin vào Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Vâng, chính Đức Tin điều động tư tưởng và hướng dẫn hành động của tôi. Và cũng chính nhờ Đức Tin, với Đức Tin và bởi Đức Tin mà tôi muốn sống và tiếp tục sống.

Viết như thế để bày tỏ rằng, tôi sống sâu xa niềm tin vào Đức Chúa GIÊSU KITÔ và thật sự dấn thân làm chứng cho Đức Tin. Niềm ao ước tha thiết nhất, sâu thẳm nhất và nồng nhiệt nhất của tôi là cống hiến tất cả gì tốt đẹp nhất nơi chính con người tôi, để xây dựng một thế giới công bằng hơn, nhân đạo hơn và có tinh thần Kitô hơn. Nhưng đứng trước một thế giới không lý tưởng và không Đức Tin, đồng thời, đứng trước chính lý tưởng và Đức Tin này thối thúc, tôi có cảm tưởng như đời mình không giúp ích gì hết và tôi sống một cách vô dụng

Khi bước vào đại học, tôi muốn trở thành kỹ sư. Nhưng sau hai năm dự bị, tôi buồn rầu khám phá ra thế giới chúng ta đang sống quả là thế giới bệnh-hoạn ngớ-ngẩn và điên-khùng! Từ đó, tôi cảm thấy hơn bao giờ hết, được kêu mời sống chứng tá Đức Tin Kitô. Tuy nhiên, tôi nhận thức ngành kỹ sư tôi đang theo đuổi, hoặc bất cứ ngành khoa học nào khác, không phải là môi trường thuận tiện, để tôi có thể làm chứng tá sống động bằng lời nói và bằng hành động cho niềm tin tưởng vào Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Đó là Đức Tin bao trọn lý tưởng cuộc đời tôi, và hiện đang bị làm ngơ hoặc bị chà đạp một cách thảm thương! Tôi tự nhủ:  Mình phải làm thế nào để có dịp tiếp xúc với càng nhiều người càng tốt, đặc biệt là với giới trẻ. Và việc phải làm đầu tiên, là phải suy gẫm và làm cho người khác suy gẫm về vấn đề căn bản của cuộc sống và về ý nghĩa của chính cuộc sống.


Suy tư và khắc khoải trên giúp tôi nhận thức rõ ràng trách nhiệm của mình đối với Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng đã chiếm đoạt trọn người tôi. Đấng mà tôi xác tín sâu xa rằng:  Ơn cứu độ của nhân loại nằm nơi Ngài và chỉ trong Ngài, nhân loại mới được cứu thoát.

Hiểu như thế rồi, tôi bỏ ngành kỹ sư, để chọn ngành nào khác, giúp tôi hoàn toàn dấn thân làm chứng cho Đức Tin vào Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Ngành dạy học xuất hiện trong trí tôi, như phương thế hữu hiệu nhất để sống chứng tá Đức Tin và rao giảng Đức Tin. Tôi ghi tên theo học các môn triết và thần học và trở thành giáo sư.

Nhưng sự kiện đáng buồn là để thực hiện dự án này, tôi phải có học bổng, mà với hoàn cảnh xã hội tại Caméroun (Phi Châu), rất khó nhận một học bổng. Trong khi chờ đợi, tôi chọn ngành toán học và tốt nghiệp cử nhân toán. Từ đó tôi bắt đầu dạy môn toán và lý hóa tại một trường trung học.

Chưa bao giờ tôi cảm thấy đời mình vô dụng và khổ sở như thế. Về phương diện nghề nghiệp, tôi không có gì đáng trách, vì tôi làm tròn bổn phận của giáo sư toán với đầy đủ khả năng. Nhưng tôi cảm thấy khổ-sở bứt-rứt vì thấy mình không làm được gì cho giới trẻ mà tôi hàng ngày tiếp xúc. Đây là giới trẻ không lý tưởng, không niềm tin, một thứ giới trẻ điên-loạn, chỉ biết chạy theo thời trang, bị nô lệ vì thời trang, để rồi chỉ sống ích kỷ cho riêng mình.

Nỗi cơ cực của tôi khi đối diện với loại giới trẻ này, chính là thái độ thụ động của tôi. Tôi không thể nói với họ, trình bày cho họ về niềm tin vào Đức Chúa GIÊSU KITÔ, trong các giờ dạy toán học đã đành rồi, nhưng ngoài giờ học ra, tôi cũng không có giờ để gặp gỡ và trao đổi tư tưởng, quan niệm cùng niềm tin với họ nữa! Và đó là tất cả nỗi niềm cay cực ray rứt của tôi.

Caméroun là nước nghèo và chậm tiến. Nhưng bên cạnh điểm tiêu cực này còn hai điểm tiêu cực khác trầm trọng hơn. Đó là xã hội Caméroun còn chậm tiến về phương diện luân lý và thiêng liêng nữa. Và để bài trừ nạn chậm tiến thì cần rất nhiều Tình Thương, thứ Tình Thương chân thật và sống động, đến từ THIÊN CHÚA và những môn đệ chân chính của Ngài

Có người đặt câu hỏi:  Tại sao tôi không chọn nếp sống Linh Mục hay tu sĩ, có phải dễ dàng làm chứng tá cho Đức Tin và Tình Yêu của Chúa hơn không?

Riêng tôi, tôi tự nghĩ:  Nếp sống giáo dân giữa đời, cũng thật cần thiết và hữu hiệu để loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Đức Chúa GIÊSU KITÔ và làm chứng tá cho Ngài.

Và đây là điều tôi cố gắng thực hiện mỗi ngày ngay nơi quê hương và trong lòng dân tộc thân yêu của tôi.

(”MISSI”, 4/1980, trang 149).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

[Nguồn: Lien doan cong giao 19/8/2006]



 

 

GIÁO DÂN ĐỒNG TRÁCH NHIỆM

“Giáo dân không còn được xem là những người cộng tác mà phải thực sự được nhìn nhận là những người đồng trách nhiệm”

[CathNewsAsia  ngày 29/9/2009]

Đức Tổng Giám Mục Charles Chaput của Tổng Giáo Phận Denver (Hoa Kỳ) phát biểu trong bài diễn văn tuần rồi: “Giáo dân không còn được xem là những người cộng tác với hàng giáo sĩ nữa, mà phải thực sự được nhìn nhận là những người đồng trách nhiệm về sự hiện hữu và hoạt động của Hội Thánh”

Cơ quan Thông Tấn Công Giáo tường trình: Trong một bài phát biểu được vị đại diện đọc tại buổi hội thảo của Quỹ Đầu Tư Becket, Đức Tổng Giám Mục Chaput đã nói về chủ đề: “Những Tiếng Nói: Giáo Dân và Tự Do Tôn Giáo.”

Nói về vai trò của người giáo dân, Đức Tổng Giám Mục Chaput lưu ý tới lời phát biểu của Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI, trong Công Nghị tại Ro-ma, rằng: Hội Thánh cần phải thay đổi não trạng, đặc biệt trong những gì liên quan tới giáo dân.

Để tóm tắt lời phát biểu của Đức Giáo Hoàng, Đức Tổng Giám Mục Chaput giải thích rằng: “Không nên xem giáo dân là những người cộng tác của hàng giáo sĩ nữa mà phải thực sự nhìn nhận họ là những người đồng trách nhiệm về sự hiện hữu và hoạt động của Hội Thánh”

Ngài nói: “Giáo dân có cùng một phẩm giá như các giáo sĩ và tu sĩ. Họ không phải là những thành viên hạng hai của Thân Mình Chúa Ki-tô.”

Giáo dân có nhiệm vụ thay đổi thế giới nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, một sự thay đổi chỉ có thể thực hiện được bằng/qua một chứng tá trưởng thành, thông minh và trung thành với Chúa Ki-tô trong mọi khía cạnh của cuộc sống.

Sau cùng Đức Tổng Giám Mục Denver thúc giục giáo dân: “đừng bao giờ hoang mang về phép rửa của mình; đừng bao giờ sợ hậu quả của đức tin; hãy hãnh diện về căn tính Công Giáo của mình vì đó là ơn  phúc và sự ủy nhiệm; hãy hành động theo căn tính của mình; hãy chia sẻ căn tính ấy với người khác. Một lần nữa chúng ta phải tìm thấy trong đó niềm tin để sống và rao giảng đức tin của chúng ta xuyên qua mọi việc chúng ta làm mà không phải e ngại gì cả. Và nếu chúng ta hành động như thế, chúng ta không cần quan tâm xem phải tái rao giảng Tin Mừng như thế nào, vì chúng ta biết rằng chúng ta đang sông Tin Mừng đó trong đời sống của chúng ta.”

Khi đề cập đến vai trò của người giáo dân trong lãnh vực công cộng, Đức Tổng Giám Mục Chaput nhận định: “Chính trị là nơi diễn ra cuộc chiến giữa chân lý và gian trá, giữa công bằng và bất công.”

Ngài còn nói “Người Công Giáo có bổn phận dùng Niềm Tin của mình để giải quyết những vấn đề kinh tế và chính trị mà đất nước mình đang phải đương đầu. Đó  không phải là một đặc ân, đặc quyền; Cũng không phải là quyền lợi, mà là mệnh lệnh của Tin Mừng.”

[Người dịch: Nguyễn Hữu An và Nguyễn Văn Nội]

 

 

Ghi chú của người dịch:

Đồng trách nhiệm: có nghĩa là cùng có trách nhiệm (co-responsible) chứ không có nghĩa là trách nhiệm bằng hay ngang nhau (equal-responsible).

 

 

CÁC NHÀ THẦN HỌC ẤN ĐỘ  ĐỀ NGHỊ  TĂNG THÊM  VAI TRÒ CỦA GIÁO DÂN VÀ GIẢM BỚT VAI TRÒ CỦA GIÁO SĨ

Bangalore, Ấn Độ (UCAN)- Các nhà thần học Ấn Độ đã chỉ trích vai trò thống trị của hàng giáo sĩ trong Giáo hội và vạch ra nhu cầu phát triển một nền thần học mới dành nhiều không gian hơn cho giáo dân.

Quyền bính mà hàng giáo sĩ đã thi hành từ lâu là “tuyệt đối và cơ bản là đi ngược lại với những gì Chúa Giêsu muốn” Hiệp Hội Thần Học Ấn Độ đã tuyên bố như trên trong Nghị Quyết kết thúc Hội Nghị Thường Niên từ 22 đến 26 tháng 4 vừa qua.

Các nhà thần học nói rằng họ muốn Giáo hội sớm chấm dứt tình trạng giáo dân ở bên lề. Trong cái nhìn của các nhà thần học này, đón nhận và nhìn nhận phẩm giá của giáo dân trong Giáo hội là điều cần thiết để duy trì bản chất hiệp thông của Giáo Hội.

“GIÁO DÂN TRONG GIÁO HỘI: CĂN TÍNH VÀ SỨ MẠNG TẠI ẤN ĐỘ NGÀY NAY” đó là chủ đề của Hội Nghị Thường Niên lần thứ 29 họp tại Bangalore, cách New Delhi 2060 cây số về phía Nam. Có 65 nhà thần học, kể cả thần học gia giáo dân, đã tham dự Hội Nghị này.

“Nền thần học đang thịnh hành trong Giáo hội” - họ nói - không phản ánh “sự hiểu biết về căn tính và sứ mạng của người tín hữu.”  Theo Nghị Quyết của Hội Nghị, Công đồng Vatican II đã khẳng định vai trò lớn hơn của người giáo dân trong Giáo hội cách nay 40 năm rồi. Nghị Quyết còn nhấn mạnh: «Giáo dân không chỉ đơn thuần là một hạng có tính thần học trong cái nhìn của Ki-tô giáo về thế giới mà là một phần tạo thành cộng đoàn Giáo hội”. Nghị Quyết cũng chỉ rõ rằng các thừa tác viên có chức thánh chỉ chiếm không tới 1% Giáo hội, mà kiểm soát Giáo hội bởi vì những người này đã dành được những quyền bính đặc biệt và toàn bộ sứ mạng của Giáo hội đã chỉ được giao cho mình họ mà thôi. Nghị Quyết cũng ghi nhận rằng giáo dân ít có tiếng nói trong việc quản trị và trong thi hành sứ mạng của Giáo hội. Cho dù Vatican II “đã trở lại với quan niệm Giáo hội là Dân Chúa, thì hàng giáo sĩ vẫn tiếp tục đóng vai trò thống trị của mình. » Nghị Quyết trên cũng lưu ý chống lại xu hướng sai lạc là tách rời giáo sĩ và giáo dân, coi như họ là những thành phần biệt lập với nhau.

Các nhà thần học cũng chỉ ra rằng một Giáo hội dựa trên nền tảng cơ chế và luật lệ đã xếp giáo dân ở tầng dưới cùng của cơ cấu phẩm trật. Theo các nhà thần học này thì “mô hình kim tự tháp đã trở thành một mô hình linh thánh” ngăn cản việc xem xét đến việc sử dụng các mô hình khác để trình bày về Giáo hội.

Các nền thần học hiện hữu cũng thiếu sót trong việc dành không gian tương xứng cho giáo dân thực hiện các tác vụ trong Giáo hội và “nhiều không gian hơn sẽ không được tạo ra, trừ khi hàng giáo sĩ đã bỏ trống không gian ấy”

Trong khi ghi nhận rằng hàng giáo sĩ chiếm những vai trò không phải thuộc chức linh mục, các nhà thần học mong muốn Giáo hội tách việc lãnh đạo có tính phụng tự ra khỏi những trách vụ về tài chánh và quản trị. Họ cũng đề nghị các linh mục tránh không nên dừng những chức danh như “bề trên” “giám đốc” vì những chức danh ấy gây nên cảm nghĩ là họ cao hơn giáo dân.

Các nhà thần học đề nghị giáo xứ và các hội đồng mục vụ phải được nâng cấp và được có quyền quyết định chứ không chỉ là những cơ cấu mang tính tư vấn mà thôi. Họ cũng muốn giáo dân dấn thân vào tất cả mọi hoạt động có tính thừa tác và xã hội của Giáo hội.

Linh mục Samuel Rayan, một thần học gia Dòng Tên nổi tiếng nói với Thông Tấn Xã Công Giáo Á Châu rằng một sự thay đổi thái độ là cơ bản nhất nếu hệ thống cần phải thay đổi. Theo quan điểm của ngài, điều đó sẽ đòi hỏi một sự thay đổi quyết liệt hơn trong suy nghĩ của các giáo sĩ.

Linh mục Rayan nhận xét: “Các nhà thần học và các nhà lãnh đạo Giáo hội vẫn đang dùng ngôn ngữ cổ xưa, cho dù Công đồng Vatican II đã đưa ra một số yêu cầu rõ ràng theo hướng đề cao giáo dân. Ngài gợi ý việc huấn luyện giáo dân phải nhằm mục đích làm cho người giáo dân tham dự nhiều  hơn trong Giáo hội và nhấn mạnh rằng “giáo dân là nền móng của Giáo Hội (vì) không có giáo dân thì làm sao có Giáo hội !”

Linh mục Jacob Parappalty, Chủ Tịch Hiệp Hội Thần Học nói với Thông Tấn Xã Công giáo Á Châu  hôm 26 tháng 4 rằng đây là lần đầu tiên Hội Nghị đã thảo luận về vai trò người giáo dân  sau khi nhận ra rằng giáo dân thường bị lãng quên.

Bà Valerie D'Souza, một nhà thần học giáo dân, nói trong Hội Nghị rằng giáo dân cần phải chú tâm đến linh đạo là yếu tố thích đáng đối với các thực tại của giáo dân, chứ không chỉ chấp nhận những dấu chỉ hay biểu tượng chẳng có ý nghĩa gì đối với mình. Sau này bà nói với Thông Tấn Xã Công Giáo Á Châu rằng Giáo hội cần phải ưu tiên đầu tư vào việc đào tạo giáo dân. Trong khi “Giáo hội chi những khoản khổng lồ cho việc đào tạo các linh mục và tu sĩ, thì Giáo hội không chịu tốn kém gì cho giáo dân cả.”

(UCA News, ngày 1.5.2006 –

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội dịch).

   

 


GIÁO dÂn phẢi tham gia vÀo chÍnh trỊ

LTCG (30.09.2011) – Trong thánh lễ cầu nguyện cho Công lý và Hòa bình tại DCCT Sài Gòn tối Chúa Nhật 25/09/2011 vừa qua, bài giảng của linh mục Giuse Nguyễn Thể Hiện, C.Ss.R đã gây ra nơi giáo dân và tất cả những ai tham dự thánh lễ ấy một ý thức mà lâu nay các vị chủ chăn trong GHVN không dám đề cập đến, đó là cần khuyến khích giáo dân tham gia vào chính trị để xây dựng đất nước và đóng góp cho Giáo hội.

Linh mục giảng thuyết không đưa ra tư tưởng hay đường hướng nào mới mẻ của Hội Thánh, nhưng ngài trích lại các văn kiện rất “cũ” nói đến việc khuyến khích giáo dân về quyền được tham dự vào sinh hoạt công cộng và chính trị.

Ngài Trích số 5 của Tông huấn Christifideles Laici (Kitô hữu giáo dân, ngày 31/12/1988 của Chân phúc Gioan Phaolô II): “Chúng ta hãy nghĩ đến vô số xúc phạm đến phẩm giá của con người ngày nay. Một khi không được nhìn nhận và yêu mến theo phẩm giá là hình ảnh sống động của Thiên Chúa (x. St 1,26), thì con người bị biến thành công cụ, thành nô lệ, cho bạo quyền dưới muôn vàn hình thức sai lạc và bỉ ổi. “Thế lực bạo quyền” ấy có thể mang nhiều bộ mặt khác nhau: những ý thức hệ, những quyền lực kinh tế, những hệ thống chính trị phi nhân, những hình thức kỹ trị khoa học, những sự bá chủ tai quái của các phương tiện truyền thông – xã hội một chiều. Một lần nữa, chúng ta đang đối diện với một quần chúng là những anh chị em của chúng ta, bị xúc phạm trong những quyền căn bản, đôi khi là hậu quả của thái độ dung túng quá đáng, thậm chí của sự bất công rành rành của một số luật dân sự: quyền được sống và toàn vẹn thân thể, quyền có nhà ở và việc làm, quyền có gia đình và sinh sản có trách nhiệm, quyền được tham dự vào sinh hoạt công cộng và chính trị, quyền được tự do lương tâm và tuyên xưng niềm tin tôn giáo của mình…

Thế nhưng, bên cạnh những sự khinh miệt và xúc phạm nhân quyền, trong thế giới chúng ta đang sống đây ý thức về nhân phẩm của mọi người vẫn đang ngày càng được phổ biến rộng rãi và được khẳng định mạnh mẽ. Ngày nay, một trào lựu tốt đẹp đang đi đến và tràn ngập hết mọi dân tộc trên trái đất; họ đã ý thức hơn về phẩm giá con người: con người hoàn toàn không phải là một “sự vật” hay một “đồ vật” mà người ta có thể sử dụng, nhưng luôn luôn và chỉ là một “chủ thể” có ý thức và tự do, được mời gọi sống một cách có trách nhiệm trong xã hội và lịch sử, hướng về những giá trị tinh thần và tôn giáo.”

 Số 42 của Christifideles Laici: “Để đem đạo vào đời, theo ý nghĩa chúng ta vẫn nói, là phục vụ con người và xã hội, giáo dân tuyệt đối không thể từ chối tham gia vào “chính trị”, tức là những hoạt động đa dạng về kinh tế, xã hội, luật pháp, hành chánh, văn hóa, một chính trị có mục đích cổ võ công ích một cách có tổ chức và qua các định chế. Các Nghị Phụ Thượng-hội-đồng Giám mục [năm 1987] đã nhiều lần khẳng định điều đó, rằng tất cả và từng người đều có quyền và bổn phận tham gia vào chính trị; rằng sự tham gia này có thể rất khác nhau và bổ túc cho nhau về hình thức, về mức độ, về công tác và về trách nhiệm.

Công Đồng Vatican II, trong Hiến chế Gaudium et Spes, tại số 75, xác quyết rằng: “Giáo Hội ca ngợi và quý trọng việc làm của những người vì lợi ích quốc gia mà dấn thân phục vụ con người và nhận lãnh gánh nặng của trách nhiệm này”.

Quả thật, ý thức về việc giáo dân dấn thân vào lãnh vực chính trị còn rất “mới” đối với giáo dân Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân lý giải sự “chậm tiến” này. Trong xã hội độc tài đảng trị tại Việt Nam, làm chính trị đồng nghĩa với việc tham gia vào đảng cộng sản, chứ không có một tổ chức chính trị nào khác để giáo dân có thể chọn lựa. Chỉ những ai muốn thăng tiến để được vào các vị trí hàng đầu trong cơ quan, xí nghiệp thì chẳng đặng đừng mới gia nhập đảng cộng sản. Thực lòng họ luôn chống đối đường lối và tư tưởng của đảng cộng sản, họ tham gia chỉ để tiến thân mà thôi.

Linh mục Nguyễn Văn Khải, DCCT nói rằng tại Việt Nam: “Các tổ chức tôn giáo và tín đồ của các tôn giáo không được tự do và bình đẳng trong lãnh vực chính trị, không được nắm các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước.” Vì thế, những ai gia nhập đảng cộng sản luôn giấu mình, không cho thiên hạ biết mình là người có tôn giáo, đặc biệt người Công giáo thì lại càng bị kỳ thị nhiều hơn nữa.

Nguyên nhân thứ hai là tại Việt Nam, bất cứ ai nói hay làm khác với đường lối của đảng cộng sản thì bị chụp mũ là phản động và bị cáo buộc vào các tội danh quy định tại các điều 79 và 88 bộ luật hình sự. Vì thế, giáo dân Việt Nam cũng rất sợ dính dáng tới chính trị, đặc biệt ở miền Nam VN.

Thái độ của các chủ chăn trong Hội thánh Công giáo VN cũng là một nguyên nhân làm cho giáo dân không muốn dấn thân vào lãnh vực chính trị. Chính các vị đã không bao giờ triển khai, giúp giáo dân học hỏi và thực hành các văn kiện của Hội thánh về vấn đề này, mặc dù tuổi đời của các văn kiện ấy “trẻ nhất” cũng là 23 như Tông huấn Christifideles Laici trên đây. Còn Hiến chế Gaudium et Spes của Công Đồng Vatican II thì ra đời cách đây đã 46 năm rồi. Đến như Ủy ban Công lý và Hòa bình của HĐGMVN cũng bị rơi vào tình trạng “hiếm muộn” khi mãi đến cuối tháng 5/2011 mới được chào đời. Ủy ban “em út” này bị o ép bởi chính những người sinh ra nó khiến nó cũng khó lòng phát triển một cách bình thường đúng với vai trò và chức năng của nó.

Một hậu quả tất yếu là nếu giáo dân không dấn thân vào chính trị thì chính Hội Thánh sẽ bị thiệt hại, chứ không ai khác. Một bộ luật của quốc gia nếu ban hành mà các thành viên được quyền bỏ phiếu đều là những người chống Hội Thánh thì khi ra đời luật ấy sẽ chống lại và loại trừ Hội Thánh. Khi ấy, Hội Thánh phải chịu thiệt thòi và bị ức hiếp là cái chắc.

 Ngày 11/4/2011, Pháp chính thức trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới cấm người dân đeo mạng che mặt ở các địa điểm công cộng. Luật này đã gây phẫn nộ trong cộng đồng Hồi giáo vì đó là một sự lăng mạ đối với quyền tự do ngôn luận và tôn giáo của công dân. Tuy nhiên, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã vận động quốc hội thông qua lệnh cấm này từ gần hai năm trước. Theo ông, mạng che mặt là công cụ cầm tù phụ nữ và chống lại các giá trị về danh dự, bình đẳng của Pháp!??? Luật cấm đeo mạng che mặt ở nơi công cộng nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của dư luận khi quốc hội phê chuẩn nó năm ngoái, AP cho biết. (http://www.baoyenbai.com.vn/18/72078/Phap_cam_nguoi_dan_che_mat_noi_cong_cong.htm). Xã hội tục hóa Pháp đã loại trừ Hội Thánh.

Giữa năm 2010, Tòa Án nhân quyền Âu Châu cấm treo Thánh giá trong các trường công lập tại Ý. Tòa thánh đã nhiều lần lên tiếng phán đối phán quyết của Tòa án nhân quyền Âu châu. Tại sao thế? Bởi những kẻ chống phá Hội thánh, rất đông đảo, đang nắm quyền trong cơ quan quyền lực.

Nếu người Công giáo Việt Nam xa lạ với chính trị thì tương lai Hội thánh sẽ không có tiếng nói trong xã hội dân sự về những vấn đề liên quan đến đời sống đức tin. Giả sử một ngày nào đó quốc hội VN bỏ phiếu cấm đeo thánh giá nơi công cộng, không biết Hội thánh sẽ phản ứng ra sao? Nếu từ trước tới nay Hội thánh đã im lặng trong mọi vấn đề thì lúc ấy cũng vẫn chỉ là im lặng.

Lời thúc bách của Tông huấn Kitô hữu giáo dân, số 42 vẫn còn xa lạ với người Công giáo Việt Nam “giáo dân tuyệt đối không thể từ chối tham gia vào ‘chính trị’”.

Hiếu Minh, VRNs

LTCG (02.10.2011)  – Sài Gòn – Người tín hữu giáo dân, đặc biệt giáo dân Sàigòn, tháng 9 vừa qua được đánh động bởi những bài giáo huấn, bài phát biểu của Đức Thánh Cha Benedictô khi ngài về quê hương là nước Đức.

Người tín hữu giáo dân cũng được hâm nóng lên khi các cha giảng lễ và các website mới đây nhắc lại Tông huấn “Kitô hữu giáo dân” (Christifideles Laici) của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.

Cả hai vị giáo hoàng đều nhắc đến công lý và hoà bình, đến bổn phận Kytô hữu.

Đức Chân phúc Gioan Phaolô II đã viết: “Chúng ta hãy nghĩ đến vô số xúc phạm đến phẩm giá của con người ngày nay. Một khi không được nhìn nhận và yêu mến theo phẩm giá là hình ảnh sống động của Thiên Chúa (x. St 1,26), thì con người bị biến thành công cụ, thành nô lệ, cho bạo quyền dưới muôn vàn hình thức sai lạc và bỉ ổi.”

Ngài cũng viết: “Các tín hữu giáo dân không thể khoanh tay ngồi nhìn như kẻ bàng quan lười biếng trước những gì phá hoại hay tổn thương hoà bình, như vũ lực và chiến tranh, tra tấn hay khủng bố, trại tập trung…”

“Là môn đệ của Đức Giêsu Kitô, Vua hoà bình, các tín hữu giáo dân phải nhận lãnh bổn phận làm người kiến hoà bình bằng cuộc sống trở về với Chúa và bằng các hoạt động vì sự thật, vì tự do, vì công bình, vì bác ái, đó là những nền tảng vững chắc của hoà bình

Ngài còn viết nhiều về bổn phận lên tiếng cho công lý hoà bình.

Thánh Công đồng chung Vatican II đã dạy: “Giáo Hội ca ngợi và quý trọng việc làm của những người vì lợi ích quốc gia mà dấn thân phục vụ con người cùng nhận lãnh gánh nặng của trách nhiệm này”.

Đức Benedictô XVI thì nói tại quê hương mình:“Các nhà chính trị phải nỗ lực để mang lại công lý và do đó tạo ra các điều kiện tiên quyết cho hòa bình”

Ngài trích dẫn tư tưởng của Thánh Giám mục Augustinô của thế kỷ III: “Đánh mất nền công lý thì nhà nước còn lại điều gì, ngoài lũ trộm cướp” để dẫn giải vào ý tưởng trình bày của Ngài cho các chính trị gia Đức.

Với giới trẻ trong Đêm Canh thức tại Freiburg, Đức Thánh Cha nói: “Ở thời điểm này, chúng ta không thể tiếp tục im lặng trước sự hiện hữu của sự dữ.”

Còn “Lời chủ chăn” của giáo phận Sàigòn thì lại viết: “nhiều người mang tâm trạng bất mãn, thối chí và khép lại trong bản năng tự vệ để sinh tồn, khiến tâm trí con người bị đình bộ, lập trường và thái độ bị đóng băng trong tư thế dễ gây hấn và chống đối.”

Trong lúc nhiều người đang lên tiếng để đề cao và cầu nguyện cho công lý và sự thật, những lời ấy làm cho giới trẻ có cảm giác những ai đi tìm công lý là bất mãn, khép lại hay chống đối.

Người trẻ biết nghe ai bây giờ, nghe lời các Đức Giáo Hoàng để sống cho công lý, sự thật, tình yêu, hay phải cúi đầu lặng lẽ bước đi, mặc người nghèo của Thiên Chúa sống chết ra sao tuỳ họ?

“Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”

Gioan Lê Quang Vinh, VRNs

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


GIẢ NHƯ TÔI LÀ MỘT CÁN BỘ GIÁO DÂN

If I Were a Local Church Lay Leader

Linh mục tiến sĩ Herchel H. Sheets

 

Lời giới thiệu:

Báo điện tử Maranatha số 36-37có bài GIẢ NHƯ TÔI LÀ MỘT GIÁO DÂN LÃNH ĐẠO (IF I WERE A LOCAL CHURCH LAY LEADER) của linh mục tiến sĩ Herchel H. Sheets. Bài viết có nội dung phong phú và thực tế rất cần cho nhiều giáo dân và ích lợi cho cả các linh mục coi xứ. Nhưng tiếc rằng lời văn của bản dịch hơi lủng củng khiến độc gỉa khó thưởng thức được sự thâm thúy và sâu sắc của các ý tưởng và kinh nghiệm mục vụ của tác giả. Vì tầm quan trọng của vấn đề nên chúng tôi xin mạn phép viết lại nội dung của bài viết trên với cố gắng làm cho lời văn sáng sủa, dễ đọc, dễ tiếp nhận hơn, trong khi vẫn trung thành với các ý tưởng của tác gỉa.

 

Trong bài viết lại tôi dùng chữ ‘Cán bộ Giáo dân’ thay cho chữ ‘Giáo dân lãnh đạo’ với lý do sau đây: ‘Giáo dân lãnh đạo’ (lay leaders) là một chữ thường được sử dụng trong các tài liệu của nhiều Giáo hội nên rất quen thuộc với giáo dân của các Giáo hội ấy kể cả những người Công giáo Việt Nam hải ngoại. Nhưng chữ ấy lại còn rất xa lạ với não trạng và ngôn ngữ Công giáo trong nước. Thậm chí hai chữ ấy còn có thể tạo nên sự «ngộ nhận» nơi một số người lãnh đạo cả trong Giáo hội lẫn ngoài xã hội. Còn chữ ‘Cán bộ Giáo dân’ có vẻ hiền lành hơn và gần gũi với tâm thức của người Công giáo trong nước hơn. Có người dị ứng với chữ ‘cán bộ’, vì cho rằng đó là ngôn ngữ của chế độ hiện nay ở Việt Nam. Thật ra chữ ‘cán bộ’ đã được dùng khá nhiều tại Miền Nam Việt Nam trước đây cả ngoài xã hội lẫn trong Giáo hội. Ví dụ: cán bộ nông thôn, cán bộ phát triển cộng đồng, cán bộ công giáo tiến hành, cán bộ truyền giáo v.v... Và chữ ‘Cán bộ Giáo dân’ có đủ sức chuyển tải nội dung tôn giáo mà chúng ta muốn trình bày. Vì thế chúng ta chẳng có gì phải ngại, nhất là trong nỗ lực Hội Nhập Văn Hóa theo tinh thần và đường hướng của Công Đồng Vatican II.

 

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội (16.08.2005).

 

*****

 

Dù tôi không phải là một Cán bộ Giáo dân, tôi cũng rất muốn viết về đề tài này. Là một linh mục, tôi đã từng biết và làm việc với nhiều Cán bộ Giáo dân nên tôi nghĩ rằng mình hiểu được ít nhiều vị thế của họ và những gì mà họ phải sống hoặc phải làm. Tôi sẽ đưa ra ý kiến của mình và các bạn đánh gía ý kiến của tôi như thế nào thì tùy các bạn. Tôi cho rằng người Cán bộ Giáo dân cần thực hiện 8 điều sau đây:

1.- Thứ nhất, giả như tôi là một Cán bộ Giáo dân trong/của Giáo xứ, tôi sẽ cố gắng ủng hộ cha xứ tôi hết mình và nếu có thể tôi sẽ trở nên bạn thân của cha xứ tôi.

Hầu như bất kỳ một linh mục nào đã từng phục vụ các giáo xứ đều cho rằng làm chính xứ ở thời buổi này thì cực hơn ở thời trước nhiều. Thật vậy ngày nay đối với cha xứ, các đòi hỏi thì nhiều hơn, yêu cầu thì cao hơn, công việc thì đa đoan và phức tạp hơn. Hơn nữa, ở nhiều nơi, vị trí của cha xứ không được xem trọng như xưa và nền văn hóa hiện nay của chúng ta khuyến khích người ta phê phán những người ở vị trí lãnh đạo hay cầm quyền, ngoài đời cũng như trong đạo. Hệ quả là nhiều cha xứ sống trong tình trạng cô độc, chán nản, ngã lòng và nghi ngờ. Là con người, các ngài cũng cần biết rằng có người giáo dân quan tâm đến mình, để ý đến mình như là những con người, và các ngài có thể tin tưởng vào sự thân tình của họ.

Vì thế cho nên, giả như tôi là một Cán bộ Giáo dân trong/của Giáo xứ, tôi sẽ cố gắng ủng hộ cha xứ tôi hết mình và nếu có thể tôi sẽ trở nên người bạn thân của ngài, mà không chờ đợi ngài phải chú ý hay quan tâm đến tôi.

2.- Thứ hai, giả như tôi là một Cán bộ Giáo dân trong/của Giáo xứ, tôi sẽ tìm cách thể hiện sự thông cảm và lòng chân thành trong tương quan với cha xứ tôi.

Robert Frost viết trong một bài thơ của mình về cuộc ‘cãi vã của người yêu với thế giới’. Trong giáo xứ đôi khi cũng xẩy ra cãi vã giữa những thành viên với cộng đoàn hay với cha xứ, nhưng những cãi vã ấy không phải lúc nào cũng là ‘các cuộc cãi vã giữa những người yêu’, vì thiếu thông cảm và quan tâm lẫn nhau. Người ta phê bình lẫn nhau nhưng không ở trong bầu khí tương thân tương kính. Mặt khác, nhiều người có thể quan tâm đến cha xứ, nhưng cha xứ không thể tin tưởng rằng họ thẳng thắn và thành thật với mình. Thay vì chấp nhận nguy cơ làm tổn thương tình cảm của cha xứ hoặc phá hỏng tương quan tốt đẹp với ngài, họ giấu giếm tình cảm thật của họ, họ không dám nói lên lời phê bình, họ giấu sự thật với cha xứ. Cha xứ cần bạn hữu thân tình, cha xứ cần những thành viên giáo xứ thực sự quan tâm đến mình. Nhưng tình bạn đòi hỏi sự thành thật và không chấp nhận sự giả dối. Tình bạn dựa trên sự thật, chứ không phải trên sự sai lầm. Cha xứ cần một người mà mình có thể tin cẩn để nói cho mình biết sự thật – nói với lòng yêu thương - nhưng phải nói.

Vì thế cho nên giả như tôi là một Cán bộ Giáo dân trong/của Giáo xứ, tôi sẽ tìm cách thể hiện sự thông cảm và lòng chân thành trong tương quan với cha xứ tôi.

3.-Thứ ba, giả như tôi là một Cán bộ Giáo dân trong/của Giáo Hội địa phương, tôi sẽ cầu nguyện và dấn thân xây dựng sự trưởng thành tình cảm và tâm linh của bản thân, giúp tôi thoát khỏi những điều nhỏ nhen ti tiện.

Với tư cách là linh mục quản hạt, tôi rất bị xốc vì thấy những điều ti tiện len lỏi vào những tương quan trong giáo xứ làm cản trở và ngăn chặn sứ vụ của giáo xứ. Nhưng tôi biết điều này từ lâu rồi, vì trước khi làm linh mục quản hạt thì trong tư cách là một cha xứ, đôi khi tôi là cũng đã là đối tượng của những điều ti tiện ấy. Thậm chí có khi tôi phải hứng chịu sự giận dữ và cuồng nộ của những con người nhỏ nhen. Tôi thường nói với những cặp thanh niên nam nữ học giáo lý hôn nhân với tôi rằng trong hôn nhân thì sự trưởng thành cũng quan trọng như tình yêu. Điều này có vẻ lạ tai và khó tin, nhưng tôi đã thấy nhiều người phải đau khổ trong hôn nhân do nguyên nhân là thiếu sự trưởng thành tình cảm và tâm linh của hai người phối ngẫu. Và tôi cũng đã từng thấy bao nhiêu khổ đau trong giáo xứ vì sự thiếu trưởng thành. Những điều nhỏ nhen, ti tiện gây nhiều xáo trộn trong các giáo xứ hơn bất cứ điều gì khác. Tôi nhớ lại lời của cố tiến sĩ Claud M. Haynes từng nói rằng cái khu vực lớn nhất trong nhiều giáo xứ, xét về độ tuổi tình cảm và tâm linh, là khu vực nhà trẻ. Có nghĩa là trong nhiều giáo xứ còn thiếu sự trưởng thành tình cảm và tâm linh.

Vì thế cho nên giả như tôi là một Cán bộ Giáo Dân trong/của Giáo Hội địa phương, tôi sẽ thường xuyên hướng đến tình trạng viên mãn của Chúa Kitô, và như thế cha xứ có thể biết rằng tôi sẽ không bao giờ bị những điều nhỏ nhen ti tiện lèo lái.

4.-Thứ tư, giả như tôi là một Cán bộ Giáo dân trong/của Giáo Hội địa phương, tôi sẽ cẩn trọng trong lời nói của tôi.

Elie Wiesel kể rằng vào thế kỷ 18 có một ráp-bi (nhà hiền triết) rất nối tiếng vì nói rất ngắn gọn. Ngài khuyên các nhà truyền giảng như sau: Hãy nhập đề vắn tắt và kết luận gãy gọn, và không nói lời nào ở giữa cả. Hẳn là bạn muốn khuyên cha xứ mình như vậy. Nhưng đấy không phải là điều tôi muốn nói. Tư tưởng của Wiesel rất gần với ý nghĩ của tôi, khi ông bảo rằng những vị hiền triết xưa kia tuyên bố rằng người ta mất ba (3) năm để học nói và mất bảy muơi (70) năm để học im lặng. Có những lúc, điều giáo xứ cần nhất lại chính là sự im lặng. Các vấn đề có thể qua đi hoặc nhẹ bớt, hoặc không bao giờ nổi lên, nếu các thành viên trong cộng đoàn biết làm chủ miệng lưỡi mình. Bạn có biết cách hay nhất để đối diện với dư luận không? - Để cho nó chết đi vì mình không buồn nhắc đến nó.

Vì thế cho nên, giả như tôi là một Cán bộ Giáo Dân trong/của Giáo Hội địa phương, cha xứ có thể tin rằng tôi không chuyền tai những lời bàn tán hay dư luận mà tôi vô tình nghe được.

5.- Thứ năm, giả như tôi là một Cán bộ Giáo dân trong/của Giáo xứ, tôi sẽ xa lánh thái độ bi quan như xa lánh dịch hạch.

Một hôm, tôi ra xe sau khi mua một vài món hàng. Cạnh đó, một cậu thanh niên giúp một bà cụ già đưa hàng lên xe. Cậu cố gắng bắt chuyện với bà, nên vui vẻ nói: “Hôm nay trời đẹp quá, hả bác?” Bà già đáp: “Ờ, nhưng ngày mai lại mưa nữa cho mà xem!” Cái đẹp của trời hôm nay đã bị cơn mưa của ngày mai làm xấu đi mất rồi! Thái độ này cũng có thể đưa vào giáo xứ nữa, và ít có điều gì nguy hại cho sức khoẻ của giáo xứ cho bằng thái độ bi quan. Nếu quá nhiều người nghĩ những điều tồi tệ về Giáo Hội, thì những điều tồi tệ ấy có thể xảy ra. Dĩ nhiên, thực tế phải có chỗ đứng, nhưng bởi lẽ Giáo Hội là Giáo Hội của Chúa Kitô, nên thái độ lạc quan cũng phải có chỗ đứng chứ. Stuart Briscoe từng là cha xứ của Giáo Xứ Elmbrook ở Mil-waukee, Wisconsin, hơn 15 năm trường. Trong một cuộc phỏng vấn, người ta hỏi cha muốn được ghi gì trên bia mộ của mình. Người nhà của cha trả lời: “Nơi đây yên nghỉ Stuart Briscoe, người không bao giờ lo lắng trước cho một khó khăn chưa đến”. Có thể như thế là đi hơi xa, nhưng trong giáo xứ nào cũng cần có ít ra là một vài người tích cực khẳng định lập trường và thái độ lạc quan của mình.

Vì thế cho nên, giả như tôi là một Cán bộ Giáo Dân trong/của Giáo xứ, tôi sẽ cố gắng làm một người lạc quan như thế.

6.- Thứ sáu, giả như tôi là một Cán bộ Giáo dân trong/của Giáo xứ, tôi sẽ tìm cách có được và gìn giữ một cái nhìn bao quát trên đời sống giáo xứ tôi.

Biết bao lần bạn nghe nói đến một hoạt động nào đó của giáo xứ và có người thốt lên: “Tôi đâu biết rằng chúng ta đang làm chuyện ấy”? Giáo xứ càng lớn, thì càng khó biết chuyện gì xảy ra, và trong một số giáo xứ, nếu chỉ có một người duy nhất biết mọi điều đang xảy ra, thì có nghĩa là chưa đủ. Chúng ta mong cha xứ biết rõ đời sống và chương trình giáo xứ. Nhưng nếu người Cán bộ Giáo dân sống đúng với ý nghĩa hạn từ ấy, thì có một người khác cũng cần biết rõ đời sống và chương trình giáo xứ. Chỉ khi nào bạn biết rõ giáo xứ thì mới lãnh đạo được giáo xứ. Một khía cạnh khác, ấy là nếu bạn nhìn thấy tổng thể của giáo xứ, thì bạn ở vị thế tốt hơn để lượng giá. Tôi vừa mới đọc cuốn sách có tựa đề là Phúc Âm về sự Trùng Khớp (The Gospel of Coincidence). Tác giả của cuốn sách trình bày vai trò của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời chúng ta, nhưng vẫn yêu cầu chúng ta cũng cần phải cầu nguyện cho hoàn cảnh của mình. Ông viết: cầu nguyện cho những hoàn cảnh đó là một cách để đối diện với chúng, lượng giá lại, có những ý tưởng mới để giải quyết chúng, và thay đổi thái độ chúng ta đối với các hoàn cảnh ấy. Ông còn bảo rằng lời khuyên chúng ta hãy đặt những ưu tư của mình dưới chân Chúa là một lời khuyên đúng đắn, không phải vì Thiên Chúa sẽ giải quyết vấn đề của chúng ta, nhưng khi chúng ta đặt ưu tư dưới chân Người, thì chúng ta có thể bắt đầu nhìn chúng dưới góc độ khác. Nhìn giáo xứ với một cái nhìn tổng thể cũng có tác dụng đối với góc nhìn của chúng ta. Chúng ta có thể nhìn thấy những khía cạnh đặc biệt của giáo xứ dưói góc độ rõ hơn, nếu ta nhìn chúng trong tổng thể.

Vì thế cho nên, giả như tôi là một Cán bộ Giáo Dân trong/của Giáo xứ, tôi sẽ cố gắng có được và gìn giữ một cái nhìn bao quát trên đời sống và chương trình giáo xứ tôi.

7.- Thứ bảy, giả như tôi là một Cán bộ Giáo dân trong/của Giáo xứ, tôi sẽ tìm cách hiểu rõ hơn về ‘Tính Hiệp Thông’ và phát huy khả năng trình bày Tính Hiệp Thông ấy với cộng đoàn tôi.

Với tư cách là Hội Thánh, căn tính và nhiệm vụ của chúng ta liên quan mật thiết đến việc chúng ta hiểu và sống chiều kích Hiệp Thông. Thời buổi này, cảm thức về sự Hiệp Thông đang lâm nguy. Đây là điều khá kỳ lạ, bởi lẽ tinh thần cục bộ còn rất mạnh, dẫu cho thế giới trở nên nhỏ bé hơn bao giờ hết, nhờ những phương tiện thông tin và vận chuyển hiện đại. Yêu cầu phải tay nắm tay và làm chủ địa phương mình, tuy chính đáng, cũng có thể làm hỏng tinh thần Hiệp Thông. Ngay cả những giáo xứ rộng lớn của chúng ta cũng có thể trở thành khép kín, có thể nghĩ rằng mình đầy đủ rồi, có thể muốn độc lập và không dính dấp với bất cứ ai và bất cứ gì khác. Thế nhưng nếu tinh thần Hiệp Thông bị phá hủy, thì phần lớn tính chất duy nhất của Giáo Hội cũng sẽ tiêu tan. Chính qua tinh thần Hiệp Thông mà chúng ta thực thi sứ mạng của mình trên khắp cùng mặt đất.

Vì thế cho nên, giả như tôi là một Cán bộ Giáo Dân trong/của Giáo xứ, tôi sẽ không trao hết công việc ấy cho một mình cha xứ. Tôi sẽ chia sẻ trách nhiệm ấy với ngài. Tôi sẽ liên lỉ theo dỏi về giáo hạt, về buổi gặp gỡ thường niên, về pháp lý, về Giáo Hội toàn cầu. Tôi sẽ thường xuyên học làm quen với vô vàn cách thức mà chúng ta thực thi sứ mệnh vì Chúa Kitô trên khắp thế gian này, Và tôi sẽ học cách kể lại câu chuyện ấy mà giúp cộng đồng giáo xứ tôi tự hào và vui mừng trong Giáo Hội chúng ta, đồng thời đáp ứng và chia sẻ sứ mệnh ấy một cách hân hoan và quảng đại.

8.- Thứ tám, giả như tôi là một Cán bộ Giáo dân trong/của Giáo xứ, tôi sẽ cố gắng nhớ và giúp đỡ anh chị em mình nhớ rằng Giáo Hội là của Thiên Chúa.

Giáo Hội là gì? Dĩ nhiên Giáo Hội là những con người, có nghĩa là chúng ta làm nên Giáo Hội. Nếu chúng ta là Giáo Hội thì Giáo Hội lại không phải là của chúng ta. Chúng ta không thể nào là một sở hữu của chính mình; chúng ta là của Thiên Chúa. Giáo Hội là một sở hữu của Thiên Chúa, chứ không phải là của chúng ta. Nếu chúng ta thực sự hiểu và tin như thế thì chúng ta hẳn vừa kính trọng vừa hy vọng đối với Giáo Hội: Kính trọng, vì nếu Giáo Hội là của Thiên Chúa, thì Giáo Hội không phải là một tổ chức vô nghĩa; và hy vọng, vì nếu Giáo Hội là của Thiên Chúa, thì cả tương lai lẫn cùng đích của Giáo Hội không nằm trong tay của chúng ta. Đức Cha Helder Camara từng là Tổng Giám mục giáo phận Olinda và Recife ở miền đông bắc Brazil từ 1964 đến 1985. Với tư cách là chủ chăn trên một vùng nông thôn rộng lớn và nghèo xơ nghèo xác, ngài trở nên phát ngôn viên cho người dân ở mọi nơi, những người cùng chia sẻ niềm xác tín của ngài về sự thật, công lý và tự do chống lại mọi hình thức áp bức. Trong những chuyến công du của ngài tại Âu Châu, ngài trả lời rất nhiều câu hỏi, mà có những câu phản ánh một sự kính trọng và hy vọng đối với Giáo Hội ít hơn là thái độ của ngài. Khi trả lời một trong những câu như thế, ngài công nhận rằng: “Giáo Hội không phải lúc nào cũng dễ thương và tinh tuyền, can đảm và thành thật, như là đáng lẽ phải như vậy”. Ngài bảo rằng khi thiết lập Giáo Hội, Chúa đã mặc lấy sự yếu hèn của con người, nhưng qua lời hứa không bao giờ bỏ rơi Giáo Hội, Ngài đã ban cho Giáo Hội một sức mạnh đặc biệt. Ngài nói: “Tôi là một giám mục già, và tôi đủ tự tin để yêu cầu các bạn đừng bao giờ chịu thua những yếu hèn, những thỏa hiệp, thậm chí những gian trá của Giáo Hội, nghĩa là không bao giờ thất vọng đối với Thần Khí của Chúa, Đấng không bao giờ ngưng ở lại trong Giáo Hội”.

Vì thế cho nên, giả như tôi là một Cán bộ Giáo Dân trong/của Giáo xứ, tôi sẽ cố gắng nhớ và giúp đỡ anh chị em mình nhớ rằng Giáo Hội là của Thiên Chúa.

 

TẠM KẾT

Có lẽ nói như thế là đủ rồi. Tôi đã không nói gì về cầu nguyện hay học hỏi Kinh Thánh hoặc việc bác ái hay đi nhà thờ. Tôi cho rằng những việc đó là đương nhiên. Tôi cho rằng ai trung thành với Giáo Hội thì đương nhiên sẽ cầu nguyện, làm việc bác ái và tham gia phụng vụ. Tôi mong rằng mọi giáo xứ đều có nhiều giáo dân trung thành với giao ước của họ qua phép rửa và với lời hứa của một tín hữu trong Giáo Hội. Nhưng tôi cũng mong rằng mỗi giáo xứ đều có một vài Cán bộ Giáo Dân có lòng thông cảm và những đức tính nêu trên.

Tôi sẽ không bao giờ là một Cán bộ Giáo dân, nhưng giả như tôi là một Cán bộ Giáo dân, tôi sẽ cố gắng trở thành một giáo dân như thế...

Nếu bạn chưa phải là một Cán bộ Giáo Dân giống như tôi mô tả, tôi nguyện cầu cho bạn trở nên một người như thế.

TỦ SÁCH THĂNG TIẾN GIÁO DÂN

 

 

 

 

 

 

 

GIÁO DÂN HỢP TUYỂN

 

SỐ 2 THÁNG 4/2012 VỚI CHỦ ĐỀ

GIÁO DÂN VIỆT NAM

VỚI CÔNG ĐỒNG VATICAN II

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

GIÊRÔNIMô nguyỄN VĂN NỘI

VÀ NHÓM BẠN THỰC HIỆN

 

 

 

 

LỜI NGỎ

 

 

1. Giáo dân hỢp tuyỂN (GDHT) số 1 ra mắt vào đúng ngày sinh hoạt Tất Niên (31.12.2011) của Câu Lạc Bộ Phao-lô Nguyễn Văn Bình, kỷ niệm 5 năm ngày thành lập. Nhờ đó mà đã đến tay một số Linh mục, Tu sĩ và Giáo dân là thành viên và bạn hữu của Câu Lạc Bộ. Đôi lời cảm ơn, khích lệ, hoan nghênh thiện chí và nỗ lực của Nhóm khiến anh chị em chúng tôi cảm thấy ấm lòng.

Sau ngày ra mắt ấy Giáo Dân Giáo Dân Hợp Tuyển số 1 đã được một số Nhóm và Giáo xứ đón nhận một cách hào hứng như nhóm Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Nhóm Doanh Nhân Công Giáo Sài-gòn, Phong Trào Cursillo, Tổng Giáo Phận Sài-gòn, nhóm cựu học viên Giáo Hoàng Học Viện Pio X Đà Lạt, giáo xứ Nhân Hòa, Tân Phước và các học viên các Khóa Thánh Kinh và Thần Học.

 

2. Vì thế Giáo dân hỢp tuyỂN (GDHT) số 2 sẽ đến tay anh chị em và các bạn trong Mùa Chay 2012 để đáp lại lòng tốt của những người anh em thao thức với   

 

Trong Giáo dân hỢp tuyỂN (GDHT) số 2/2012 này gồm có 9 bài như sau:

1. “Hiểu và sống Sứ Điệp của Chay 2012 của Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI” của ông Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.

2. “Công Đồng Vatican II là Kim Chỉ Nam cho thế kỷ XXI” của Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II.

3. “Công Đồng Vatican II là Công Đồng về Giáo Hội” của ông Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

4. “Công Đồng Vatican II là Công Đồng của Giáo dân” của ông Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

5. “Bản Đúc Kết Buổi Thảo Luận của Lớp Linh Đạo Giáo Dân” của Trung Tâm Mục Vụ Đa Minh.

6. “Bốn Đề Tài Chính của Công Đồng Vatican II” của Đức Cha Gio-an Bao-ti-xi-ta Bùi Tuần (khi ngài còn là Giám Mục Phó giáo phận Long Xuyên). 

7. “Ba Thao Thức xuất phát từ Công Đồng Vatican II và hoàn cảnh Việt Nam” của Đức Cha Gio-an Bao-ti-xi-ta Bùi Tuần (khi ngài còn là Giám Mục Phó giáo phận Long Xuyên). 

8. “Địa vị và sứ mệnh của Giáo dân” của Linh mục Giuse Hoàng Kim Đại, chính xứ Chợ Lách, Bến Tre.

9. “Thể hiện Giáo Hội một cách mới theo Công Đồng và Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu” của Linh mục Tiến Sĩ Phê-rô Phan Đình Cho (hiện là giáo sư Đại Học Georgetown của Dòng Tên, DC, Hoa Kỳ.)

 

Chúng tôi xin chân thành cám ơn các tác giả có bài trong GDHT số 2/2012 này. Vì việc làm không hề có tính thương mại, chúng tôi tin chắc rằng các tác giả ủng hộ chúng tôi trong việc tạo điều kiện cho nhiều anh chị em Giáo Dân có cơ hội tiếp cận các bài viết giá trị của các ngài.

Chúng tôi rất mong được nhiều Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ và Giáo Dân tham gia góp bài và góp ý cho các số tới.

 

Hy vọng những bài viết trong GDHT số 2/2012 này đáp ứng một phần nào nhu cầu và ước nguyện của nhiều Giáo Dân trong việc nâng cao kiến thức về thần học và giáo hội học cũng như về lịch sử liên quan tới Giáo Dân. Cũng hy vọng GIÁO DÂN HỢP TUYỂN số 3/2012 sẽ ra mắt phục vụ các thành phần Dân Chúa vào Mùa Thánh Thần

 

Nguyện xin Chúa chúc lành cho công việc nhỏ bé của chúng con. Chúng con xin dâng lên Chúa Phục Sinh tập tài liệu này làm món quà mọn.

 

Sài-gòn Mùa Chay 2012.

 

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội và Nhóm Bạn


HIỂU & SỐNG SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2012

cỦa ĐỨc ThÁnh Cha BÊ-nÊ-Đic-tÔ XVI

 

LỜI NGỎ

Quý anh chị học viên các Khóa Thánh Kinh và Thần Học và các anh chị em, bạn hữu gần xa quý mến,

 

Ai trong chúng ta cũng hiểu (ít/nhiều) ý nghĩa và tầm quan trọng của Mùa Chay. Nhưng người hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng của Mùa Chay một cách sâu sắc và đầy đủ nhất chắc phải là Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI của chúng ta. Ngài chẳng những hiểu mà còn có trách nhiệm giúp con cái mình hiểu và sống trọn vẹn ý nghĩa của Mùa Chay. Để làm việc đó Ngài đã gửi cho toàn thể Dân Chúa trên khắp thế giới này một sứ điệp, gọi là Sứ Điệp Mùa Chay 2012. Bổn phận của chúng ta là đọc, tìm hiểu và sống (thực thi) Sứ Điệp ấy.

Để giúp quý anh chị và các bạn trong việc hệ trọng này, tôi xin mạn phép được gợi ý đôi điều.

 

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

Sài-gòn ngày 14 tháng 02 năm 2012

 

 

PHẦN I : ĐỌC SỨ ĐiỆp MÙa Chay 2012 cỦa ĐỨc ThÁnh Cha BÊ-nÊ-Đic-tÔ XVI

 

“Chúng ta hãy quan tâm đối với nhau, để khích lệ nhau trong đức bác ái và các công việc lành” (Dt 10,24).

 

Anh chị em,

Một lần nữa Mùa Chay cống hiến cho chúng ta cơ hội suy tư về nòng cốt đời sống Ki-tô, đó là đức bác ái. Thực vậy, đây là thời kỳ thuận tiện để, nhờ sự trợ giúp của Lời Chúa và các Bí Tích, chúng ta đổi mới hành trình đức tin, trên bình diện bản thân cũng như cộng đồng. Đây là một hành trình được đánh dấu bằng kinh nguyện và chia sẻ, thinh lặng và chay tịnh, trong khi chờ đợi niềm vui Phục Sinh.

Năm nay, tôi muốn đề nghị một vài suy tư dưới ánh sáng một văn bản ngắn của Kinh Thánh rút từ Thư gửi Tín Hữu Do-thái: “Chúng ta hãy quan tâm đối với nhau để khích lệ nhau trong đức bác ái và trong việc lành” (10,24). Đây là một câu được đưa vào một đoạn văn trong đó tác giả Sách Thánh nhắn nhủ hãy tín thác nơi Chúa Giê-su Ki-tô như vị Thượng Tế, Đấng đã đạt cho chúng ta ơn tha thứ và dẫn đến Thiên Chúa. Thành quả việc đón nhận Chúa Ki-tô là một đời sống được phát triển theo 3 nhân đức hướng thần, đó là: tiến đến gần Chúa “với con tim chân thành trong sự viên mãn của đức tin” (c.22), giữ vững “việc tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta” (c.23) luôn chú ý thi hành “đức bác ái và các việc lành” (c.24) cùng với các anh em khác. Đoạn này cũng khẳng định rằng để nâng đỡ cách cư xử theo tinh thần Tin Mừng như thế, điều quan trọng là tham dự các buổi gặp gỡ phụng vụ và cầu nguyện của cộng đoàn, hướng nhìn về mục tiêu mai hậu là sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa (c.25). Tôi dừng lại ở câu 24: qua vài chữ, câu này cống hiến một giáo huấn quí giá và luôn thời sự về 3 khía cạnh của đời sống Ki-tô, đó là quan tâm đến tha nhân, tính chất hỗ tương và sự thánh thiện bản thân.

 

1. “Chúng ta hãy quan tâm”: trách nhiệm đối với người anh em.

Yếu tố đầu tiên là lời mời gọi “hãy quan tâm”, hãy chú ý: động từ Hy-lạp dùng ở đây là Katanoein, có nghĩa là quan sát kỹ lưỡng, chú ý, nhìn một cách ý thức, nhận thức một thực tại. Chúng ta thấy động từ này trong Tin Mừng, khi Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ hãy “quan sát” chim trên trời, tuy không làm việc vất vả, nhưng chúng vẫn được Chúa Quan Phòng ân cần chăm sóc (x. Lc 12,24), và hãy “nhận ra” cái xà trong mắt mình trước khi nhìn thấy cọng rơm trong mắt của người anh em (x. Lc 6,41). Chúng ta cũng thấy động từ ấy trong một đoạn khác của Thư gửi Tín hữu Do- thái, như lời mời gọi hãy “chú ý đến Chúa Giê-su” (3,1), là tông đồ và là thượng tế của đạo chúng ta. Vì thế, động từ mở đầu lời nhắn nhủ chúng ta, mời gọi hãy chăm chú nhìn người khác, trước tiên là nhìn Chúa Giê-su, và chú ý đối với nhau, đừng tỏ ra là người xa lạ với nhau, đừng dửng dưng về số phận của các anh em. Thực tế, ta thường thấy trái độ trái ngược: dửng dưng, không tha thiết, những thái độ này nảy sinh từ lòng ích kỷ, được che đậy bằng cái vẻ “tôn trọng đời tư của người khác”. Ngày nay, tiếng Chúa cũng vang dội mạnh mẽ kêu gọi mỗi người chúng ta trở thành những người canh giữ anh em mình (x. St. 4,9), thiết lập những quan hệ ân cần đối với nhau, quan tâm đến thiện ích của tha nhân và của mọi người. Đại giới răn yêu thương tha nhân đòi hỏi và yêu cầu chúng ta hãy ý thức mình có trách nhiệm đối với những người là thụ tạo và là con Thiên Chúa, giống như ta: là anh em với nhau trong tư cách là người, và trong nhiều trường hợp, là anh em đồng đạo với nhau, phải làm cho chúng ta nhìn thấy nơi tha nhân như một bản thân khác của mình, được Chúa yêu thương vô biên. Nếu chúng ta vun trồng cái nhìn này về tình huynh đệ, liên đới, công bằng, thì lòng từ bi và cảm thông sẽ tự nhiên nảy sinh từ con tim chúng ta. Vị Tôi Tớ Chúa Phao-lô VI đã khẳng định rằng thế giới ngày nay đau khổ nhất là vì thiếu tình huynh đệ: “Thế giới bệnh hoạn. Bệnh của thế giới này không phải do sự phung phí tài nguyên hoặc vì một số người vơ vét của cải, nhưng là do sự thiếu tình huynh đệ giữa con người và các dân tộc với nhau” (Thông điệp «Phát triển các dân tộc» ngày 26/3/1967, số 66).

Sự quan tâm đến người khác bao gồm ước muốn cho họ điều thiện hảo, dưới mọi khía cạnh: thể lý, luân lý và tinh thần. Nền văn hóa hiện đại dường như đã đánh mất ý thức thiện và ác, giữa lúc cần phải tái mạnh mẽ khẳng định rằng sự thiện hiện hữu và chiến thắng vì Thiên Chúa là “Đấng tốt lành và làm điều thiện” (Tv 119,68). Sự thiện là điều khơi dậy, bảo vệ và thăng tiến sự sống, tình huynh đệ và hiệp thông. Trách nhiệm đối với tha nhân như thế có nghĩa là muốn và làm điều thiện cho họ, mong ước họ cũng được cởi mở đối với tiêu chuẩn điều thiện; quan tâm đến anh em có nghĩa là mở rộng đôi mắt trước những thiếu thốn của họ. Kinh Thánh cảnh giác về nguy cơ con tim chai đá, không còn nhạy cảm về tinh thần, làm cho ta mù quáng trước những đau khổ của tha nhân. Thánh Lu-ca thánh sử kể lại hai dụ ngôn của Chúa Giê-su trong đó có trình bày hai thí dụ về tình trạng như thế có thể xảy ra trong tâm hồn con người. Trong dụ ngôn người Sa-ma-ri-ta-nô nhân lành, vị tư tế và thầy Lê-vi “đi tránh qua bên kia”, dửng dưng đối với người bị cướp bóc lột và đánh đập (x. Lc 10,30-32), và trong dụ ngôn người giàu sụ, người này đầy ứ của cải nên không nhìn thấy thân phận của ông La-gia-rô nghèo khổ chết đói trước cửa nhà ông (x. Lc 16,19). Trong cả hai trường hợp chúng ta thấy thế nào điều là trái ngược với sự “quan tâm”, với cái nhìn yêu thương và cảm thông. Điều gì ngăn cản cái nhìn nhân đạo và yêu thương như thế đối với người anh em? Thường thường đó là sự giàu có vật chất và sự quá đầy đủ, nhưng cũng có thái độ đặt tư lợi và những bận tâm của mình lên trên hết. Không bao giờ chúng ta được thiếu khả năng “có lòng từ bi” đối với người đau khổ: không bao giờ con tim chúng ta được phép bị mất hút trong những sự vật và các vấn đề của mình đến độ trở nên điếc đối với tiếng kêu của người nghèo. Trái lại, chính tâm hồn khiêm tốn và kinh nghiệm bản thân về đau khổ có thể tỏ ra là nguồn mạch sự thức tỉnh nội tâm về sự cảm thông và thương cảm: “Người công chính nhìn nhận quyền của người lầm than, trái lại kẻ gian ác không nghe tiếng nói của lý trí” (Cn 29,7). Như thế ta hiểu hạnh phúc “của những người khóc lóc” (Mt 5,4), nghĩa là những người có khả năng ra khỏi chính mình để cảm động trước đau khổ của tha nhân. Gặp gỡ với tha nhân và mở rộng con tim đối với nhu cầu của họ chính là một cơ hội để được cứu độ và hạnh phúc thật.

Sự “quan tâm” đến người anh em như thế cũng bao gồm sự ân cần đồi với thiện ích thiêng liêng của họ. Và ở đây, tôi muốn nhắc nhớ một khía cạnh của đời sống Ki-tô giáo mà tôi thấy dường như bị lãng quên: đó là sự sửa lỗi huyhnh đệ nhắm đến sự sống đời đời. Nói chung ngày nay người ta rất nhạy cảm đối với những bài nói về sự chăm sóc và tình bác ái đối với thiện ích thể lý và vật chất của tha nhân, nhưng người ta lại hầu như hoàn toàn im lặng về trách nhiệm tinh thần đối với anh em mình. Trong Giáo Hội sơ khai và trong các cộng đoàn thực sự trưởng thành trong đức tin không có thái độ như thế; trong các cộng đồng ấy người ta không những quan tâm đến sức khỏe thể xác của người anh em, nhưng cả sức khỏe tâm hồn của người ấy nữa. Trong Kinh Thánh chúng ta đọc thấy rằng: “Hãy khiển trách người khôn ngoan và họ sẽ biết ơn bạn. Hãy khuyên bảo người khôn ngoan và họ càng khôn ngoan hơn; hãy dạy dỗ người công chính và họ sẽ gia tăng kiến thức” (Cn 9,8ss). Chính Chúa Ki-tô đã truyền phải chính đốn người anh em đang phạm tội (x. Mt 18,15). Động từ dùng để định nghĩa sự sửa lỗi huynh đệ - elenchein - cũng là động từ chỉ sứ vụ ngôn sứ tố giác của các Ki-tô hữu đối với một thế hệ chiều theo điều ác (x. Ep 5,11). Truyền thống của Giáo Hội đã liệt kê việc khuyên bảo tội nhân vào số những hành động từ bi về tinh thần (thương linh hồn bẩy mối). Điều quan trọng là phục hồi chiều kích này của đức bác ái Ki-tô. Không được im lặng trước sự ác. Ở đây tôi nghĩ đến thái độ của những tín hữu Kitô, vì tôn trọng người khác hoặc vì tiện ích, họ chiều theo não trạng chung, thay vì cảnh giác anh em mình về những lối suy nghĩ và hành động trái ngược với sự thật và không theo con đường sự thiện. Nhưng sự khiển trách theo tinh Ki-tô không bao giờ do sự thúc đẩy của tinh thần kết án hoặc trách cứ; nhưng luôn do sự thúc đẩy của tình thương và lòng từ bi, nảy sinh từ sự ân cần thực sự đối với thiện ích của người anh em. Thánh Phao-lô Tông Đồ quả quyết: “Nếu có người nào bất chợt bị bắt gặp phạm lỗi nào, thì anh chị em là những người có Thần Khi hãy sửa chữa họ với tinh thần dịu dàng. Và bạn hãy cảnh giác đối với chính mình để chính bạn khỏi bị cám dỗ” (Gl 6,1). Trong thế giới chúng ta bị thấm nhiễm xu hướng cá nhân chủ nghĩa, cần phải tái khám phá tầm quan trọng của sự sửa lỗi huynh đệ, để cùng nhau tiến bước về sự thánh thiện. Thậm chí “người công chính sa ngã 7 lần” (Cn 24,16) như Kinh Thánh đã nói, và tất cả chúng ta đều là người yếu đuối và thiếu sót (x. 1 Ga 1,8). Vì thế, thật là rất hữu ích khi giúp đỡ và để cho mình được giúp đỡ có cái nhìn chân thực về bản thân mình, để cải tiến chính cuộc sống của mình và tiến bước ngay thẳng hơn trên con đường của Chúa. Chúng ta luôn cần có một cái nhìn yêu thương và sửa chữa, nhận biết và nhìn nhận, phân định và tha thứ (x. Lc 22,61), như Thiên Chúa đã và đang làm với mỗi người chúng ta.


2. “Đối với nhau”: ơn hỗ tương với nhau”.

Sự “canh giữ” đối với tha nhân như thế tương phản với não trạng thu hẹp cuộc sống vào chiều kích trần thế, không để ý đến viễn tượng mai hậu và chấp nhận bất kỳ chọn lựa luân lý nào nhân danh tự do cá nhân. Một xã hội như ngày nay có thể trở nên điếc đối với những đau khổ thể lý cũng như những đòi hỏi tinh thần và luân lý của cuộc sống. Nhưng cộng động Ki-tô không thể như vậy! Thánh Phao-lô Tông đồ mời gọi tìm kiếm điều dẫn tới “hòa bình và xây dựng lẫn nhau” (Rm 14,19), giúp đỡ “tha nhân trong điều thiện để xây dựng họ” (Rm 15,2), không tìm tư lợi, “nhưng là lợi ích của nhiều người, để họ đạt tới ơn cứu độ” (1 Cr 10,33). Sự sửa lỗi và khuyên nhủ nhau trong tinh thần khiêm tốn và bác ái như thế phải là thành phần đời sống của cộng đoàn Ki-tô.

Các môn đệ của Chúa, kết hiệp với Chúa Ki-tô qua Thánh Thể, sống trong một sự hiệp thông liên kết họ với nhau như chi thể của cùng một thân mình. Điều này có nghĩa là tha nhân thuộc về tôi, cuộc sống, phần rỗi của họ liên hệ tới cuộc sống và phần rỗi của tôi. Ở đây chúng ta động chạm đến một yếu tố rất sâu xa của tình hiệp thông: cuộc sống của chúng ta có liên hệ tới cuộc sống của người khác, trong điều thiện cũng như trong điều ác; tội lỗi cũng như những việc lành bác ái đều có một chiều kích xã hội. Trong Giáo Hội, Nhiệm thể của Chúa Ki-tô diễn ra sự hỗ tương như thế: cộng đồng không ngừng làm việc thống hối và kêu cầu ơn tha thứ vì những tội lỗi của con cái mình, nhưng cũng luôn vui mừng hân hoan vì chứng tá nhân đức và bác ái được triển nở nơi mình. Thánh Phao-lô quả quyết “Các chi thể chăm sóc lẫn nhau” (1 Cr 12,25), vì chúng ta là một thân mình. Đức bác ái đối với anh em, như được diễn tả qua việc làm phúc - là việc thực hành tiêu biểu trong mùa chay, cùng với kinh nguyện và chay tịnh - ăn rễ sâu trong sự cùng thuộc về thân mình như vậy. Cả khi lo lắng cụ thể cho những người nghèo khổ nhất, mỗi tín hữu Ki-tô có thể biểu lộ sự tham phần của mình vào thân thể duy nhất là Giáo Hội. Quan tâm đến tha nhân trong tinh thần hỗ tương cũng là nhìn nhận điều thiện hảo mà Chúa làm nơi họ và cùng với họ cảm tạ vì những kỳ công ân phúc mà Thiên Chúa nhân lành và toàn năng tiếp tục thực hiện nơi các con cái của Ngài. Khi một Ki-tô hữu nhận thấy nơi tha nhận hoạt động của Chúa Thánh Linh, thì họ không thể không vui mừng vì điều đó và tôn vinh Chúa Cha trên trời (Xc Mt 5,16).


3. “Để khích lệ lẫn nhau trong đức bác ái và trong việc lành”: cùng nhau tiến bước trong sự thánh thiện.

Thành ngữ này của Thư gửi Tín hữu Do-thái (10,24) thúc đẩy chúng ta cứu xét ơn kêu gọi tất cả mọi người nên thánh, hành trình liên lỷ trong đời sống thiêng liêng, khao khát những đoàn sủng cao cả hơn và một đức bác ái ngày càng cao và phong phú hơn (x. 1 Cr 12,31-13-13). Sự quan tâm đối với nhau có mục đích là thúc đẩy nhau tiến đến một tình yêu thương thực sự hữu hiệu ngày càng mạnh mẽ hơn, “như ánh sáng bình minh gia tăng huy hoàng cho đến chiều” (Cn 4,18), trong khi chờ đợi sống ngày không bao giờ tàn trong Thiên Chúa. Thời gian được ban cho chúng ta trong cuộc sống thật là quí giá để khám phá và chu toàn việc lành, trong tình yêu Thiên Chúa. Như thế chính Giáo Hội tăng trưởng và phát triển để đạt tới sự trưởng thành trọn vẹn của Chúa Ki-tô (x. Ep 4,13). Chính trong viễn tượng tăng trưởng năng động như thế có lời chúng ta khuyên bảo và khích lệ nhau đạt tới tình yêu viên mãn và các việc lành.

Đáng tiếc là vẫn luôn có cám dỗ sống trong nguội lạnh, bóp nghẹt Thánh Linh, từ khước không làm sinh lợi những nén bạc đã được ban cho chúng ta để mưu ích cho bản thân và tha nhân (x. Mt 25,25ss). Tất cả chúng ta đã nhận
lãnh những phong phú tinh thần hoặc thể chất hữu ích để chu toàn kế hoạch của Chúa, để mưu ích cho Giáo Hội và phần rỗi bản thân (x. Lc 12,21b; 1 Tm 6,18). Các bậc thầy linh đạo nhắc nhớ rằng trong cuộc sống đức tin ai không tiến tức là lùi. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy đón nhận lời mời gọi luôn có tính chất thời sự, đó là hướng đến “mức độ cao của đời sống Ki-tô” (Gio-an Phao-lô II, Tông thư Ngàn Năm mới đang đến - 6/1/2001-, số 31). Sự khôn ngoan của Giáo hội - khi nhìn nhận và công bố chân phúc và sự thánh thiện của một số Kitô hữu gương mẫu-, cũng có mục đích khơi dậy ước muốn noi gương nhân đức của các vị. Thánh Phao-lô nhắn nhủ: “Anh chị em hãy thi đua quí chuộng lẫn nhau” (Rm 12,10).

“Đứng trước một thế giới đang đòi hỏi các tín hữu Ki-tô một chứng tá được đổi mới về tình yêu thương và lòng trung thành với Chúa, tất cả chúng ta cảm thấy sự cấp thiết phải nỗ lực thi nhau làm việc bác ái, phục vụ và làm việc lành (x. Dt 6,10). Lời kêu gọi này đặc biệt mạnh mẽ trong Mùa Chay Thánh chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh”. Với lời cầu chúc một Mùa Chay thánh thiện và phong phú, tôi phó thác anh chị em cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và thành tâm ban Phép Lành Tòa Thánh cho tất cả mọi người.


Vatican ngày 3 tháng 11 năm 2011

Biển Đức 16, Giáo Hoàng

Lm Trần Đức Anh OP (chuyển ngữ)

 

 

PHẦN II: HIỂU VÀ SỐNG SỨ ĐiỆp MÙa Chay 2012 cỦa ĐỨc ThÁnh Cha BÊ-nÊ-Đic-tÔ XVI

 

1. hiểu Sứ Điệp Mùa Chay 2012 của Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI

1.1 Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô Đức XVI xây dựng Sứ Điệp Mùa Chay 2012 của ngài trên cơ sở Thánh Kinh là lời của Thánh Phao-lô Tông Đồ trong thư gửi tín hữu Do-thái, chương 10, các câu 22-24:

22 Vì thế, chúng ta hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền 23 Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín. 24 Chúng ta hãy để ý đến nhau làm sao cho người này thúc đầy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt” (Dt 10,22-24).

Ba câu Thánh Kinh trên đề cập đến đời sống đức tin của người Ki-tô hữu với ba nhân đức đối thần là Tin, Cậy và Mến. 

 

1.2 Nhưng Đức Thánh Cha chỉ tập trung vào việc triển khai ý tưởng của câu 24 thuộc về đức Mến hay đức Ái mà thôi: 

«Chúng ta hãy để ý đến nhau làm sao cho người này thúc đầy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt.»

Câu Thánh Kinh trên cũng có thể dịch thành :

“Chúng ta hãy quan tâm đối với nhau, để khích lệ nhau trong đức bác ái và các công việc lành.

1.3 Sứ Điệp Mùa Chay 2012 của Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI gồm 3 phần:

1°) «Chúng ta hãy quan tâm: trách nhiệm đối với người anh em.»

2°) «Đối với nhau: ơn hỗ tương với nhau».

3°) «Để khích lệ lẫn nhau trong đức bác ái và trong việc lành: cùng nhau tiến bước trong sự thánh thiện.»

 

- Trước hết là việc “quan tâm hay để ý đến nhau: trách nhiệm đối với người anh em”

* Quan tâm hay để ý đến nhau là trách nhiệm của mọi Ki-tô hữu, chứ không phải là can thiệp vào đời tư của người khác.

* Quan tâm hay để ý đến nhau là nhìn vào Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta và học cách sống của Người: Người quan tâm, để ý đến hết mọi người trên mọi nẻo đường Người đi. 

* Quan tâm hay để ý đến nhau là sống mầu niệm Hội Thánh là gia đình của Thiên Chúa, Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô: mọi người là anh chị em và là chi thể của nhau.

* Quan tâm hay để ý đến nhau bao gồm ước muốn và hành động giúp cho người xung quanh được thăng tiến về mặt vật chất cũng như tinh thần, về mặt văn hóa xã hội cũng như tâm linh.

* Quan tâm hay để ý đến nhau là chống lại lối sống “cá nhân chủ nghĩa” đầy ích kỷ của thời đại ngày nay.

* Quan tâm hay để ý đến nhau là cảm thông và nâng đỡ những anh chị em như người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu.

 

- Kế tiếp là «đối với nhau: ơn hỗ tương với nhau»

* Hỗ trợ nhau là thể hiện trách nhiệm và tình liên đới của các chi thể thuộc Thân Mình Chúa Ki-tô là Hội Thánh.

* Hỗ trợ nhau là thể hiện chiều kích hiệp thông của các Thánh (các Thánh cùng thông công).

* Hỗ trợ nhau là nhìn nhận sự hiện diện và hành động của Chúa Ki-tô và Thánh Thần nơi anh chị em của mình.

* Hỗ trợ nhau là khiêm nhường sửa lỗi cho nhau và chân thành khuyên nhủ nhau trong đời sống đức tin.

 

- Sau cùng là «để khích lệ lẫn nhau trong đức bác ái và trong việc lành: cùng nhau tiến bước trong sự thánh thiện.»

* Khích lệ nhau trong đức ái và trong việc lành là thúc đẩy nhau nên thánh là ơn gọi của mọi Ki-tô hữu.

* Khích lệ nhau trong đức ái và trong việc lành là làm cho các nén vàng nén bạc của Thiên Chúa sinh lời sinh lãi cho anh chị em mình và cho nhân loại.

* Khích lệ nhau trong đức ái và trong việc lành là giúp nhau đạt tới sự sung mãn hay hoàn hảo của Đức Ái  Ki-tô giáo.

* Khích lệ nhau trong đức ái và trong việc lành là giúp nhau làm chứng cho thế giới về tình yêu thương và lòng trung thành của các Ki-tô hữu đối với Thiên Chúa. 

 

2. Sống hay thực thi sứ điệp Mùa Chay 2012 của Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI

Để sống hay thực thi Sứ Điệp Mùa Chay 2012 của Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI thiết nghĩ

* Mỗi người/cộng đoàn cần phải chui ra khỏi vỏ ốc hay pháo đài mà quan tâm đến mọi người sống xung quanh, từ những người thân trong gia đình cho đến những người sống trong cùng khu phố/thôn xóm, những người cùng giáo xứ và những người cùng sinh hoạt trong hội đoàn, nhất là những người khó nghèo, những người bị thiệt thòi và những người yếu đuối.

 

àTrong thực tế, nhiều người/cộng đoàn đã thực hiện việc tốt lành này. Nhưng chúng ta cần phải tích cực và  dũng cảm  hơn nữa, vì xu hướng chung của con người ngày nay là “mackeno” (mặc kệ nó) và “đèn nhà ai nhà nấy rạng”.

 

* Mỗi người/cộng đoàn cần phải bỏ cách sống thờ ơ hay dửng dưng trước những gì đang diễn ra trong xã hội [tội ác và tệ nạn xã hội tràn lan, bất công và áp bức càng ngày càng tăng và đầy bạo lực, nghèo đói càng ngày càng mở rộng từ nông thôn đến thành thị, hố ngăn cách giầu nghèo càng ngày càng sâu] mà tích cực và chủ động dấn thân vào việc bảo vệ và bênh vực các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và những giá trị của nền văn minh Ki-tô giáo cũng là giá trị chung của nhân loại tiến bộ [yêu thương, chia sẻ, liên đới, tôn trọng sự sống và các giá trị tâm linh] 

 

àTrong thực tế không có nhiều người/cộng đoàn đã thực hiện được việc tốt lành này, vì thiếu xác tín, phương tiện và lòng dũng cảm, khi liên quan tới các vấn đề xã hội và đụng chạm tới những người có chức có quyền.

 

LỜI KẾT

Đức Phao-lô VI đã khẳng định rằng thế giới ngày nay đau khổ nhất là vì thiếu tình huynh đệ:

“Thế giới bệnh hoạn. Bệnh của thế giới này không phải do sự phung phí tài nguyên hoặc vì một số người vơ vét của cải, nhưng là do sự thiếu tình huynh đệ giữa con người và các dân tộc với nhau

(Thông điệp «Phát triển các dân tộc» ngày 26/3/1967, số 66).

Nhưng nhận định của Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI là ở thời điểm 1967, tức cách đây 45 năm. Ngày nay chúng ta có thể quả quyết rằng: ngoài sự thiếu tình huynh đệ giữa con người với con người và giữa các dân tộc với nhau thì sự phung phí và tàn phá tài nguyên của một số người cũng như sự chiếm hữu tài nguyên cách bất công và bất chính của một thiều số người khác đã làm cho cả thế giới này mắc một chứng bệnh mãn tính và nan y.

Chỉ có bàn tay thần linh của Chúa Giê-su Ki-tô và của Thánh Thần Người mới chữa lành được cơn bệnh mãn tính và nan y ấy của loài người hôm nay. 

 

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

Công ÐỒng Vatican II là

“Kim chỈ nam” cho thẾ kỶ XXI.

[Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II]

 

VATICAN CITY, Oct 13,2002 (Zenit). – Ðức Thánh Cha nhắc đến Công Đồng Vatican II như là giai đọan đầu tiên trong việc truyền giáo mới, là “kim chỉ nam” cho người Ki-tô hữu trong thế kỷ 21 này.

Ðức Thánh Cha đã nhận xét như vậy sau Thánh lễ tại Vương Cung Thánh Đường Phê-rô, đánh dấu cuộc viếng thăm Ro-ma của Ðức Teoctist, Giáo Phụ Chính Thống Giáo Romania.

Trước khi đọc kinh Truyền Tin, Ðức Thánh Cha nhắc lại những khó khăn về việc hiệp thông giữa Chính Thống Giáo và Công Giáo mà Ðức Thánh Cha đã nghe biết khi ngài viếng thăm Romania năm 1999 vừa qua.

“Sự khao khát hiệp thông giữa những người Thiên Chúa giáo được đón nhận một cách nhiệt tình từ Công Đồng Vatican II. Một trong những tài liệu quan trọng, là sắc lệnh về vấn đề hiệp thông, “Unitatis Redintegratio” (Phục hồi việc hợp nhất).

Cuộc viếng thăm của Ðức Giáo Phụ Romania nhằm vào ngày kỷ niệm 40 năm Công Đồng Vatican II do Ðức Gio-an XXIII hiệu triệu.

Ðức Thánh Cha Gioan Phao-lô II nhắc lại là Ðức Gio-an XXIII đã khích lệ các Nghị Phụ hãy trung thành với Truyền thống Công Giáo, nhưng mặt khác làm thế nào để thích hợp với thời đại chúng ta.

Ðức Thánh Cha nói: «Một cách nào đó ngày 11 tháng 10 cách đây 40 năm đã đánh dấu một cách trọng thể và phổ quát sự khởi đầu cho công cuộc truyền giáo mới. Công Đồng đã đem đến một Mùa Xuân cho Giáo Hội mà kết quả đã phô bày vào Năm Thánh 2000.»

Sau cùng Ðức Thánh Cha mời gọi người tín hữu hảy đọc lại những tài liệu “vẫn giá trị và trong sáng”, ngưòi tín hữu nên thông biết và thu nhận những giá tri và những điều giáo huấn theo như truyền thống của Giáo Hội.

Trong những tài liệu đó người Ki-tô hữu sẽ tìm thấy “kim chỉ nam” hướng dẫn họ trên mọi nẻo đường của thế kỷ 21 chỉ vừa mới bắt đầu.

 

[Phó tế J.B. Huỳnh Mai Trác/ VietCatholic News 14/ 10/2002].




Công ÐỒng Vatican II

là CÔNG ĐỒNG VỀ GIÁO HỘI

 

I.- BỐI CẢNH LỊCH SỬ CÔNG ĐỒNG VATICAN II

Bất cứ một biến cố đạo đời nào cũng có bối cảnh của nó. Công đồng Vatican II là một biến cố hết sức quan trọng không chỉ đối với Giáo hội mà với cả thế giới loài người nữa, nên Công đồng cũng có bối cảnh riêng của mình. Mặt khác khi nói đến bối cảnh lịch sử của Công đồng thì chúng ta không thể không nói đến Đức Thánh Cha Gioan XXIII, vị giáo hoàng đã được Thánh Linh linh ứng để triệu tập Công đồng, và những ước mơ của ngài trong công việc hệ trọng này.

1.1 Đức Gio-an XXIII: Đầu tháng 10 năm 1958, Đức Hồng Y Giáo Chủ Roncalli, 77 tuổi (sinh năm 1881) được bầu làm Giáo hoàng, làm cả Giáo hội và thế giới kinh ngạc. Dư luận chung đều cho rằng Đức Gioan XXIII chỉ đóng vai trò “chuyển tiếp” mà thôi, vì tuổi cao và lập trường cổ điển truyền thống của ngài. Nhưng điều ít ai ngờ nổi là chính vị Giáo hoàng gốc gác nông dân, đời sống bình dị ấy lại rất biết lắng nghe Chúa Thánh Thần. Và chính ngài đã nẩy ra ý và quyết định chuẩn bị, triệu tập và điều hành Công Đồng thứ 21 của Giáo Hội Công Giáo.

1.2 Bối cảnh lịch sử: Thoạt nhìn người ta có thể lầm tưởng là mọi chuyện đều rất tốt đẹp đối với Giáo Hội vào chính lúc mà Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII tiết lộ ý muốn triệu tập một Công Đồng Chung. Nhưng nếu nhìn sâu, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều vấn đề được đặt ra cho Giáo Hội. Chẳng hạn:

* Ngoài thế giới: hai cuộc chiến tranh thế giới 1914-1918 & 1939-1945 đã chia cắt thế giới làm nhiều khối thù địch nhau. Bộ mặt các quốc gia đã thay đổi lớn lao với tiến bộ khoa học, kỹ thuật, với các phong trào giải phóng. Bao vấn đề được đặt ra cho con người và có ảnh hưởng đến đời sống người Công giáo một cách sâu đậm.

 * Trong Giáo Hội: Công Đồng Vatican I đã bị ngưng lại cách đột ngột vì cuộc chiến tranh Pháp-Phổ, để lại một công việc dang dở. Đã có nhiều vị Giáo Hoàng nghĩ tới việc tiếp tục Công Đồng Vatican I nhưng vì hoàn cảnh này hoàn cảnh khác, chưa vị nào thực hiện được ước muốn đó. Ngoài ra các tiến bộ khoa học kỹ thuật ảnh hưởng sâu đậm đến các Phong Trào Canh Tân và Công Giáo Tiến Hành. Người tín hữu (kể cả giáo sĩ lẫn giáo dân) như trưởng thành hơn, cả về mặt nhận thức lẫn mặt dấn thân….khiến một thao thức lớn nẩy sinh trong lòng Giáo Hội. Thêm vào đó, sự chia rẽ giữa các Ki-tô hữu thuộc các Giáo Hội khác nhau đã là một vết đen lịch sử mà nhiều người mong xóa bỏ. Đó là bối cảnh của Công Đồng Vatican II.

1.3 Thánh Thần “linh ứng” việc triệu tập Công Đồng:

Trong những ghi chú cá nhân của Đức Gioan XXIII để lại, ý tưởng về Công Đồng đã xuất hiện ngay từ những ngày đầu nhiệm kỳ Giáo Hoàng của ngài. Ba tháng trôi qua trong cầu nguyện, suy tư và kín đáo tham khảo ý kiến.

Ngày 21 tháng 01 năm 1959 Đức Gioan XXIII nói chuyện với Hồng Y Tardini là Quốc Vụ Khanh, về tình trạng đầy lo âu cuả thế giới: bao nhiêu lời kêu gọi hòa bình, công lý không ngớt lặp đi lặp lại nhưng vẫn hoàn toàn vô vọng… Hội Thánh có thể làm gì để đem lại cho thế giới một tấm gương lớn về sự hòa hợp giữa con người thuộc mọi chủng tộc, văn hóa và giai cấp?…Và một từ ngữ chợt đến trên môi vị Giáo Hoàng: “một Công Đồng chăng?”Ngài chờ đợi từ phía vị Quốc Vụ Khanh của ngài một phản ứng lúng túng hoặc một chuỗi những vấn nạn….Thế nhưng ngài đã kinh ngạc khi nghe người cộng sự thân tín tán đồng cách rất hào hứng: “vâng, vâng, một Công Đồng!” Ngài nhìn thấy đó là dấu hiệu của Ý Chúa mà ngài tìm kiếm từ  4 tháng qua. Chính ngày 21 tháng 01 ấy, Đức Gio-an XXIII quyết định triệu tập một Công Đồng chung. Bốn ngày sau, ngày 25.01.1959 tại đền thờ Thánh Phao-lô ngoại thành, Đức Gio-an XXIII đã tiết lộ quyết định này cho 18 Hồng Y vừa dâng lễ với ngài, kết thúc tuần cầu nguyện cho Hiệp Nhất.

1.4 Ước mơ của Đức Gio-an XXIII về Công Đồng Vatican II:

Thông qua một số lời phát biểu của Đức Gioan XXIII, chúng ta có thể hiểu được ước mơ của vị Giáo hoàng này về Công đồng. Ước mơ đó là:

(a)  Canh tân đời sống Giáo hội,

(b) Tiến tới sự Hiệp Nhất các Kitô hữu.

* “……….Mục đích chính của Công Đồng là phát huy đức Tin Công Giáo, canh tân lành mạnh những phong tục các dân tộc Ki-tô giáo và ban hành bộ giáo luật thích hợp với nhu cầu thời đại chúng ta hơn. Điều đó dĩ nhiên sẽ nêu lên một quang cảnh sáng lạn về chân lý, hợp nhất và bác ái mà cha hy vọng rằng những anh em ly khai với Toà Thánh sẽ coi đó` như một lời mời êm dịu, đi tìm tòi để đạt tới sự hiệp nhất mà Chúa Ki-tô đã tha thiết cầu xin Cha trên trời ban cho” (Observatore Romano ngày 3.7.1959)

* “……….Công đồng này sẽ đem lại một sự phục hưng trong địa hạt phụng vụ cũng như trong địa hạt cai trị và mục vụ….Cũng là để chuẩn bị một công cuộc khác rộng lớn hơn, chưa thể thực hiện ngay, nhưng sẽ có thể thắt chặt mối hiệp nhất, cả sự hiệp nhất hữu hình bên ngoài trong Hội thánh công giáo do Chúa đã sáng lập” (Observatore Romano ngày 30.10.1959).

*”………..Mục tiêu thứ nhất và trực tiếp của Công đồng là giới thiệu cho thế giới một Giáo hội của Thiên Chúa muôn đời dồi dào sức sống và chân lý, kèm theo những quy luật thích ứng với hoàn cảnh hiện tại, luôn luôn chu toàn sứ mệnh cao cả do Chúa ủy thác, và dã được chuẩn bị sằn sàng trước những nhu cầu hiện tại cũng như ngày mai,

Thế rồi các anh em ly khai với chúng ta, hoặc giữa họ với nhau mong muốn thể hiện nguyện vọng hợp nhất. Cha có thể âu yếm nói với họ rằng: đây là nhà của anh em, là nhà của mọi người mang dấu hiệu của Chúa Ki-tô. Trái lại nếu người ta cứ muốn khởi sự bằng những cuộc tranh luận, bàn cãi thì sẽ không đạt tới kết quả nào” (Observatore Romano ngày 16.11.1960).

II.- CÁC VĂN KIỆN CỦA CÔNG ĐỒNG VATICAN II

Sau 4 kỳ nhóm họp từ 11.10.1962 đến 08.12.1962 (kỳ 1), từ 29.09.1963 đến 04.12.1963 (kỳ 2), từ 14.09.1964 đến 21.11.1964 (kỳ 3) và từ 14.09.1965 đến 08.12.1965 (kỳ 4), Công Đồng Vatican II đã công bố 16 văn kiện chia thành 3 loại khác nhau, với tầm quan trọng khác nhau gồm 4 Hiến Chế, 9 Sắc Lệnh và 3 Tuyên Ngôn:

 

2.1 Hiến chế

* Là tài liệu tín lý hoặc mục vụ, có giá trị học thuyết vững chắc và lâu bền;

* Có 4 Hiến  Chế như 4 cột trụ của một tòa nhà:

(1o) Hiến Chế Tín Lý về Mặc Khải của Thiên Chúa (Dei Verbum: Lời Thiên Chúa) công bố ngày 18.11. 1965;

(2o) Hiến Chế Phụng Vụ Thánh (Sacrosantum Concilium: Thánh Công Đồng) công bố ngày 04.12.1963;

(3o) Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh (Lumen Gentium: Ánh Sáng muôn dân) công bố ngày 21.11.1964;

(4o) Hiến Chế Mục Vụ về Hội Thánh trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes: Vui mừng và Hy vọng) công bố ngày 07.12.1965.

 

2.2 Sắc Lệnh

* Là tập hợp những quyết định có tính chất thực hành, mục vụ hay kỷ luật dành cho thời đại chúng ta;

* Có 9 Sắc Lệnh:

(1o) Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Hội Thánh (Ad Gentes: Đến với muôn dân), công bố ngày 07.12.1965;

(2o) Sắc Lệnh về Trách Nhiệm Mục Vụ Của Các Giám Mục (Christus Dominus: Chúa Ki-tô) công bố ngày 28.10.1965;

(3o) Sắc Lệnh về Chức Vụ Và Đời Sống Các Linh Mục (Presbytorerum Ordinis: Chức linh mục) công bố ngày 07.12.1965;

(4o) Sắc Lệnh về Đào Tạo Linh Mục: Optatam totius: Mọi người mong ước) công bố ngày 28.10.1965;

(5o) Sắc Lệnh về Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu (Perfectae Caritatis: Đức Ái trọn hảo) công bố ngày 28.10.1965;

(6o) Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân (Apostolicam Actuositatem: Phát động việc tông đồ) công bố ngày 18.11.1965;

(7o) Sắc Lệnh về Hiệp Nhất (Unitatis Redintegratio: Việc tái lập sự Hiệp Nhất) công bố ngày 21.11.1964;

(8o) Sắc Lệnh về các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương (Orientalium Ecclesiarum: Giáo Hội Công Giáo Đông Phương) công bố ngày 21.11.1964;

(9o) Sắc Lệnh về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội (Inter mirifica: Trong những phát minh kỳ diệu) công bố ngày 4.12.1963.

 

2.3 Tuyên Ngôn

* Là một bày tỏ quan điểm của Giáo hội trước một vấn đề mới và đưa ra những phương hướng suy tư và xử sự trong tình trạng hiện nay của thế giới.

* Có 3 Tuyên Ngôn:

(1o) Tuyên ngôn về Giáo Dục Ki-tô Giáo (Gravissimum Educationis : Vai trò vô cùng quan trọng) công bố ngày 28.10.1965;

(2o) Tuyên ngôn về Liên Lạc Của Giáo Hội Với Các Tôn Giáo Ngoài Ki-tô Giáo (Nostra Aetate: Trong thời đại chúng ta) công bố ngày 28.10.1965;

(3o) Tuyên ngôn về Tự Do Tôn Giáo (Dignitatis Humanae: Nhân phẩm) công bố ngày 07.12.1965.

 

2.4 Biểu đồ

16 văn kiện của Công Đồng Va-ti-can II có thể được trình bày trong biểu đồ sau đây

SL về Đại kết

MỐI LIÊN LẠC VỚI CÁC KITÔ HỮU KHÁC

HC Phụng vụ Thánh

NHIỆM VỤ THÁNH HOÁ CỦA GIÁO HỘI

HC mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay

SL về các phương tiện truyền thông xã hội.

TN tự do tôn giáo 

VỚI TOÀN THỂ THẾ GIỚI

 

HIÊN CHẾ TÍN LÝ VỀ GIÁO HỘI

BẢN TÍNH CỦA GIÁO HỘI

SL về nhiệm vụ Giám mục.

SL về các GH

Công giáo Đông Phương MINH ĐỊNH CHỨC VỤ ĐIỀU KIỂN GIÁO HỘI

SL về đời sống, chức vụ. SL đào tạo Linh mục

SL về đời sống Dòng tu. SL về Tông đồ giáo dân

PHÁC HOẠ CÁC NẾP SỐNG KHÁC NHAU TRONG GIÁO HỘI

SL về Truyền giáo. TN về các tôn giáo MỐI LIÊN LẠC VỚI NGƯỜI NGOÀI KITÔ GIÁO

HC về Mặc khải

TN về giáo dục Kitô giáo

QUYỀN GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



III.- MỐI LIÊN KẾT GIỮA CÁC VĂN KIỆN CỦA CÔNG ĐỒNG VATICAN II

Trong 16 văn kiện của Công đồng Va-ti-can II, ai cũng phải thừa nhận  rằng: Hiến chế tín lý về Giáo hội là văn kiện nòng cốt nhất. Các văn kiện khác có thể được coi là những triển khai mặt này mặt khác của Hiến chế Giáo hội ấy. Linh mục Rey-Mermet giúp chúng ta nhìn ra mối quan hệ mật thiết giữa Hiến chế tín lý và các  văn kiện khác như sau

3.1 Giáo hội phát sinh từ “Lời Thiên Chúa” – Dei Verbum -, từ Đức Ki-tô là nguồn mạch và trung tâm của Lời ấy. Ngài tự mạc khải và cho ta thấy được Chúa Cha trong Kinh Thánh liên kết với Truyền Thống sống động. Cả Thánh Kinh và Thánh Truyền cùng truyền lại cho ta Mặc Khải của Thiên Chúa.

3.2 Trước Mặc Khải ấy, loài người cùng nhau đáp lại cách chính thức trong các ngày lễ và trong những cử hành của Phụng vụ thánh. Phụng vụ này được Thánh Công đồng – Sacrosantum Concilium- chủ trương thích nghi với các dân tộc sống trên toàn cầu của thế kỷ XX.

3.3 Nhờ việc tập hợp Dân Chúa và nhờ các bí tích, chính Phụng vụ ấy làm thành Hội thánh. Nhờ được Chúa Giêsu thiết lập và ở với, Giáo hội này là Ánh Sáng muôn dân- Lumen Gentium.

3.4 Là Ánh Sáng muôn dân, nên toàn thể Giáo hội là Giáo hội Truyền giáo. Đồng thời Hoạt động truyền giáo của Giáo hội phải đi đến những miền xa xôi nhất, “Đến với các dân ngoại” – Ad Gentes.

3.5 Giáo hội mang tính truyền giáo trước hết chính là nhờ Trách nhiệm mục vụ của các Giám Mục là những người kế vị các Tông Đồ mà Chúa Giê-su- Christus Dominus- gởi đến để tiếp tục sứ mạng của Ngài.

3.6 Tiếp đó, Giáo hội mang tính truyền giáo còn nhờ Chức vụ và đời sống các linh mục, là những người cùng chia sẻ “Chức linh mục” –Presbyterorum Ordinis với các Giám mục, ở hàng thứ nhì.

3.7 Vì thế, việc Canh tân “rất đáng ao ước của cả Giáo Hội” – Optatam totius- một phần lớn gắn liền với việc Đào tạo linh mục.

3.8 Sau cùng, Giáo hội mang tính truyền giáo là nhờ hoạt động tông đồ giáo dân, vì nhờ đức tin, phép rửa và thêm sức, toàn thể Dân Chúa được đặt vào “hoạt động tông đồ”- Apostolicam Actuositatem.

3.9 Từ đó, việc Giáo dục Ki-tô giáo là việc hết sức quan trọng –Gravissimum Educationis momentum- đối với cuộc sống con người.

3.10 Toàn thể Dân Chúa đều được mời gọi nên thánh. Nhưngnơi Đức Ái trọn hảo “ ấy- Perfectae Caritatis – vốn là ơn gọi chung của mọi người đã rửa tội, một trong những dấu chỉ sáng chói là Đời sống tu trì sống thành cộng đoàn và khấn giữ sự khiết tịnh, nghèo khó và vâng lời. Nên đời sống ấy có vai trò đặc biệt tích cực trong đời sống và sứ mạng Giáo hội.

3.11 Nhưng sự toả sáng của Dân Chúa sẽ rực rỡ biết mấy nếu mọi người đã rửa tội trên thế giới hiệp nhất trong cùng một đức tin Ki-tô giáo! Vì thế, Đại kết để “lập lại sự thống nhất”- Unitatis redintegratio- là một trong những mục đích chính của Công đồng.

3.12 Việc hợp nhất như thế với các anh em Chính Thống giáo đã có sẵn một nhịp cầu tư nhiên là các Giáo hội Đông phương Công giáo- Orientalium Ecclesiarum.

3.13 Đàng khác,ở thời đại chúng ta” –Nostra aetate- loài người ngày càng gắn bó mật thiết với nhau, Kitô giáo ý thức về những gì mình có chung với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, và đề cập tới những điểm ấy với lòng kính trọng, tình huynh đệ và niềm hy vọng.

3.14 Sự có mặt và lưu tâm đầy ưu ái ấy là thái độ mà Giáo hội trong thế giới ngày nay muốn có trên mọi bình diện: “Vui mừng và Hy vọng”- Gaudium et Spes- Ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô”.

3.15 Sự lưu tâm đến thế giới như vậy, không còn là bước đường để chinh phục, nhưng là bước đường của tình huynh đệ: Giáo hội đòi hỏi cho các tôn giáo khác như cho chính mình phải được Tự do tôn giáo, một sự tự do đặt nền tảng không phải trên thái độ lãnh đạm đối với chân lý, nhưng là trên “Nhân phẩm”- Dignitatis Humanae.

3.16 Sự tôn trọng tự do người khác nhu thế không ngăn cản sự đối thoại. Ngược lại, và giữa những khám phá kỳ diệu” ngày nay- Inter mirifica- Các phương tiện truyền thông xã hội cống hiến những khả năng to lớn để nói với thế giới và lắng nghe thế giới.

(Rey-Mermet, CROIRE  tome 3- Vivre la foi avec le Concile Vatican II trang 21-22).

Nhờ cách trình bày trên, chúng ta nhìn rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa các vấn đề của Giáo Hội đã được Công Đồng Vatican II thảo luận và biểu quyết. Có thể nói: mọi khía cạnh của đời sống Giáo Hội đều được duyệt xét, đánh giá lại cho phù hợp với Tin Mừng và Truyền Thống của Giáo hội hơn (Công Đồng Vatican II được coi là Công Đồng trở về nguồn). Vì thế mà chúng ta nhận rõ hơn vị trí trung tâm của Hiến Chế Tín Lý về Giáo hội trong  suy tư  và văn kiện của Vatican II.

 

IV CHỦ ĐỀ - ĐẶC ĐIỂM - TINH THẦN VÀ  ĐƯỜNG HƯỚNG CỦA CÔNG ĐỒNG VATICAN II

4.1 Chủ đề: Chỉ cần nhìn thoáng qua 16 văn kiện của Công Đồng, chúng ta cũng nhận ra ngay điều này: Chủ đề của Công Đồng Vatican II là Giáo Hội. Giáo Hội được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau cả đối nội lẫn đối ngoại, cả về mặt chiều sâu lẫn bề nổi, cả về mặt tín lý lẫn mục vụ.

4.2 Đặc điểm: Công Đồng Va-ti-can II làm nổi bật hai đặc điểm: tính phổ quát và tính đại kết:

(1o) Tính phổ quát: được thể hiện qua hai yếu tố sau:

(a) Về nội dung: Công Đồng Vatican II đã đề cập đến toàn bộ đời sống và giáo lý của Giáo Hội,

(b) Về thành phần tham dự Công Đồng (Nghị Phụ): lần đầu tiên tuyệt đại đa số các Giám Mục của Giáo Hội có mặt tại Công Đồng, đại diện cho tất cả các Giáo Hội địa phương khắp năm châu:

  • Kỳ 1: có mặt 2449 trong tổng số 2904 Giám Mục (84,34%);
  • Kỳ 2: có mặt 2448 trong tổng số 3022 Giám Mục (82,34%);
  • Kỳ 3: có mặt 2466 trong tổng số 3074 Giám Mục (80,23%);
  • Kỳ 4: có mặt 2625 trong tổng số 3093 Giám Mục (84,88 %).

(c)  Về địa dư, ta thấy: 1060 Nghị Phụ châu Âu;

                                  480 Nghị Phụ châu Á;

                                  351 Nghị Phụ châu Phi;

                                  416 Nghị Phụ Bắc Mỹ;

                                    86 Nghị Phụ Trung Mỹ;

                                  531 Nghị Phụ Nam Mỹ;

                                    74 Nghị Phụ châu Đại Dương.

(2o) Tính đại kết: một trong những mục tiêu chính của Công Đồng là thực hiện ước mơ của Đức Gio-an XXIII về Đại Kết, tức là sự Hiệp Nhất giữa các Giáo Hội và tín hữu Ki-tô giáo. Tính Đại Kết của Công Đồng được thể hiện qua:

(a) Nội dung các văn kiện: Sắc Lệnh về Đại Kết, Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo, Tuyên Ngôn Về Liên Lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Ki-tô giáo, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay.

(b) Các cuộc gặp gỡ thân mật huynh đệ cởi mở giữa các vị lãnh đạo các Giáo hội Ki-tô giáo khác nhau, xung quanh Công Đồng.

(c) Sự có mặt của các quan sát viên ngoài công giáo tại các kỳ họp của Công Đồng: từ 54 vị đại diện cho 17 Giáo Hội và cộng đồng Ki-tô giáo ở kỳ họp 1 đến 106 vị đại diện cho 29 Giáo hội và cộng đồng Kitô giáo ở kỳ họp 4.

 

4.3 Tinh thần và đường hướng:

Ngay trong diễn văn khai mạc Công đồng Vatican II ngày 11.10.1962, Đức Gio-an XXIII đã đưa ra tôn chỉ hướng dẫn: “Cởi mở với thế giới, thông cảm chứ không lên án tuyệt thông, xót thương hơn là khắt khe, nhận chân rằng thế giới cũng rất nhạy cảm, không chấp nhận sai lầm, loan truyền Phúc Âm với niềm hy vọng hơn là với tâm trạng của những tiên tri loan báo sự dữ”

Vậy thì tinh thần và đường hướng của Công Đồng Vatican II chính là: Canh Tân, Hòa Giải và Liên Đới, Đối Thoại, Cộng Tác và Phục Vụ,

Thật vậy, ước mơ của Đức Gio-an XXIII khi triệu tập Công đồng Vatican II là tạo nên một luồng sinh khí mới của Chúa Thánh Thần, một Lễ Hiện Xuống Mới cho Giáo hội. Có như thế thì Giáo hội mới làm chứng về Chúa Ki-tô Giê-su một cách trung thành được!

V.- NHỮNG THAY ĐỔI LỚN LAO CỦA CÔNG ĐỒNG VATICAN II

Thật khó mà lượng gía một cách chính xác và đầy đủ những thay đổi lớn lao mà Công đồng Vatican II đã đem đến cho Giáo hội Công giáo toàn cầu cũng như cho các Giáo hội địa phương. Nhưng chúng ta có thể ghi nhận một số điều chính yếu sau đây:

5.1 Công đồng Vatican II đã làm nổi bật vai trò của Thánh Kinh, Thánh Truyền trong đời sống Giáo hội. Đồng thời Lời Chúa được tôn kính và phổ biến rộng rãi hơn trong Dân Chúa. Phụng vụ được cử hành bằng tiếng địa phương, nên gần gũi, dễ hiểu và sống động hơn (Hiến chế Mạc Khải và Phụng vụ thánh);

5.2 Công đồng Vatican II đã điều chỉnh và đào sâu cách hiểu về bản chất, sứ mệnh và ơn gọi của Giáo Hội: Giáo hội được hiểu đầy đủ hơn, chính xác hơn, sát với Thánh Kinh, Thánh Truyền hơn, gần gũi và liên đới với con người và thế giới hơn (Hiến chế tín lý về Giáo hội, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay);

5.3 Công đồng Vatican II đã tạo nên một luồng sinh khí mới trong mọi lãnh vực đời sống Giáo hội (học hỏi Thánh Kinh, đào sâu thần học & tu đức, truyền giáo, đối thoại đại kết và liên tôn, cải tổ giáo luật, trình bày lại Giáo lý v.v..) cũng như trong mọi thành phần Dân Chúa (giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân).

5.4 Công đồng Vatican II đã trả lại “căn tính riêng” - cùng với phẩm gía, vai trò, chỗ đứng không thể thay thế - cho giáo dân, thành phần đông đảo nhất và bị coi thường trong cách hiểu méo mó của lịch sử (Hiến chế tín lý về Giáo hội, Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân); 

5.5 Công Đồng Vatican II đã làm cho Giáo hội gần gũi với con người và thế giới trong bằng tinh thần yêu thương, kính trọng, liên đới và phục vụ (Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Các Tuyên ngôn);

5.6 Công đồng Vatican II đã khai sinh ra một cơ chế mới trong sinh hoạt của Giáo hội, đó là Thượng Hội đồng các Giám mục thế giới. Thượng Hội đồng các Giám mục này thể hiện tính “Tông đồ đoàn” của các Giám mục là những người kế vị các Tông đồ, trong tình hiệp nhất với Đức Giáo hoàng là đấng kế vị Tông đồ Trưởng Phê-rô. Trong hơn ba mươi năm qua, Giáo hội chúng ta đã có rất nhiều Thượng Hội đồng Giám mục.

 


Công ÐỒng Vatican II

là CÔNG ĐỒNG CỦA GIÁO DÂN

 

VÀO ĐỀ

Khẳng định “Công Đồng Vatican II là Công Đồng của Giáo Dân” có bốn cơ sở vững chắc:

- một là Công Đồng Vatican II đã đưa ra một quan điểm (thần học và giáo hội học) mới về người Giáo Dân;

- hai là Công Đồng Vatican II đã dành cho Giáo Dân một vị trí quan trọng trong các văn kiện,

- ba là Công Đồng xác định cách minh bạch danh xưng và tính chất riêng của Giáo Dân,

- bốn là Công Đồng xác định mối tương quan (mới) của Giáo Dân với Hàng Giáo Phẩm và Hàng Giáo Sĩ,

- năm là các vị Giáo Hoàng và Giáo Luật hậu Công Đồng đã có những quyết định quan trọng liên quan tới giáo dân.

 

I.- Công ĐỒng Vatican II đã đưa ra mỘt quan điỂm thẦn hỌc và giáo hỘi hỌc mỚi vỀ giáo dân

Trong bài “Giáo Dân trong Hội Thánh”, linh mục Felipe Gomez, Ngô Minh, SJ, đã viết những dòng sau trong đề mục GiỜ Đã ÐiỂm:

“Có lẽ một trong những thành quả đáng kể nhất của Công Đồng Vatican II là việc nêu bật vai trò của giáo dân ở giữa lòng cuộc sống Hội Thánh. Chỉ trong quãng thời gian trên dưới một thế hệ nay, đã thấy có nhiều giáo hữu không chịu chức thánh đóng giữ những vai trò trọng yếu hoặc trở nên những thành phần năng động trong Giáo Hội. Hẳn là còn phải tiến xa hơn nữa cho đến khi đa số thầm lặng này tham gia hàng loạt và tích cực vào sứ mệnh của Ðức Ki-tô ở giữa thế giới. Trong quá khứ, giới giáo dân được quan niệm như là Giáo Hội thụ huấn, hoàn toàn ở dưới quyền chi phối của giáo sĩ. Họ chỉ là giới tiêu dùng tựa như khách hàng trong siêu thị tôn giáo của các bí tích. Nói Giáo Hội là người ta nghĩ ngay đến Hàng Giáo Phẩm hoặc các Giáo Sĩ: Giáo Hội bảo... Giáo Hội dạy... Giáo Hội tỏ rõ lập trường của mình... v.v. có nghĩa là các Giám Mục và lắm khi chỉ một mình Giáo Chủ Rô-ma! làm như thế; còn khối các tín hữu khác thì chỉ là đàn chiên được chăn dắt bởi các mục tử. Thánh Pi-ô X đã quả quyết với một lời bi tráng như sau: Chỉ duy các mục tử mới có quyền hành và uy thế... Còn dân chúng [tức giáo dân] thì chỉ có quyền để các mục tử dẫn dắt, và như đàn chiên dễ bảo, biết nghe theo các ngài... (Thông điệp Vehementer, 11.2.1906). Nhân đức căn bản của giáo dân là vâng lời và cách thức góp phần vào công trình của Giáo Hội là góp tiền của cho các cuộc lạc quyên, là góp "tiền oi" mỗi Chúa Nhật. Thực vậy, đối với đa số, sống đạo chỉ cốt tại việc xem lễ các ngày Chúa Nhật và Lễ buộc. Ðó là bổn phận cốt cán của đời sống Ki-tô!

May thay, hình ảnh có phần biếm họa trên đây hiện đang chuyển mình biến đổi. Bởi một mặt, Giáo Hội (Hàng Giáo Phẩm) đang mạnh mẽ thúc dục giáo dân gia nhập các phong trào tông đồ muôn hình thái và tham gia tích cực vào trong sứ vụ chung của Giáo Hội. Giáo Hội đã phải đấm ngực thú nhận “lỗi tại tôi mọi đàng” vì thái độ tiêu cực đã từng có đối với Dân Chúa, vì đã bỏ quên các đặc sủng Thánh Thần ban cho họ, đã bỏ rơi tài năng đa dạng của họ, cũng như vì đã đối xử với họ như là loại dân thiêng liêng thứ cấp. Và mặt khác, bởi có kiến thức đầy đủ và được đào tạo chu đáo, giáo dân ngày nay không những không còn ngại ngùng, mà hơn nữa, còn mạnh mẽ dấn thân vào trong các công tác tông đồ và hành chánh của Giáo Hội. Không thiếu gì giáo dân đích thân đứng ra thành lập các phong trào hoặc hội đoàn tông đồ hay đạo đức. Và hiện nay, cũng không thiếu gì giáo dân đang đứng đầu dẫn dắt các cộng đoàn giáo xứ. Và trong khắp thế giới, đại đa số các giáo lý viên đều là giáo dân: họ là những thầy giáo khai tâm, có sứ mạng gieo hạt giống Lời Chúa vào lòng các thế hệ trẻ. Giáo Hội có bổn phận nhìn nhận địa vị của họ, không chỉ cứ sự không thôi mà còn cứ luật nữa. Bởi thế, đã đến lúc phải gấp rút sửa đổi nhiều điều trong Giáo Hội, phải thay đổi cả não trạng, thái độ và cơ cấu: thời kỳ đã mãn! [Về lời phát biểu của một Giám Mục Úc, xin xem John Heaps, A Love That Da­res to Question, A Bishop Challenges His Church, Grand Rapids: Eerdmans 2002)]

“Công Đồng Vatican II đã đổi hẳn cách quan niệm, và hơn nữa đã đổi luôn cả mô biểu quy chiếu của Giáo Hội học. Suy tư dựa theo thực trạng biện chứng giữa Mầu Nhiệm và Dân Thiên Chúa, Công Đồng đã nhận ra ngay là cần phải đổi mới Giáo Hội. Các Nghị Phụ đã thấy là phải không ngừng thanh luyện (x. GH 8) và cải cách Giáo Hội (x. HN 6). Ít khi Công Đồng dùng đến từ reformatio (cải cách), nhưng lại dùng rất nhiều đến từ reno­va­tio (đổi mới, canh tân) để nhấn mạnh đến tính chất liên tục trong Hội Thánh. Mục đích của việc đổi mới là để làm cho mình trở thành ngày càng hữu hiệu hơn đối với ơn gọi của mình (x. HN 6), tức là để chu toàn hoàn hảo hơn sứ mệnh tại thế gian của mình. Ðiều đó giả thiết một nỗ lực căn bản và trường kỳ nơi mọi tín hữu (từ Giáo Hoàng cho tới người tân tòng cuối cùng), nỗ lực thống hối và cải thiện nội tâm, cũng nỗ lực cải tiến các hình thức sống đạo cá nhân, cách tổ chức và quản trị cộng đoàn, cách thể thi hành sứ vụ, v.v. Còn về những phương tiện thì chính Sắc Lệnh về Ðại Kết cũng đã đề ra một số chỉ dẫn: Giáo Hội thực hiện cuộc canh tân ấy bằng nhiều hình thức khác nhau trong đời sống Giáo Hội, như phong trào Kinh Thánh và Phụng Vụ, việc Rao Giảng Lời Chúa và Giáo Lý, Hoạt Động Tông Đồ Giáo Dân, những hình thức mới trong đời Tu Trì, Nền Linh Đạo Hôn Nhân, Học Thuyết và Hoạt Động Xã Hội của Giáo Hội (x. HN 6b). Ðáng chú ý là việc Tông Đồ của Giáo Dân được đặc biệt nêu bật. Và hơn nữa, Công Đồng Vatican II là công đồng đầu tiên đã công bố một sắc lệnh về giáo dân, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Tông Ðồ Giáo Dân! [Về lịch sử Vatican II nói chung, xin xem Giuseppe Alberigo, Joseph A. Komonchak (Eds.), History of Vatican II, Vol 1-4, Orbis Books 1996-1999; Collectif, Histoire du concile Vatican II, 3 vols., Cerf 1997.]  

Làm thế nào để thay đổi mô biểu của Giáo Hội học? Khi ủy ban chuẩn bị Công Đồng đề nghị lược đồ về Giáo Hội, thì đa số Nghị Phụ đã từ chối không nhận và yêu cầu một nhóm thần học gia nổi tiếng soạn thảo một lược đồ khác. Sau nhiều buổi thảo luận gay go và nhiều lần bỏ phiếu, Công Đồng đã đạt được một kết quả bất ngờ, tựa như theo lối biểu đạt của cha D.-M. Chenu, O.P. một cuộc cách mạng Copernic trong Giáo Hội học: ngày trước, Giáo Hội được quan niệm chủ yếu như là một xã hội đặt dưới quyền thống trị của Hàng Giáo Phẩm, và làm như tâm điểm của Giáo Hội tập trung cả vào nơi quyền bính của Hàng Giáo Phẩm [Vatican II: The Faithful Revolution, Thomas More Publishing, 1998] còn Công Đồng thì lại đặt tâm điểm nơi chính Thiên Chúa (mầu nhiệm), và cộng đồng tín hữu là Dân Thiên Chúa. Trong cộng đồng Giáo Hội, mọi thành viên đều có phẩm giá ngang nhau, dù chức năng có khác nhau. Nguồn gốc chung của mọi thừa tác vụ là Phép Thánh Tẩy, rồi các Bí Tích khác thì làm phát sinh nhiều Thừa Tác Vụ khác nhau; vì thế, trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, chương 3 bàn về cơ cấu phẩm trật và chương 4 về giáo dân, nói cách khác: trước tiên bàn về nhiệm vụ chung, rồi sau đó mới đến các đặc tính của từng phần. Hơn nữa, sử liệu công đồng cũng cho thấy rằng tính chất chung này, đặc biệt là ơn gọi chung tiên tri, tư tế và vương giả là nguyên tắc chú giải (herme­neutical principle) áp dụng cho toàn bộ Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, tức cho nền Giáo Hội học của Vatican II. Hiến chế được chấp nhận ngày 21.11.1964, với 2151 phiếu thuận và 5 phiếu phủ quyết. Cho đến Vatican II, không một công đồng nào đã bàn luận như thế về giáo dân.

Như vậy, Dân Thiên Chúa (toàn thể tín hữu không phân biệt trật bậc) là nền tảng của Hội Thánh cả về phương diện xã hội lẫn về phương diện bí tích. Giáo Dân và Giáo Sĩ quả là khác nhau, song không phải như bề trên với bề dưới: hai bên đều chia sẻ cùng một ơn gọi nên thánh và cùng một sứ mệnh chung là xây dựng Nước Trời. Phải nói là ơn gọi chung này phức tạp và bao gồm nhiều ơn gọi riêng, cùng những đặc sủng tập thể cũng như cá nhân, thông thường thì được ban qua các bí tích khác nhau.

Vậy, nguồn suối của sức đổi mới trong Giáo Hội là Missio Dei, tức sứ mệnh Thiên Chúa trao phó (qua sự việc Chúa Cha sai phái Chúa Con, và Chúa Con sai phái Giáo Hội); và mục đích của sứ mệnh ấy là làm chứng cho Thiên Chúa và triển dương vương quyền tại thế của Người. Sứ mệnh là lý do hiện hữu (raison dêtre) của Giáo Hội: thiết lập Giáo Hội là Ðức Ki-tô có ý tạo nên một phương thế làm khí cụ của việc kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, và của mối hiệp nhất giữa toàn thể nhân loại (GH 1); nói cách khác: Giáo Hội là để cho thế gian, chứ không phải ngược lại, và Dân Chúa (mà đa số là giáo dân) là phương thế để đạt tới mục đích ấy; căn tính của Giáo Hội cốt tại ở sứ vụ này, và giáo dân càng dấn thân cho sứ vụ thì Giáo Hội càng thành tựu chính mình, càng lớn lên, v.v. Giáo Hội sẽ đổi mới hay không và đến mức độ nào, thì đó là tùy vào mức độ dấn thân của toàn thể Dân Chúa cho sứ vụ làm chứng về Ðức Ki-tô và phục vụ muôn loài. Việc gặp gỡ với xã hội, văn hóa, tôn giáo, v.v. phải diễn ra trong khuôn khổ và với tinh thần của sứ mệnh (Wilbert R. Shenk, Mission, Renewal, and the Future of the Church, International Bulletin of Missionary Research 21 (1997): 154-159).

[Felipe Gomez, Ngô Minh, SJ, bài đã dẫn]

 

II.- Trong các văn kiỆn Công ĐỒng Vatican II đã dành mỘt vỊ trí quan trỌng cho Giáo Dân

Ngoài các văn kiện liên quan tới mọi thành phần Dân Chúa là 4 Hiến Chế (Hiến Chế Mạc Khải Lời Thiên Chúa, Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong Thế giới Ngày Nay), 2 Sắc Lệnh Truyền Giáo và các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội và 3 Tuyên Ngôn (Giáo Dục Ki-tô giáo, Liên Lạc của Giáo Hội với các Tôn Giáo ngoài Ki-tô giáo và Tự Do Tôn Giáo), Công Đồng Vatican II còn có những văn bản riêng về Giáo Dân. Linh mục Felipe Gomez Ngô Minh SJ đã viết về vấn đề này như sau:

“Vatican II đã đặc biệt bàn về Giáo Dân trong chương 4, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, và trong Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo dân. Tất cả những gì nói về Dân Thiên Chúa thì đều liên quan đồng đều đến cả Giáo Dân, Tu Sĩ và Giáo Sĩ (GH 30) để mọi người cùng góp phần vào công cuộc chung tùy theo cách thế của mình. Theo Công Đồng, cứu cánh của Dân thiên sai là phát triển thêm mãi Nước Thiên Chúa và không ngừng tự đổi mới dưới tác động của Chúa Thánh Thần (GH 9). Tất cả mọi thành viên đều tham dự vào chức tư tế cộng đồng (x. GH 10-11) và hưởng nhận những đoàn sủng khác nhau khiến họ có đủ khả năng và sẵn sàng đảm nhận những công tác và nhiệm vụ khác nhau, hữu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo Hội (GH 12). Vì thế, làm việc tông đồ là giáo dân thông phần vào chính sứ mệnh cứu độ của Giáo Hội. Qua việc lãnh nhận bí tích Rửa tội và Thêm sức, hết thảy mọi tín hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ (GH 33b). Ðã được làm anh em của Ðức Ki-tô cũng như của hàng giáo phẩm và giáo sĩ (x. GH 32d), tất giáo dân có nhiệm vụ cao cả là làm cho quyết định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan rộng tới tất cả mọi người ở mọi nơi, trong mọi thời đại (GH 33c).      

Cuối cùng, chương 4 kết thúc với lời trích dẫn thư gửi Diognetus (thế kỷ 20): Người Ki-tô hữu làm cho thế giới sống hệt như linh hồn làm cho thân xác sống vậy (GH 38).

Tiếp theo sau đó, Sắc Lệnh về Tông Đồ Giáo Dân đã bắt đầu với lời xác định nói rằng: các Ki-tô hữu Giáo Dân giữ một phần cá biệt và thiết yếu trong sứ mệnh của Giáo Hội (TÐ 1), rồi khai triển nội dung của nhiệm vụ này, và sau cùng kết thúc với lời kêu gọi: Nhân Danh Chúa, thánh Công Đồng tận lực kêu mời tất cả các Giáo Dân hãy quảng đại, mau mắn đáp lại tiếng của Chúa Ki-tô hiện đang khẩn khoản mời gọi, cũng như hưởng ứng đà thúc đẩy của Chúa Thánh Thần (TÐ 33). Công Đồng đã nhắc đi nhắc lại lời kêu mời này trong nhiều văn kiện; chẳng hạn, Hiến Chế Mục Vụ đã lên tiếng phàn nàn rằng: Tình trạng ly gián giữa đức tin các Ki-tô hữu tuyên xưng và cuộc sống thường nhật của nhiều người, là một trong số những sai lầm trầm trọng nhất của thời đại chúng ta, và đồng thời khẳng định như sau: Giữ những phận vụ sinh động cần được thi hành trong đời sống Giáo Hội toàn thể, không những người Giáo Dân có sứ mạng đưa tinh thần Ki-tô giáo thấm đượm vào trong thế giới, mà còn được kêu gọi để làm chứng cho Ðức Ki-tô trong mọi hoàn cảnh, ngay giữa lòng cộng đoàn nhân loại (MV 43ad).

Qua những lời lẽ như thế, rõ ràng là Giáo Hội muốn gióng lên lời mời tha thiết kêu gọi Giáo Dân hăng say, quảng đại cùng tận lực dấn thân cho sứ mệnh Ki-tô, và hy vọng nhiều người sẽ đáp ứng tích cực.” [Felipe Gomez, Ngô Minh, SJ, bài đã dẫn]

 

III.- Công ĐỒng VATICAN II xác định danh hiỆu, tính cách riêng biỆt và đẶc thù cỦa Giáo Dân

3.1 ”Danh hiệu giáo dân ở đây được hiểu là tất cả những Ki-tô hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Giáo Hội công nhận; nghĩa là những Ki-tô hữu đã được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Ki-tô nhờ phép Thánh Tẩy, đã trở nên Dân Thiên Chúa, và tham dự vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Ki-tô theo cách thức của họ; họ là những người đang thực hiện sứ mệnh của toàn dân Ki-tô giáo trong Giáo Hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình.

3.2 “Tính cách trần thế là tính cách riêng biệt và đặc thù của giáo dân. Thực vậy các phần tử trong hàng giáo sĩ dù đôi khi có thể lo những việc trần thế, hoặc hơn nữa, hành nghề giữa đời, nhưng vì ơn kêu gọi đặc biệt, sứ mệnh chính yếu và rõ rệt của họ vẫn là sứ vụ thánh. Phần các tu sĩ, do bậc sống của họ, làm chứng cách hùng hồn và cao quí rằng người ta không thể cải tạo thế giới và cung hiến nó cho Thiên Chúa được, nếu không có tinh thần các mối phúc thật. Vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội; tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Ðó là nơi Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, và nhất là với bằng chứng đời sống, họ tỏ lộ Chúa Ki-tô cho kẻ khác, vì thế, họ có nhiệm vụ đặc biệt soi sáng và xếp đặt những thực tại trần gian có liên hệ mật thiết với họ, để chúng không ngừng phát triển và bành trướng theo Thánh Ý Chúa Ki-tô, hầu ca tụng Ðấng Tạo Hóa và Ðấng Cứu Ðộ.” [Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội tức Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân - Lumen Gentium - (viết tắt là LG trong tiếng la tinh và là GH trong tiếng Việt), số 31].

 

IV.- Công ĐỒng VATICAN II xác đỊnh mỐi tương quan mỚi cỦa giáo dân vỚi Hàng Giáo PhẨm và Hàng Giáo Sĩ

Nói đến mối tương quan giữa giáo dân và giáo sĩ, giáo phẩm là một điều hết sức tế nhị, vì rất dễ đụng chạm và bị hiểu lầm. Nhưng chúng ta cũng không có gì phải sợ mà tránh né, vì chúng ta cũng chỉ làm công việc là học hỏi các hướng dẫn của Công Đồng Vatican II. Mặt khác chính khi xác định được mối tương quan giữa giáo dân với giáo phẩm mà chúng ta biết rõ gía trị của mình hơn.  Công đồng Vatican II nói rất rõ về quyền lợi và nghĩa vụ của người giáo dân trong mối tương quan với hàng giáo phẩm, giáo sĩ. Chúng ta có thể tìm thấy

- trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (số 37),

- trong Sắc Lệnh về Chức Vụ và Đời Sống các Linh Mục (số 9).

- và trong Tông Huấn Người Ki-tô hữu giáo dân của Đức Gio-an Phao-lô II (số 29):    

 

4.1 Trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, số 37, xác định mối tương quan của Giáo Dân với Hàng Giáo Phẩm với những quyền lợi và nghĩa vụ cụ thể như sau:

 “Như mọi Ki-tô hữu khác, giáo dân cũng có quyền được các chủ chăn có chức thánh ban phát dồi dào ơn trợ lực chứa đựng trong kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội, đặc biệt là Lời Thiên Chúa và các bí tích. Như con cái Thiên Chúa và như anh em trong Chúa Ki-tô, họ cũng sẽ trình bày với các vị ấy những nhu cầu và khát vọng của mình một cách tự do và tín cẩn. Nhờ sự hiểu biết, khả năng chuyên môn và uy tín của họ, họ có thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ mình về những việc liên quan đến lợi ích của Giáo Hội. Họ nên thực hiện điều đó, nếu cần, nhờ vào các cơ quan đã được Giáo Hội thiết lập nhằm mục đích ấy; và họ hãy luôn chân thành, can đảm và khôn ngoan, kính trọng và yêu mến những người thay mặt Chúa Ki-tô vì nhiệm vụ thánh của các ngài.

Như mọi tín hữu khác, với tinh thần vâng lời của người Ki-tô hữu, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận những điều mà các chủ chăn có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Ki-tô, đã quyết định với tư cách những thầy dạy và những nhà lãnh đạo trong Giáo Hội; làm như thế, họ đã theo gương Chúa Ki-tô, Ðấng đã vâng lời cho đến chết, để mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Giáo dân đừng quên dùng lời cầu nguyện phó dâng cho Thiên Chúa các vị lãnh đạo của mình, để các ngài hoan hỷ mà không than vãn thi hành nhiệm vụ chăm sóc linh hồn chúng ta, nhiệm vụ mà các ngài sẽ phải trả lẽ (x. Dt 13,17).

Phần các chủ chăn có chức thánh, các ngài phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo Hội, các ngài nên sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khôn ngoan của họ, tin cẩn giao phó cho họ những công tác để họ phục vụ Giáo Hội, cho họ tự do và quyền hạn để hành động; hơn nữa, các ngài cũng nên khuyến khích họ tự đảm lấy trách nhiệm. Với tình cha con, các ngài hãy cẩn thận xem xét, trong Chúa Ki-tô, những kế hoạch, thỉnh cầu và khát vọng của họ. Ðàng khác, các chủ chăn phải nhìn nhận và tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực trần thế.

Họ hy vọng rằng, sự liên lạc mật thiết giữa giáo dân và chủ chăn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội: thực vậy, nhờ sự liên lạc đó, giáo dân ý thức trách nhiệm mình một cách vững vàng hơn; lòng hăng say của họ được phát triển, và họ góp sức dễ dàng hơn vào công việc của các chủ chăn. Phần các chủ chăn, nhờ sự trợ lực kinh nghiệm của giáo dân, các ngài có thể phán đoán minh bạch và đúng đắn hơn về những vấn đề thiêng liêng cũng như trần thế; như vậy, toàn thể Giáo Hội được vững mạnh nhờ tất cả mọi chi thể, sẽ chu toàn hữu hiệu hơn sứ mệnh mình đối với sự sống của thế gian.» [Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội tức Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, số 37].

- Từ bản văn trên chúng ta có thể rút ra những điều sau đây:

- Với hàng Giáo Phẩm: Giáo Dân có:

* QUYỀN được lãnh nhận một cách dồi dào những ơn trợ lực từ kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội, nhất là từ Lời Chúa và Bí Tích;

* QUYỀN bày tỏ những nhu cầu và ước vọng của mình, trong tinh thần tự do, tin tưởng phù hợp với tư cách của những con cái Thiên Chúa và anh em Đức Ki-tô;

* KHẢ NĂNG VÀ NGHĨA VỤ (đôi khi) nói lên cảm nghĩ của mình về những việc liên quan tới lợi ích của Giáo Hội trong tinh thần chân thành, can đảm, khôn ngoan, kính trọng và bác ái;

* BỔN PHẬN tuân theo những chỉ thị mà hàng Giáo Phẩm quyết định với tư cách thày dạy  và lãnh đạo Giáo Hội.

- Với Giáo Dân: Hàng Giáo Phẩm:

* PHẢI NHÌN NHẬN và NÂNG CAO PHẨM GIÁ và TRÁCH NHIỆM của Giáo Dân trong Giáo Hội;

* NÊN CHẤP NHẬN những ý kiến khôn ngoan của Giáo Dân, tin cẩn giao cho họ những công tác để họ phục vụ Giáo Hội; 

* NÊN KHUYẾN KHÍCH giáo dân lãnh lấy phần trách nhiệm của họ và tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực trần thế.

 

4.2 Trong Sắc lệnh về Chức Vụ và Đời Sống các Linh Mục, số 9 xác định:

“Các Linh Mục phải lãnh đạo cộng đồng làm sao để không tìm lợi ích riêng cho mình, nhưng tìm lợi ích cho Đức Giê-su Ki-tô (Pl 2,21) bằng cách kết hợp cố gắng của mình với cố gắng của giáo dân và xử sự với họ theo gương Thầy là Đấng đến ở giữa mọi người, không phải để được hầu hạ, nhưng là để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm gía chuộc thay cho nhiều người “ (Mt 20,28).

Cụ thể, Sắc Lệnh vạch ra 6 chỉ dẫn sau đây cho các Linh Mục:

(1º) “Các Linh Mục phải chân thành nhìn nhận và thăng tiến phẩm gía của Giáo Dân và vai trò riêng của họ trong sứ mệnh Hội Thánh;

(2º) “Các Linh Mục phải chân thành kính trọng sự tự do chính đáng mà mọi người có quyền được hưởng trong lãnh vực trần thế;

(3º) “Các Linh Mục phải sẵn lòng lắng nghe Giáo Dân, cứu xét các nguyện vọng của họ trong tinh thần huynh đệ, nhìn nhận kinh nghiệm và khả năng chuyên môn của họ trong các lĩnh vực khác nhau của hoạt động nhân bản, để cùng với họ có thể nhận biết các dấu chỉ của thời đại;

(4º) “Trong khi nghiệm xét các Thần Khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, các ngài phải lấy tinh thần đức tin mà khám phá và nhận ra các đoàn sủng muôn hình vạn trạng của Giáo Dân, từ những đoàn sủng nhỏ bé nhất đến những đoàn sủng cao vượt nhất. Các ngài sẽ vui mừng nhìn nhận và nhiệt thành phát huy các đoàn sủng ấy;

(5º) “Trong những hồng ân mà Thiên Chúa ban tràn đầy trên các tín hữu như thế, phải đặc biệt lưu tâm đến những ơn lôi kéo một số Giáo Dân tiến xa hơn trên đường thiêng liêng;

(6º) “Cũng thế, các Linh Mục phải biết tin tưởng Giáo Dân để giao phó cho họ những trách nhiệm trong việc phục vụ Hội Thánh, để cho họ được tự do và có điều kiện hoạt động, hơn nữa còn khuyến khích họ mỗi khi gặp cơ hội thuận tiện phải biết tự mình có sáng kiến mà hành động”

 

4.3 Trong Tông huấn “Người Ki-tô hữu giáo dân” (Christifideles Laici), số 29, của Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II (là Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới năm 1987 về “Ơn gọi và Sứ mạng của Giáo Dân trong Giáo Hội và Thế Giới”), ngoài các quyền mở rộng công tác tông đồ và quyền tham gia vào các đại hội đồng giáo phận, giáo hạt, giáo xứ của Giáo Dân, còn nêu lên một quyền lợi khác là quyền tự do thành lập hội đoàn trong Giáo Hội:

“Trước tiên phải công nhận là người Tín Hữu Giáo Dân có quyền tự do thành lập hội đoàn trong Giáo Hội. Quyền tự do này là một quyền lợi thật, nó không phải chỉ là hình thức“nhân nhượng” của giáo quyền mà là hậu quả đương nhiên của Phép Rửa”   

 

V.- Các VỊ Giáo Hoàng và Giáo LuẬt hẬu Công ĐỒng đã có nhỮng quyẾt đỊnh quan trỌng liên quan tỚi giáo dân.

5.1 Ðức Phaolô VI đã đổi mới hệ thống thừa tác vụ không-bí tích trong Giáo Hội (Ministeria Quaedam, 15.8.1972). Chức Cắt tóc và chức Phụ phó tế không còn; các chức Ðọc sách và Giúp lễ thì đã trở thành những Thừa tác vụ mở rộng cho cả giáo dân.

 

5.2 Bộ Giáo Luật mới liệt kê nhiều nhiệm vụ Giáo Dân có thể đảm trách và thi hành: không chỉ các tác vụ giúp lễ và đọc sách trong phụng vụ (đ 230), mà còn cả tác vụ giảng Lời Chúa (trừ bài giảng sau Phúc âm, đ 776; 762.1). Giáo Dân có thể dạy thần học với danh nghĩa chính thức (đ 229.3), và đến một mức nào đó, đảm nhiệm cả những phận vụ chưởng ấn (đ 483.2), lục sự (đ 483.2) và biện lý trong giáo phận (đ 494); có thể làm thẩm phán trong một tòa án tập đoàn (đ 1431.2), cố vấn thẩm phán (đ 1424), chưởng lý và bảo hệ viên (đ 1435); có thể làm kiểm toán viên (đ 1428.2) cũng như thụ ủy (đ 1483). Trong giáo phận, Giáo Dân có thể làm thành viên của hội đồng kinh tế (đ 492.3) và hội đồng mục vụ (đ 512.1); còn trong họ đạo thì Giáo Dân có thể phối trí những công tác tông đồ dưới quyền chỉ đạo của cha xứ, và nếu không có linh mục, giáo dân có thể đảm trách việc trông coi họ đạo (đ 517.2). Giáo Dân có thể làm thừa sai (đ 784), làm thừa tác viên ngoại thường của Phép Rửa (đ 861.2), phân phát (đ 910.2) và đặt Mình Thánh Chúa (đ 943); Giáo Dân cũng có thể cử hành phụng vụ hôn phối (đ 1112), phụng vụ an táng và nhiều á bí tích khác (đ 1168). Khuôn mẫu pháp lý đã sẵn có, chỉ cần có ứng viên có đủ khả năng và điều kiện vào các chức vụ ấy.

5.3 Trong những thập kỷ gần đây, Tòa Thánh cũng đã đề xuất một số văn kiện về giáo dân. Trong Tông Huấn về Việc Dạy Giáo Lý Catechesi Tradendae (16.10.1979), Ðức Gio-an Phao-­lô II đã nêu bật vai trò của các Giáo Lý Viên Giáo Dân (số 66). Ðặc biệt, Tông Huấn Christifideles Laici (30.12.1988), thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1987, đã được coi là Hiến Chương của Giáo Dân. Tình trạng của Giáo Dân trong Giáo Hội có thể được ví như những người đứng đường rỗi rãi vì không ai mướn, trong khi có nhiều việc phải làm cho vườn nho; giờ đây, gia chủ (Ðức Ki-tô và Giáo Hội) bảo họ: Cả các anh nữa, hãy đi vào làm vườn nho cho tôi! (Mt 20,3-7). Cả một thế hệ sau Vatican II, các Giám Mục mới đấm ngực thú tội là đã không dùng hoặc không dùng cho đúng mức tài năng và đặc sủng của Giáo Dân. Bước vào thiên kỷ thứ ba này, trong Giáo Hội, không ai có thể ở rỗi rãi mà không ra tay làm việc được cả. Ðức Giáo hoàng đã nhắc lại lời của Ðức Pi-ô XII nói rằng Giáo Dân không chỉ thuộc về Giáo Hội, mà chính là Giáo Hội! Thế nên, họ tham dự vào thừa tác vụ tính (ministeria­lity) của Nhiệm Thể Ðức Ki-tô, nghĩa là chia sẻ bản chất tư tế, tiên tri và vương giả của Ðầu là Ðức Ki-tô, trong chiều kích làm men muối và ánh sáng giữa trần thế, như Vatican II đã dạy. Ðể chu toàn sứ mệnh, trước hết giáo dân phải thực sự nên thánh theo ơn gọi và thể cách riêng của mình, phải biết sống hiệp thông với Hội thánh toàn thể và áp dụng những ân huệ của Thánh Thần để phục vụ mọi người. Từ các ân huệ ấy xuất phát các nhiệm vụ, các thừa tác vụ và vai trò khác nhau trong Giáo Hội, lãnh nhận qua các bí tích; do đó, mọi người đều được mời gọi đảm nhận phần trách vụ trong sứ mệnh của Giáo Hội, cả đến trách nhiệm mục vụ trong giáo xứ (Cateche­­si trad. 25-26), cùng tác vụ công bố Tin Mừng cho lương dân (x. số 33, 35). Ðức Gio-an Phao-lô II quả quyết: đã đến giờ phải tiến hành công cuộc tân phúc âm hóa, và nếu đã thông dự trọn vẹn vào trong sứ mệnh tiên tri của Ðức Ki-tô, tất Giáo Dân cũng có bổn phận thông dự hoàn toàn vào trong sứ vụ của Giáo Hội (số 34). Chắc hẳn Giáo Dân cần phải được đào tạo chu đáo hơn cả về mặt giáo lý đức tin lẫn về mặt kỹ năng và đối với công tác đào luyện này, Giáo Sĩ có một bổn phận đặc biệt. Cuối cùng ngài kết thúc: Tôi tha thiết kêu gọi hết thảy mọi giáo hữu, mục tử cũng như giáo dân, hãy mãi mãi kiên trì giữ gìn cho sống động cảm thức về Giáo Hội, luôn luôn ý thức mình là thành phần của Hội thánh Chúa Giê-su Ki-tô, được thông dự vào mầu nhiệm hiệp thông của Giáo Hội, vào sức năng động của sứ mệnh tông đồ Giáo Hội đảm nhận (số 64).

Các tài liệu khác cũng đều đi theo cùng một đường hướng và đều gióng lên cùng một lời mời gọi. Quả vậy, càng ý thức về những nhu cầu của Giáo Hội, thì Tòa Thánh càng mạnh mẽ kêu gọi Giáo Dân góp phần vào sứ mệnh chung.»

[Felipe Gomez  Ngô Minh, SJ, bài đã dẫn].

 


ĐÚC KẾT Ý KIẾN

BUỔI THẢO LUẬN & CHIA SẺ

CỦA KHÓA LINH ĐẠO GIÁO DÂN-TRUNG TÂM MỤC VỤ ĐA MINH NGÀY 15/04/2012

 

I. CÂU HỎI

Câu 1

a) Anh/Chị có cho rằng Giáo hội Việt Nam ít biết và ít quan tâm đến việc học hỏi và áp dụng các văn kiện của Công đồng Vatican II không? 

b) Nếu quả thực là Giáo hội Việt Nam ít biết và ít quan tâm đến việc học hỏi và áp dụng các văn kiện của Công đồng Vatican II thì tại sao lại như thế?

Câu 2

a) Theo Anh/Chị thì Giáo hội Việt Nam phải làm gì hơn nữa để nâng cao địa vị và vai trò của giáo dân trong Giáo hội? 

b) Theo Anh/Chị thì Giáo hội Việt Nam phải làm gì hơn nữa để hỗ trợ giáo dân chu toàn trách nhiệm trần thế của họ trong xã hội? 

 

II. ĐÚC KẾT CÁC Ý KIẾN CỦA BỐN NHÓM

Câu 1

a) Anh/Chị có cho rằng Giáo Hội Việt Nam ít biết và ít quan tâm đến việc học hỏi và áp dụng các văn kiện của Công đồng Vatican II không? 

* Có 37/39 học viên cho rằng Giáo hội Việt Nam ít biết và ít quan tâm đến việc học hỏi và áp dụng các văn kiện của Công đồng Vatican II. Và có 2/39 học viên cho rằng Giáo hội Việt Nam biết và quan tâm khá nhiều đến việc học hỏi và áp dụng các văn kiện của Công đồng Vatican II.

 

b) Nếu quả thực là Giáo hội Việt Nam ít biết và ít quan tâm đến việc học hỏi và áp dụng các văn kiện của Công đồng Vatican II thì tại sao lại như thế?

à Theo các thành viên trong Nhóm, thì việc Giáo Hội Việt Nam ít biết và ít quan tâm đến việc học hỏi và áp dụng các văn kiện của Công Đồng Vatican II có các nguyên nhân sau đây:

(1°) Giáo hội Việt Nam cho là giáo dân yếu kém, chỉ dành cho các bậc tu trì mà thôi,

(2°) Không có lớp dậy về Công đồng Vatican II.

(3°) Giáo hội không chia sẻ, giảng dậy về Công đồng Vatican II.

(4°) Điều kiện chính trị, xã hội Việt Nam khiến Hàng Giáo Phẩm chưa tạo nhiều cơ hội.

(5°) Những lớp học còn giới hạn về số học viên tham dự.

(6°) Giáo dân còn bận rộn công việc, chưa có thời gian.

(7°) Giáo dân hiền, cả nể phụ thuộc vào linh mục nhiều.

(8°) Linh mục chưa thực sự hiểu và tạo cơ hội để giáo dân hoạt động.

(9°) Có ít khóa học giúp giáo dân hiểu biết về Công đồng Vatican II.

(10°) Bản than giáo dân ít chịu tìm hiểu, học hỏi.

(11°) Tập quán của đa số giáo dân là nghe hơn là đọc và học hỏi.

(12°) Đội ngũ những người giảng dậy về Công đồng Vatican II rất ít, còn linh mục thì nhiều việc ở giáo xứ cũng không có thời gian để dậy cho giáo dân.

(13°) Giáo dân không có tiếng nói, theo sự áp đặt của linh mục.

(14°) Không được sự quan tâm của cha xứ khuyến khích giáo dân học tập, chỉ mến đạo, mộ đạo, giữ đạo (chưa hiều đạo).

(15°) Tinh thần củagiáo dân không quan tâm, không học hỏi.

(16°) Kinh tế khó khăn, hạn chế trình độ, nhận thức nên chưa quan tâm.

(17°) Chỉ học vể Kinh Thánh, các cha chưa quan tâm phổ biến các văn kiện cho giáo dân, không đưa vai trò giáo dân trong Giáo hội.

 

Câu 2

a) Theo Anh/Chị thì Giáo hội Việt Nam phải làm gì hơn nữa để nâng cao địa vị và vai trò của giáo dân trong Giáo hội? 

à Theo các thành viên trong Nhóm, thì nếu muốn nâng cao địa vị và vai trò của giáo dân trong Giáo hội thì Giáo hội Việt Nam phải làm hơn nữa những việc sau đây:

(1°) Phổ biến toàn bộ các văn kiện cho giáo dân,cho những người có trình độ

(2°) Những người trong hội đoàn phải ý thức tham gia các buổi học tập.

(3°) Các vị chủ chăn phải thay đổi suy nghĩ, để cao nâng cao vai trò của giáo dân, mở các lớp học phổ biến văn kiện cho giáo dân biết và thực hiện.

(4°)  Tinh thần học hỏi của giáo sĩ, giáo dân còn thấp, phải cần cố gắng học tập hơn nữa.

(5°) Giáo hội Việt Nam cần nâng cao trình độ cho giáo dân bằng việc mở các lớp học.

(6°) Mỗi giáo dân tự học hỏi và trang bị kiến thức cho mình.

(7°) Cải tổ quan điềm suy nghĩ các thành phần trong Giáo hội.

(8°) Giáo dân cần học hỏi nhiều hơn về Công đồng để sống đúng tinh thần.

(9°) Các thừa tác (có chức thánh) cần khuyến khích tinh thần học hỏi, tổ chức cho giáo dân học.

(10°) Linh mục và giáo dân cần xây dựng mối liên hệ hợp tác yêu thương xây dựng cho nhau nhiều hơn. Tránh thái độ linh mục là bề trên, truyền lệnh cho giáo dân.

(11°) Tổ chức nhiều lớp học để giáo dân biết được vai trò của mình trong Giáo hội.

(12°) Tổ chức nhiều lớp tại giáo hạt để giáo dân thuận tiện trong việc di chuyển.

(13°) Linh mục phải gần gũi với giáo dân để có thể khơi dậy trong giáo dân niềm yêu mến, ham học hỏi.

(14°) Linh mục tin tưởng, khuyến khích để giao phó cho giáo dân các trọng trách trong Giáo hội.

 

b) Theo Anh/Chị thì Giáo hội Việt Nam phải làm gì hơn nữa để hỗ trợ giáo dân chu toàn trách nhiệm trần thế của họ trong xã hội? 

à Theo các thành viên trong Nhóm, để hỗ trợ giáo dân chu toàn trách nhiệm trần thế trong xã hội thì Giáo hội Việt Nam phải làm hơn nữa những việc sau đây:

(1°) Dậy cho giáo dân biết linh đạo giáo dân để họ chu toàn trách nhiệm trần thế trong xã hội, không thể linh đạo giáo sĩ, tu sĩ cho giáo dân.

(2°) Hàng giáo phẩm phải làm gương cho giáo dân để họ cũng trở thành muối men giữa cuộc sống thường ngày.

(3°) Có người linh hướng cho từng nhóm đối tượng (sinh viên, doanh nhân, công nhân).

(4°) Phải tôn trọng giáo dân, huấn luyện giáo dân trong công tác tông đồ, nhất là quan tâm đến giới trẻ, giáo lý viên.

(5°) Đổi mới tư duy não trạng cho giáo dân sang não trạng của giáo dân

(6°) Tạo điều kiện cho giáo dân phát triển học tập.

(7°) Nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức, học hội giáo lý, Kinh Thánh cho giáo dân.

(8°) Mở lớp nâng cao trình độ của giáo dân.

(9°) Giáo hội phải truyền thông rộng rãi vai trò của giáo dân.

(10°) Người Ki-tô hữu chúng ta phải biết sống khích lệ, ủng hộ và hưởng ứng.

(11°) Là một Ki-tô hữu thì người giáo dân của chúng ta sống cuộc sống đích thực, hữu ích, năng lực thì mới giúp ích cho xã hội thăng tiến.

(12°) Tạo một cầu nối thiết thực giữa giáo dân và Giáo hội và đời sống tu sĩ để học hỏi tìm hiểu về lối sống đạo.

(13°) Nói cho giáo dân biết vị thế thực sự của mình để họ tích cực sống đạo.

(14°) Giáo dân tôn trọng linh mục và cần đóng góp thẳng thắn hơn.

(15°) Các thành phần trong Giáo hội cần tôn trọng nhau và kết hợp nhuần nhuyễn hơn để sống tinh thần đạo giữa đời.

(16°) Phổ biến nhiều hơn văn kiện, tài liệu về Giáo hội để giáo dân hiểu và sống mầu nhiệm Giáo hội hơn.

 

Người nêu câu hỏi và đúc kết các ý kiến

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

 

 

BỐN ĐỀ TÀI CHÍNH

CỦA CÔNG ĐỒNG VATICAN II

Gm Gio-an Baotixia Bùi Tuần

 

Dịp Tĩnh Tâm tháng này, tôi xin trình bày mấy nét chính của nội dung Công đồng Vatican II. Tôi chọn đề tài trên vì 3 lý do:

* Lý do thứ nhất là vì tháng vừa qua, khi nghe rao ý chỉ cầu nguyện tháng 3 in trong lịch công giáo là: “Cầu cho mỗi người Kitô hữu cũng như các Giáo hội địa phương biết luôn luôn theo tinh thần Công đồng Vatican II”  thì nhiều giáo dân và có cả người ngoại đã hỏi: “Tinh thần Công đồng Vatican II là gì?” Thực là bất ngờ nhận thấy không thiếu người, kể cả linh mục, tu sĩ đã không trả lời được.

*  Lý do thứ hai là vì tháng vừa qua, một Tổng Giám Mục nổi tiếng cực kỳ bảo thủ, không chịu tuân thủ Công đồng Vatican II đã từ trần. Đó là Đức Cha Marcel Lefèvre. Nhìn ngài, rồi lại nhìn vào chính mình ta, chúng ta nên tự xét mình, ta có thực sự tuân thủ Công đồng Vatican II không?   

* Lý do thứ ba là vì tháng vừa qua, tôi nghe có một linh mục ngoại quốc, sau khi đã tiếp xúc với một số Giám mục, Linh mục, tu sĩ và tham dự nhiều cuộc lễ tại Việt Nam, đã có cảm tưởng là: sinh hoạt tôn giáo tại Việt Nam rất sinh động, nhưng tiếc là chưa có bề sâu của Công đồng Vatican II. 

Ba lý do trên đây thiết tưởng đủ mạnh để thúc giục tôi nói để thôi thúc anh chị em lắng nghe, và để mời gọi chúng ta cùng suy nghĩ.

Tôi sẽ vắn gọn.

         

 Công đồng Vatican đưa ra bốn đề tài chính:

 * Đề tài thứ nhất là Hội Thánh thao thức với sứ mệnh Truyền Giáo.

 Truyền Giáo là bản chất của Hội Thánh. Thế nhưng, sau gần 20 thế kỷ, ngay khi lúc Công đồng đang họp, thì nhiều nơi trên thế giới không hề biết gì đến Tin Mừng cứu độ. Thí dụ: trong năm châu thì châu Á đông dân nhất, sắp chiếm gần nửa dân số nhân loại. Nhưng hiện nay số người công giáo chưa tới 4 phần trăm. Rồi trên năm châu hiện nay, có nhiều loại người mà người ta gọi là thuộc những thế giới chuyên môn, thí dụ thế giới khoa học, thế giới văn học, thế giới nghệ thuật, thế giới chính trị, thế giới kinh tế; các thế giới này hoạt động hầu như không hề biết đến Tin Mừng cứu độ.

Trong tình hình như trên, Hội Thánh không thể chỉ lo quy tụ những người đã rửa tội, mà cũng phải lo đi rao giảng Tin Mừng cho những ai chưa biết Tin Mừng như lời Đức Kitô đã truyền. Khi nhận thức được tiếng gọi đó, thì Bí tích Truyền Chức nên được nhấn mạnh đến ý nghĩa là dụng cụ và dấu chỉ của sự sai đi rao giảng Tin Mừng cho những người chưa biết Tin Mừng. Do đó, linh mục phải coi việc rao giảng Lời Chúa là thừa tác vụ ưu tiên hàng đầu.

Tình hình hiện nay kêu gọi mọi người trong Hội Thánh phải thao thức đến việc truyền giáo. Tất cả mọi thành phần Dân Chúa đều có trách nhiệm phục vụ cộng đoàn Hội Thánh đã thành hình, đồng thời cũng có trách nhiệm xây dựng những cộng đoàn Hội Thánh đang sinh ra.

Đừng cho rằng: Hoàn cảnh hiện nay không thuận lợi, nên không thể nghĩ đến việc truyền giáo. Xin thưa: Hoàn cảnh hiện nay tuy khó khăn, nhưng cũng có nhiều mặt thuận lợi cho những ai có tinh thần truyền giáo, khôn khéo và năng động. Hoàn cảnh thời các tông đồ còn khó gấp bội. Hoàn cảnh Việt Nam thời cha Alexandre de Rhodes cũng khó khăn gấp bội. Thế mà các ngài đã hoạt động truyền giáo không ngơi nghỉ. Và kết quả không phải là nhỏ. Dù sao, câu hỏi đặt ra cho ta hôm nay là: “ta có thực sự quan tâm đến việc truyền giáo không?”

 

* Đề tài thứ hai là Hội Thánh tập trung vào Đức Kitô là trung tâm điểm.

Sách Tông Đồ Công Vụ và các thánh thư cho thấy sự thực quan trọng đó. Thế nhưng, dần dà trung tâm điểm là Đức Kitô đã bị lu mờ. Có nơi đức tin được tập trung vào sự thuộc lòng các kinh, các chân lý đức tin và luân lý. Có nơi đức tin được tập trung vào sự vâng phục các kỷ luật chung của Hội Thánh và riêng của cộng đoàn. Có nơi đức tin được tập trung vào việc tôn sùng vị thánh này đấng thánh nọ.

Đang khi đó, đức tin đích thực phải là tin vào Đức Kitô chiụ nạn và phục sinh. Đức Kitô không phải chỉ là gương mẫu, là Thầy dạy mà còn là chính sự sống của người tin. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Ta là Đàng, là Sự Thực và là Sự Sống”. Tin Đức Kitô là tham dự  vào sự sống của Ngài, là thông hiệp mật thiết với Ngài, như hình ảnh cành cây với thân cây: “Ta là cây nho, chúng con là nhành”. Tin Đức Kitô là có Đức Kitô trong mình, như Thánh Phaolô nói: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi”.

Để tập trung vào Đức Kitô, chúng ta cần tăng cường cầu nguyện, suy gẫm đời sống Đức Kitô và học hỏi Mặc Khải của Đức Kitô.

Tôi nghĩ rằng: Tín hữu nào và cộng đoàn đức tin nào không đi vào chiều sâu của trung tâm điểm đó, sẽ khó tránh được suy thoái mặc dù được sống trong những hoàn cảnh xã hội, chính trị, kinh tế thuận lợi. Dù sao câu hỏi đặt ra cho chúng ta hôm nay, là ta có thực sự tập trung tu đức và mục vụ của ta vào Đức Kitô không?

 

* Đề tài thứ ba là Hội Thánh gồm toàn thể Dân Thiên Chúa.

Trước Công đồng Vatican II, người ta có thói quen nhìn Hội Thánh chỉ là Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục và các linh mục. Thấy cái nhìn nhu vậy là không đúng, Công đồng Vatican II đã xác định Hội Thánh là toàn thể Dân Thiên Chúa. Dân Thiên Chúa là mọi người đã được rửa tội và tin vào Đức Kitô. Tất cả mọi người ấy đều có giá trị như nhau, đó là giá trị làm con Chúa. Tất cả mọi người ấy đều có tự do như nhau, đó là sự tự do mà Chúa Thánh Thần ban cho. Tất cả mọi người ấy đều có một ơn gọi như nhau, đó là ơn gọi nên thánh. Tất cả mọi người ấy đều có sứ mệnh như nhau, đó là sứ mệnh xây dựng Hội Thánh.

Tuy nhiên, trong Dân Chúa phải có những thừa tác vụ, đó là các Đức Giám Mục, các linh mục và các Thày Sáu. Các vị ấy là những người phục vụ, những người đưộc sai đi, những người nhận lãnh trách nhiệm quan trọng. Các ngài là những dụng cụ, những dấu chỉ. Các vị ấy cũng như toàn Dân Chúa đều phải trung thành, gắn bó với Phúc Âm, với bí tích Thánh Thể và với Chúa Thánh Thần.

Trong quan niệm mới này về Hội Thánh, Công đồng đề cao vai trò giáo dân và muốn cho vai trò giáo dân được phát huy mạnh mẽ. Cũng do quan niệm mới này về Hội Thánh, Công đồng Vatican II khuyến khích tinh thần đại kết giữa các Hội Thánh cùng tin vào Đức Kitô và cổ võ tinh thần đối thoại với các tôn giáo khác và nững người không tin.

Một quan niệm như thế về Hội Thánh sẽ không phù hợp với quan niệm về Hội Thánh khép kín hình Kim Tự Tháp. Theo đó, Đức Giáo Hoàng truyền xuống cho các Đức Giám Mục, các Đức Giám Mục truyền xuống cho các linh mục, các linh mục truền xuống cho các giáo dân. Đó là con đường mòn mà Công đồng Vatican II không còn thừa nhận.

Thế nhưng, trong cách đối xử và làm việc, không thiếu người vẫn bảo vệ con đường mòn đó. Dù sao, câu hỏi đặt ra cho chúng ta hôm nay là: Chúng ta có xây dựng những mối liên đới đúng đắn trong phạm vi Hội Thánh chúng ta, hợp với định nghĩa Hội Thánh là Dân Thiên Chúa không?

 

* Đề tài thứ bốn là Hội Thánh nhận thức về mối tương quan mật thiết giữa Hội Thánh và thế giới.

Hội Thánh và thế giới cùng xuất phát từ một nguồn mạch, đó là Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc. Hội Thánh và thế giới cùng được hướng dẫn về cùng một mục đích, đó là sống hạnh phúc do có công lý, bình an, yêu thương đoàn tụ trong gia đình một cha chung trên trời. Hội Thánh và thế giới cùng có các thành viên như nhau đó là những con người, vừa là dân Chúa, vừa là công dân một nước.  Như vậy, một cách huyền nhiệm, thế giới đã thuộc về Chúa, về Đức Kitô và về Hội Thánh của Ngài. Do đó, mọi người trong thế giới và mọi giá trị của họ, bất cứ có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng, bất cứ thuộc tôn giáo nào, đều có quyền được Hội Thánh kính trọng, và Hội Thánh cần có liên hệ tốt với họ. Cũng vậy, các vấn đề của thế giới, như nền hòa bình, sức khỏe, tình yêu, lao động, khoa học, chính trị, kinh tế, văn hóa, thể thao….đều là những thực tại trần thế làm nên một cánh đồng mênh mông của cuộc sống, mà Hội Thánh không có quyền làm ngơ.

Hội Thánh là một mảng của nhân loại được đặc ân có Tin Mừng cứu độ, thì Hội Tháni đem Tin Mừng ấy tưới cho cánh đồng muôn mầu đó. Hội Thánh phải cởi mở dấn thân vào các thực tại trần thế. Các vấn đề của cuộc sốngphải được Hội Thánh quan tâm. Hội Thánh phải có mặt và góp phần giải quyết các vấn đề đang là những trăn trở của con người hôm nay. Không phải chỉ ra khỏi nhà thờ, người Kitô hữu mới nghĩ đến việc dấn thân như vậy, mà ngay trong các lời kinh, các bài thánh ca, cả đến phụng vụ cũng không được quên những nhịp đập của dân tộc mình, của đồng bào địa phương mình, với những niềm vui nỗi buồn của họ.

               Về điểm này, tôi thấy Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã rất cởi mở và sâu sắc. Trong dịp tiếp hàng giáo sĩ Roma ngày 14.2.1991 Đức Thánh Cha nói: “Hội Thánh phải nhìn mình trong thế giới, và Hội Thánh phải nhìn thế giới qua sứ mệnh của mình”. Trong tinh thần ấy, anh chị em và tôi phải nhìn giáo xứ và giáo phận của ta trong các tương quan với đồng bào của ta và với Tổ Quốc Việt Nam của ta. Ta sống đức tin là sống với và sống trong địa phương này, đất nước này. Đức Thánh Cha kêu gọi ta hãy để ý cái từ với và cái từ trong.

Trên đây là những đề tài chính của Công đồng Vatican II. Tôi tóm lại, theo nội dung trong cuốn “Préparer aujourd’hui l’Eglise de demain” của Đức Cha Gabriel Matagrin, Giám Mục Grenoble.

Tôi vẫn dùng 4 đề tài trên đây như thước đo, để đánh giá một giáo sĩ, một giáo xứ, một giáo phận. Và tất nhiên, đó cũng là những hướng đi mà tôi cố gắng theo đuổi.

 

[Bài nói chuyện của Đức Cha Gioan Baotixita Bùi Tuần, Giám Mục Phó Giáo phận Long Xuyên, với các linh mục, tu sĩ dịp Tĩnh Tâm tại Long Xuyên ngày 01 tháng 4.1991].

 

 


BA THAO THỨC XUẤT PHÁT

TỪ CÔNG ĐỒNG VATICAN II  & HOÀN CẢNH VIỆT NAM

Gm Gio-an Baotixia Bùi Tuần

 

Lời đầu tiên tôi muốn nói ở đây là lời cám ơn tất cả anh em. Cám ơn vì anh em đã có mặt ở đây, cám ơn vì những tình cảm tốt lành anh em đã dành cho tôi và cho địa phận. Cám ơn vì những đóng góp thân tình và tích cực anh em dành cho Hội Thánh nói chung và giáo xứ mình nói riêng.

Tôi coi cuộc gặp gỡ hôm nay là cuộc gặp gỡ gia đình, một cuộc gặp gỡ hiếm có. Vì thế, tôi muốn lợi dụng cuộc gặp gỡ gia đình này để tâm sự với anh em.

Tôi xin chia sẻ một số thao thức của tôi, những thao thức ngày đêm như những hòn than  cháy bỏng âm ỉ trong lòng tôi.

 

1/ Thao thức thứ nhất của tôi là công việc xây dựng nhân sự về mặt văn hóa cuộc sống.

Khi nhìn về tương lai, tôi thấy trong những năm sắp tới, cái sẽ nắm quyền chỉ huy con ngườinViệt Nam không còn là ý thức hệ nữa, mà sẽ là văn hoá đời sống. Anh em chỉ cần nhìn qua bầu khí tâm lý lúc này của những người chung quanh và của chính chúng ta, thì sẽ hiểu được điều tôi nói. Cái gì đang điều khiển con em chúng ta? Cái gì đang hướng dẫn những người chung quanh chúng ta trong những lựa chọn, trong những sắp xếp, trong các chương trình, trong các kế hoạch? Thưa là những gì nhìn thấy ở tivi, ở video, những gì nhìn thấy ở những tiệm bày bán, những gì nhìn thấy ở các mẫu mã, những gì nhìn thấy ở trên con người, những gì nhìn thấy ở các đồ vật bày trong mỗi gia đình. Rồi ngoài những cái nhìn thấy như vậy, còn là những gì đọc được trên các sách , các báo, trong các dư luận thu tập được qua những cuộc dối thoại trao đổi. Thêm vào đó còn là những gì nghe được qua đài này đài nọ.

              Tất cả những cái đó đang mở ra một chân trời mới về lãnh vực khoa học, về lãnh vực kỹ thuật, về lãnh vực mỹ thuật, về lãnh vực tư tưởng. Nó cung cấp cho con người bây gìơ những giá trị mới. Chẳng hạn như cái gía trị bây giờ người ta cho là rất quan trọng – mà trước đây ta không để ý – đó là sự chính xác.  Đồng hồ tốt là đồng hồ phải chính xác, đúng giờ. Hoạt động tốt là hoạt động phải chính xác, đúng việc, đúng nội dung, đúng thời, đúng nơi. Người tốt là người phải chính xác, nói đúng làm đúng. Tất cả những gía trị như thế đang dần dần tạo ra một thứ tòa nhà vô hình để che chở cuộc sống. Dần dần nó tạo ra một vườn hoa vô hình để làm đẹp cuộc sống. Dần dần nó tạo ra một dòng sông vô hình để phát triển cuộc sống. Cuộc sống nào cũng phải dính vào đó, kể cả cuộc sống đức tin. Ví dụ như cuộc lễ hôm nay, nội dung thuần túy đức tin, nhưng phải dựa vào văn hóa cuộc sống. Nếu hệ thống âm thanh không tốt, thì cuộc lễ hôm nay sẽ không thành công. Nếu không có những vẻ đẹp của cung thánh, vẻ đẹp của những mầu hoa mầu áo, thì chưa chắc cuộc lễ tôn giáo sẽ thành công. Nếu những bài thánh ca của ca đoàn, của cộng đoàn không có kỹ thuật, tinh thần dân tộc thì chưa chắc cuộc lễ sẽ thành công. Rồi nếu thiếu một chút kinh tế, thì chưa chắc cuộc lễ sẽ thành công. Rồi nếu bài giảng của tôi không có tính cách hệ thống rõ ràng, chính xác, cuộc lễ chưa chắc sẽ thành công.

Tôi gọi tất cả những gía trị ấy là văn hóa cuộc sống. Văn hóa cuộc sống chính là trình độ, cái đúng, cái thực, cái hay, cái đẹp, cái thiện trong tư tưởng, trong lời nói, trong việc làm, trong các tương quan.

Văn hóa cuộc sống ví như chiếc xe. Ta phải chuyên chở đức tin nhờ chiếc xe đó. Nếu thiếu văn hóa cuộc sống, đức tin sẽ khó diễn tả được, sẽ khó vận chuyển được, sẽ khó hấp dẫn được.

Văn hóa cuộc sống dần dần trở thành một tiêu chuẩn để đánh giá một con người, đánh gía một họ đạo, đánh gía một Hội Thánh, đánh gía một dân tộc. Nếu người ta đến xứ đạo chúng ta, thấy nhà thờ rất lớn, nhưng khi gặp cha xứ, tu sĩ, hội đồng giáo xứ, giáo dân, người ta thấy văn hóa cuộc sống của ta quá thấp, quá thiếu, tôi e rằng người ta sẽ chê cười.

Nền văn hóa cuộc sống như tôi vừa nói, đang làm nên gía trị của con người, nhất là khi chúng ta nhìn về tương lai, một tương lai sẽ được hướng dẫn bởi văn hóa, chứ không bởi chính trị.

Trên đây là cái nhìn của tôi về năm 2000. Xây dựng nhân sự linh mục, tu sĩ, hội đồng giáo xứ và quảng đại quần chúng công giáo là phải để ý xây dựng nền văn hóa cuộc sống. Mỗi người phải nâng cao trình độ tư tưởng lên, trình độ kỹ thuật lên, trình độ khoa học lên, trình độ nhân bản lên.

Nói như vậy để anh em hiểu thiện chí không đủ. Tôi biết là anh em đầy thiện chí. Nhưng nếu chúng ta không để ý đến vấn đề xây dựng thêm văn hóa cuộc sống, tôi sợ rằng tương lai đang mở ra, nhưng chúng ta sẽ lại lỡ chuyến tầu lịch sử, sẽ lại lỡ chuyến xe lịch sử, vì chúng ta không biết đi vào đúng tuyến đường lịch sử, đó là văn hoá.

 

2/ Thao thức thứ hai của tôi là công việc xây dựng nhân sự về mặt nội dung đức tin           

Tôi cũng đang nhìn về năm 2000. Tương lai trước mặt là một thời điểm mở ra. Mà khi mở ra thì các trào lưu văn minh sẽ tràn vào. Cái tốt cũng tràn vào, cái xấu cũng tràn vào. Cái tốt cũng hấp dẫn, cái xấu nhiều khi hấp dẫn hơn.

Trong thời điểm mở ra như vậy, nếu đức tin không vững, không sâu, không thực chất, mà chỉ là cái hình thức bên ngoài, thì phong trào văn minh tự do đang tới sẽ lôi cuốn những cái vỏ đức tin ấy như những chiếc bèo trên sông. Vì thế mà tôi muốn rằng bây giờ còn thời giờ thì phải xây dựng nội dung đức tin cho sâu, cho trúng, cho vững.

Nội dung đức tin mà tôi thấy cần thông báo cho anh em, đó là sự gặp gỡ đức Kitô sống động. Khi tôi thấy các trẻ đọc giáo lý rất thuộc tôi vẫn nghĩ rằng thuộc giáo lý vẫn chưa phải là đức tin. Đức tin là đón gặp được Đức Kitô sống động. Ngài đến với ta, Ngài ở trong ta, Ngài chia sẻ sự sống của Ngài với ta. Sống đức tin là một cuộc trao đổi tình yêu với Chúa như trao đổi tình yêu giữa hai người thương nhau sống động.

Rồi sống đức tin là nhận ra dung mạo thực của Chúa. Quen gặp Chúa rồi, ta sẽ nhận ra khuôn mặt của Chúa. Cái đẹp nhất của Ngài là tình yêu. Không phải gặp dược ở sách giáo lý, mà do tiếp xúc với Ngài nhiều lần. Sống với Ngài, nên thấy khuôn mặt của Ngài có nét đặc biệt đó là tình yeu thương xót.

Rồi sống mật thiết với Đức Kitô, sẽ dần dần nhận ra chữ ký của Chúa Kitô. Tôi dùng từ đó để anh em hiểu. Khi tôi gặp một người, tôi để ý xem người ấy có chữ ký của Chúa Kitô trên đời sống của họ không. Có những mét của Chúa Kitô rất dễ nhận ra. Thí dụ nét khiêm nhường. Đức Kitô quì xuống rửa chân cho các môn đệ. Đó là sự khiêm nhường trên mọi sự khiêm nhường. Ai có nét đó thì như mang nét chữ ký của Đức Kitô trong đời sống mình. Rồi một nét nữa của Đức Kitô là quên mình. Trên Thánh Gía, Chúa Giêsu chết mà không lo cho mình, chỉ lo cho người khácc. Ngài quên mình vì phục vụ. Rồi một nét khác của Đức Kitô là sự hiền lành yêu thương. Khi nhìn một cuộc sống, khi nhìn một gia đình, khi nhìn một nhà xứ, một nhà tu nếu tôi cảm thấy có một cái gì là quên mình hy sinh có một cái gì là khiêm nhường hiền lành, tôi sẽ cho rằng Đức Kitô đã ký trên cuộc sống đó. Cái đó chỉ nhận ra được qua cuộc sống đức tin. Chứ nếu đức tin chỉ là học cho thuộc bài giáo lý thì không thấy được.

Rồi một khi đã quen sống với Đức Kitô đức tin là gặp gỡ Ngài, sống với Ngài thì chúng ta cũng dễ nhận ra hương thơm của Đức Kitô. Đó là Tám Mối Phúc Thật. Tám Mối Phúc Thật là một thư hương thơm thiêng liêng tuyệt vời, chỉ những người sống đức tin sâu sắc, thực sự mới có, và mới cảm thấy được.

Rồi sống đức tin còn là chia sẻ những tâm tình, thao thức của Đức Kitô. Thật sự khi nhìn các sinh hoạt về ngoài của một giáo xứ, tôi thấy hoạt động bên ngoài có vẻ rầm rộ. Nhưng tôi vẫn cảm thấy nội dung đức tin chưa sâu. Nhất là khi tôi nhìn những thao thức của họ. Ít người có những thao thức của Chúa Kitô. Thao thức của Chúa Kitô là đi cứu độ mọi anh em, người lương người giáo. Ngài yêu thương tất cả, cứu độ tất cả. Khi nhìn sinh hoạt dân Chúa tại các giáo xứ, tôi thấy ít có những thao thức ấy lắm. Tôi cảm thấy như thể nhiều nơi mắc một chứng bệnh mất máu thiêng liêng. Đức tin nghèo nàn, xanh nhợt, chỉ là cái vỏ thôi. Bởi vì đã không có những thao thức với Đức Kitô. Ngày đêm chỉ thao thức về tiền của, rồi cạnh tranh nhau chuyện này chuyện nọ, chứ không phải là thao thức như Đức Kitô suốt ngày suốt đêm, lo phục vụ loài người, đi tìm loài người.

Điều mà tôi rất thao thức đó là xây dựng nhân sự sao cho có một nội dung đức tin cho thực đẹp. Cần phải sống đức tin, nhận ra chữ ký của Đức Kitô, nhìn rõ khuôn mặt thực sự của Đức Kitô, chia sẻ những thao thức của Đức Kitô trong từng thời điểm, nhận ra được những gía trị thực sự mà Đức Kitô muốn đem lại cho Việt Nam hôm nay.

 

3/ Thao thức thứ ba của tôi là công việc xây dựng nhân sự về mặt đổi mới con người theo tinh thần Công Đồng Vatican II           

Như tôi vừa nói, tương lai sẽ là một tương lai cởi mở. Nhà Nước sẽ cởi trói chúng ta, cởi trói về pháp luật. Còn Hội Thánh đã cởi trói cho chúng ta từ lâu rồi qua Công Đồng Vatican II. Thế nhưng, khi nhìn vào các nếp sống đạo, tôi thấy chúng ta tự trói mình nhiều quá. Chúng ta không những là không chịu cởi trói ra, mà lại còn tự trói mình lại.

Trước hết, Công Đồng Vatican II mở trói cho chúng ta bằng cách khuyên chúng ta hãy tập trung vào Đức Kitô và Phúc âm của Người. Điều này có nghĩa là đừng trói mình vào các tập tục nghịch với Phúc âm Đức Kitô. Chúng ta thử nhìn xem các tập tục trong các kênh, các xứ. Nhiều tập tục là những cái dây, những cái xiềng xích trói buộc con người. Mà đó là tự ta trói mình và trói nhau. Đức Kitô bảo mở ra. Công Đồng nói mở ra. Hãy nhìn Đức Kitô và Phúc âm của Người. Căn bản cốt cách của Đạo là công bình bác ái. Tập trung vào đó thì tự nhiên Đạo của ta sẽ mở ra.

 Rồi tôi cũng nhìn thấy nhiều nơi vẫn còn trói mình trong các bờ cõi chật hẹp của họ đạo mình. Đang khi đó Công Đồng Vatican II đã mở trói cho chúng ta, bảo chúng ta rằng hãy nhìn về phía các nơi truyền giáo, hãy biết nhìn đến những người ngoài công giáo ngoài Hội Thánh chúng ta.

Rồi tôi cũng nhìn thấy nhiều nơi còn trói mình vào một hình ảnh phiếm diện của Hội Thánh. Cứ cho Hội Thánh chỉ là các Đức Cha, các linh mục, đang khi Công Đồng Vatican II nói rằng Hội Thánh là tất cả Dân Thiên Chúa. Ai cũng có bổn phận trong Hội Thánh. Ai cũng có quyền trong Hội Thánh. Những cái đó thực sự Công Đồng đã mở ra rồi. Nhưng chúng ta cứ tự trói lại.

Rồi nhìn vào các giáo xứ, tôi lại thấy nhiều người tự trói mình vào một thói quen hẹp hòi cho rằng sống đạo là chỉ cần những việc của tôn giáo, rồi coi thường những gía trị trần thế, đang khi đó Công Đồng Vatican II nói rằng không những phải lo việc đạo, mà cũng phải dấn thân phát triển những gía trị trần thế, chính trị, khoa học, mỹ thuật, cuộc sống…

Phải mở ra. Hãy cởi trói. Đừng trói mình. Đừng trói nhau. Đó là tinh thần của Công Đồng Vatican II mà tôi thấy nhiều nơi chưa hiểu, chưa thấm nhuần.

Thưa anh em,

Tôi vừa nói với anh em về ba thao thức của tôi:

Thao thức thứ nhất là công việc xây dựng nhân sự về mặt văn hóa cuộc sống,

Thao thức thứ hai là công việc xây dựng nhân sự về mặt nội dung đức tin, 

Thao thức thứ ba là công việc xây dựng nhân sự về tinh thần Công Đồng Vatican II đổi mới.

Xin anh em nhớ ít ra ba thao thức đó, để anh em thông cảm với tôi nhiều hơn, để anh em cùng thống nhất với tôi trong đường lối xây dựng nhân sự, và để anh em biết rằng nếu không đạt được lý tưởng mình mong muốn thì ít ra cũng cố gắng góp phần vào bằng cách cầu nguyện cho chương trình mà tôi vừa chia sẻ.

Năm 2000 là năm thị trường cạnh tranh mạnh. Cạnh tranh hàng hóa, cạnh tranh người giỏi, cạnh tranh người tài, cạnh tranh người có đức.

Cạnh tranh quan trọng nhất chính là cạnh tranh con người. Nếu chúng ta, gia đình ta có con em tốt, có một nền văn hóa cuộc sống cao, có một nội dung đức tin vững, sâu, có một tinh thần đổi mới của Vatican II, chúng ta đi đâu cũng sẽ được kính trọng. Chúng ta có thể đối thoại với Phật Giáo, với anh em Cộng Sản, với Tin Lành, với bất cứ ai.  Còn trái lại, nếu chúng ta kém về văn hóa cuộc sống, nếu chúng ta nông cạn về đời sống đức tin, nếu chúng ta cứ  tự trói mình vào nếp sống cũ ngược lại Công Đồng Vatican II, thì tôi sợ rằng càng đi vào tương lai năm 2000, chúng ta càng sẽ yếu, chúng ta sẽ tự mình làm nô lệ cho người khác, họ đạo chúng ta sẽ không thể so sánh được với ai, người ta sẽ không kính trọng chúng ta, người ta sẽ không cần chúng ta. Và như vậy, không những chúng ta thiệt, mà Đạo chúng ta cũng thiệt, Hội Thánh chúng ta thiệt, Đất Nước chúng ta thiệt.

Tóm tắt một lời, vấn đề xây dựng nhân sự là rất quan trọng. Văn hóa cuộc sống, nội dung đức tin và tinh thần Công Đồng Vatican II. Cứ ba hướng đó mà đi, nếu chúng ta biết lo cho con em mình, lo cho họ đạo mình.

Hãy cố gắng. Tôi nghĩ rằng công việc không phải dễ đâu. Nhưng nếu chúng ta có hướng đi, có kế hoạch, có thiện chí. Và nếu chúng ta biết cùng làm với nhau thì địa phận chúng ta sẽ lên, giáo hạt chúng ta sẽ lên, giáo xứ chúng ta sẽ lên, gia đình chúng ta sẽ lên và bản thân chúng ta sẽ có gía trị trong tương lai của Đất Nước đang mở ra.

              

Xin cám ơn anh em.

 

[Bài nói chuyện của Đức Cha G.B. Bùi Tuần, giám mục phó Long Xuyên tại Nhà Thờ Thạnh An, ngày 14.4.1992, với các Ban Hành Giáo giáo hạt Thốt Nốt]

 

 


ĐỊA VỊ VÀ SỨ MỆNH

CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN

 

 Lm Giuse Hoàng Kim Đại

 

LỜI MỞ ĐẦU

Hội Đồng Giám Mục VN đã viết trong thư mục vụ năm 2006 như sau:

“Chúng tôi “chọn chủ đề : Sống đạo hôm nay, để mời gọi mỗi người sống niềm tin bằng những hành động cụ thể, như thánh Giacôbê Tông đồ viết: “Đức tin không có hành động quả là đức tin chết.” Gc 2,17). Quả thực, đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em, như Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể và nhập thế đã nêu gương cho chúng ta.” (Thư MV số 1)

Để giúp anh chị em đáp ứng lời mời gọi của Hội đồng Giám mục, tôi gửi đến anh chị em tài liệu về : Địa vị và sứ mệnh của người giáo dân đã được Công đồng Vaticanô II quyết nghị và công bố từ năm 1965.   

Tôi hy vọng tài liệu trích dẫn từ Công đòng Vaticanô II này sẽ giúp anh chị em hiểu rõ hơn địa vị và sứ mệnh của mình trong Hội Thánh; đồng thời tích cực thi hành sứ mệnh đối với thế giới, nhất là với xã hội Việt Nam hôm nay.  

 

Phần một

ĐỊA VỊ CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN

 

1. Công đồng Vaticanô II đã nói gì về người giáo dân ?

“Sau khi xác định những chức vụ của các phẩm trật, Thánh Công Đồng sẵn lòng đề cập đến bậc sống của những Kitô hữu được gọi là giáo  dân. Mặc dầu những gì nói về Dân Thiên Chúa đều có liên quan đến giáo dân, tu sĩ cũng như giáo sĩ. Nhưng có một số điều đặc biệt thuộc về giáo dân nam nữ, vì địa vị và sứ mệnh của họ : những điều mà hoàn cảnh đặc biệt của thời đại chúng ta đòi phải tìm hiểu nền tảng chung cách thấu đáo hơn.” (GH số 30)

 

2. Giáo dân có giúp ích gì cho Hội Thánh không ?

 “Thực thế, các chủ chăn của Dân Thánh ấy biết rõ giáo dân giúp ích rất nhiều cho toàn thể Hội Thánh. Các ngài biết rằng Chúa Kitô không đặt các ngài lên để một mình lãnh lấy tất cả sứ vụ cứu độ của Hội Thánh đối với thế giới; nhưng nhiệm vụ cao cả của các ngài là chăn dắt các tín hữu và nhận biết các phận sự và đoàn sủng của họ, để mọi người đều góp phần vào công cuộc chung, tùy theo cách thức của mình.”

 “Vì thế, mọi người “phải lấy bác ái mà thực hành chân lý, nhờ mọi sự hãy lớn lên trong Đấng làm đầu là Chúa Kitô; nhờ Người, toàn thân thể được phối hợp và kết tụ bằng sự liên lạc tương trợ nhau, tùy theo công dụng khả năng từng phần tử, khiến thân thể được tiến triển hầu xây dựng trong đức ái.”  (Ep 4,15-16) (GH số 30)

 

3. Vậy người giáo dân là ai ?

 “Danh hiệu giáo dân ở đây được hiểu là tất cả những kitô hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Hội Thánh công nhận; nghĩa là những Kitô hữu đã được tháp nhập vào thân thể Chúa Kitô nhờ phép Thánh Tẩy, đã trở nên Dân Thiên Chúa, và tham dự vào chức vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ; họ là những người đang thực hiện sứ mệnh của toàn dân Kitô giáo trong Hội Thánh và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình.” (GH số 31)

 

4. Tính cách riêng biệt và đặc thù của giáo dân là gì ?

 “Tính cách trần thế là tính cách riêng biệt và đặc thù của giáo dân. Thực vậy các phần tử trong hàng giáo sĩ dù đôi khi có thể lo việc trần thế, hoặc hơn nữa, hành nghề giữa đời, nhưng vì ơn kêu gọi đặc biệt, sứ mệnh chính yếu và rõ rệt của họ vẫn là sứ vụ thánh. Phần các tu sĩ, do bậc sống của họ, làm chứng cách hùng hồn và cao quý rằng người ta không thể cải tạo thế giới và cung hiến nó cho Thiên Chúa được, nếu không có tinh thần các mối phúc thật.” (GH số 31)

 

5. Ơn gọi riêng của người giáo dân là gì ?

 “Vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội; tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ.”

 “Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin, cậy, mến sáng ngời, và nhất là với những bằng chứng đời sống, họ tỏ rõ Chúa Kitô cho kẻ khác, vì thế, họ có nhiệm vụ đặc biệt soi sáng và xếp đặt những thực tại trần gian có liên hệ mật thiết với họ, để chúng không ngừng phát triển và bành trướng theo thánh ý Chúa Kitô, hầu ca tụng Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Độ.”  (GH số 31)

 

6. Người giáo dân có được kêu gọi nên thánh không ?

 “Tất cả mọi người trong Hội Thánh đều được kêu gọi nên thánh, như lời thánh Phaolô dạy : “Vì Thiên Chúa muốn anh em được thánh hóa” (1 Tx 4,3; Ep 1,4); sự thánh thiện này của Hội Thánh luôn được biểu lộ và phải được biểu lộ qua những hoa trái ân sủng mà Thánh Thần đã kết sinh nơi các tín hữu; sự thánh thiện ấy được diễn tả dưới nhiều hình thức nơi tất cả những ai đang cố đạt tới Đức ái trọn hảo trong bậc sống của mình trong khi xây dựng kẻ khác.” (GH số 39)

 “Quả vậy, mọi người đều thấy rõ rằng tất cả các Kitô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô giáo và đến sự trọn lành của Đức ái. Ngay trong xã hội trần thế sự thánh thiện này cũng giúp người ta sống nhân đạo hơn.” (GH số 40)

 

7. Người giáo dân có phải là chi thể của Chúa Kitô không ?

 “Hội Thánh do Chúa thiết lập được tổ chức và điều khiển theo nhiều thể thức khác biệt rất lạ lùng. “Ví như trong một thân thể, chúng ta có nhiều chi thể, mọi chi thể không có cùng một nhiệm vụ; cũng vậy, chúng ta tuy nhiều người song là một thân thể trong Chúa Kitô, nên mỗi người chúng ta là chi thể lẫn nhau.” (Rm 12,4-5)

“Thế nên chỉ có một Dân Thiên Chúa được Ngài tuyển chọn; “chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một phép Thánh Tẩy,” (Ep 4,5) cùng chung một phẩm giá, những chi thể vì đã được tái sinh trong Chúa Kitô, cùng một ân huệ được làm con cái, một ơn gọi trở nên trọn lành, một ơn cứu độ và một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân chia. Vì thế, trong Chúa Kitô và trong Hội Thánh, không còn có sự hơn kém vì nguồn gốc hay dân tộc, vì địa vị xã hội hoặc vì nam nữ, bởi lẽ “không còn là người Do thái hoặc Hy lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, vì anh em hết thảy đều là một trong Chúa Giêsu Kitô.” (Gl 3,28; Cl 3,11)

 “Vì thế, tuy trong Hội Thánh, tất cả không cùng đi một đường, nhưng tất cả vẫn cùng được mời gọi nên thánh, và đồng thừa hưởng đức tin trong sự công chính của Thiên Chúa.” (2 Pr 1,1) (GH số 32)

 

8. Người giáo dân có phải là em Chúa Kitô ?       

 “Nhờ lòng ưu ái của Thiên Chúa, giáo dân được làm em Chúa Kitô, Đấng đã đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ, dù Người là Chúa tể muôn loài (Mt 20,28). Cũng vậy, họ làm em những người lãnh nhận chức vụ thánh, những kẻ đang lấy quyền Chúa Kitô mà giảng dạy, thánh hóa và cai quản để chăn dắt gia đình Chúa, hầu mọi người chu toàn giới luật mới là luật bác ái.”

“Thánh Au-gus-ti-nô đã dùng những lời tuyệt diệu này để nói lên điều đó : “Là giám mục cho anh em, tôi rất sợ; làm tín hữu với anh em, tôi rất an tâm. Giám mục là một chức vụ, tín hữu là một ân phúc. Giám mục là danh hiệu nguy hiểm, tín hữu là một danh hiệu đem ơn cứu độ.” (GH số 32)

 

9. Người giáo dân có được tham dự vào chức vụ tư tế của Chúa Kitô không ?

“Chúa Giêsu Kitô linh mục thượng phẩm và vĩnh cửu, vì cũng muốn giáo dân tiếp tục công việc chứng tá và việc phục vụ của mình, nên đã nhờ Thánh Thần ban cho họ sự sống và không ngừng thôi thúc họ thực hành những điều thiện hảo.”

“Thực vậy, những kẻ mà Người đã cho tham dự mật thiết vào sự sống và sứ mệnh Người, Người cũng cho họ dự phần vào chức vụ tư tế, để họ thực hành việc phụng thờ thiêng liêng, hầu tôn vinh Thiên Chúa và cứu rỗi loài người. Bởi thế, vì giáo dân đã được hiến dâng cho Chúa Kitô và được Thánh Thần xức dầu, nên họ được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh Thần sinh hoa trái nơi họ ngày càng phong phú hơn.”

“Thật vậy, mọi hoạt động và kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong Thánh Thần, và cả đến những thử thách của cuộc sống, nếu họ kiên trì đón nhận, thì tất cả trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô (1 Pr 2,5), vì những của lễ ấy được thành kính dâng lên Chúa Cha cùng với Mình Thánh Chúa khi cử hành lễ Tạ ơn.”

“Như thế giáo dân cung hiến thế giới này cho Thiên Chúa nhờ biết phụng thờ Ngài bằng những hành động thánh thiện khắp nơi. (GH số 34)

 

10. Người giáo dân có tham dự vào chức linh mục của Chúa Kitô không ?

Theo Công đồng Vaticanô II, thì người giáo dân cũng tham dự vào chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô, nhưng theo cách thức riêng của mình. Công Đồng xác định như sau :

“Chức linh mục cộng đồng của các tín hữu và chức linh mục thừa tác hay phẩm trật tuy khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn về bản chất, song cả hai bổ túc cho nhau. Th?c vậy, cả hai đều tham dự vào chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mình.”

“Linh mục thừa tác, nhờ có quyền do chức thánh, đào tạo và cai quản dân tộc tư tế, đóng vai trò Chúa Kitô, cử hành hy tế tạ ơn và dâng của lễ ấy lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể dân chúng.”

“Phần tín hữu, nhờ chức linh mục vương giả, c?ng tác dâng thánh lễ, và thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn, bằng đời sống chứng tá thánh thiện, bằng sự từ bỏ và bác ái tích cực.” (GH số 10)

 

11. Người giáo dân có tham dự vào chức ngôn sứ của Chúa Kitô không?

 “Dân thánh Thiên Chúa cũng tham gia vào chức vụ ngôn sứ của Chúa Kitô bằng cách phổ biến chứng tá sống động về Người, nhất là qua đời sống đức tin và đức ái; và dâng lên Thiên Chúa của lễ ca tụng, hoa trái của những miệng lưỡi ngợi khen thánh danh Người. (Dt 13,15) toàn thể tín hữu được Chúa Thánh Thần xức dầu (1 Ga 2,20.27), không thể sai lầm trong đức tin, họ biểu lộ đức tính ấy nhờ cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân Chúa, khi “từ các giám mục cho đến người giáo dân rốt hết” đều đồng ý về những điều liên quan đến đức tin và phong hóa.”

 “Thật vậy, nhờ cảm thức về đức tin được Thánh Thần chân lý khơi d?y và duy trì, dưới sự giáo huấn thần linh của Hội Thánh mà họ trung thành tuân theo, dân Thiên Chúa nhận lãnh không phải là lời nói của loài người nữa, mà thật sự là lời của Thiên Chúa. (1 Tx 2,13); họ gắn bó hoàn toàn “với đức tin chỉ một lần được ban bố cho các thánh” (Gđ 3), họ tiến sâu hơn trong đức tin nhờ phán đoán đứng đắn, và sống đức tin cách hoàn hảo hơn.” (GH số 12)   

 

 

Phần hai

SỨ MỆNH CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN

 

12. Việc tông đồ là gì ?

 - Hội Thánh được khai sinh là để làm cho nước Chúa Kitô rộng mở trên khắp hoàn cầu, hầu làm vinh danh Thiên Chúa Cha : tức là làm cho mọi người tham dự vào việc chuộc tội và cứu rỗi, để rồi nhờ họ, toàn thể vũ trụ thực sự để qui hướng về Chúa Kitô. Mọi hoạt động của nhiệm thể hướng về mục đích này gọi là việc tông đồ, công việc mà Hội Thánh thực hiện nhờ tất cả các chi thể, tùy theo những cách thức khác nhau.”

 - Bởi vì ơn gọi làm Kitô hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông đồ. Cũng như toàn bộ một cơ thể sống động, không chi thể nào hoàn toàn thụ động, nhưng cũng tham dự vào đời sống và công việc của toàn thân. Cũng thế, trong nhiệm thể Chúa Kitô tức Hội Thánh, toàn thân “tùy theo công dụng khả năng từng phần tử khiến thân thể được tiến triển” (Ep 4,16). Hơn nữa, các chi thể trong thân thể này gắn bó và liên kết chặt chẽ với nhau (Ep 4,16), đến nỗi chi thể nào không hoạt động đúng tầm mức của mình trong việc tăng triển toàn thân đều bị coi là không dụng ích đối với Hội Thánh cũng như với chính mình.” (TĐ số 2)

 

13. Người giáo dân có phải là tông đồ của Chúa Kitô ?

 - “Giáo hữu được qui tụ trong dân Thiên Chúa và cấu tạo thành thân thể duy nhất của Chúa Kitô dưới quyền của một Đầu duy nhất; dù họ là ai, họ vẫn được kêu gọi dùng hết sức lực đã nhận lãnh do lòng từ ái của Đấng Tạo Hóa và do ân huệ của Đấng Cứu Thế để như những chi thể sống động, phát triển và thánh hóa Hội Thánh không ngừng.”

 - “Vì thế, giáo dân làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mệnh cứu độ của Hội Thánh; nhờ lãnh nhận phép Thánh Tẩy và Thêm Sức, mỗi tín hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ; đàng khác các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể thông ban và nuôi dưỡng trong họ đức ái đối với Thiên Chúa và đối với loài người, nhân đức này là linh hồn của mọi hoạt động tông đồ. Nhưng giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Hội Thánh hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh mà nếu không có họ, thì Hội Thánh sẽ không trở thành muối của thế gian.”

Như thế, vì những ân huệ đã lãnh nhận, mọi giáo dân vừa là chứng nhân vừa là dụng cụ sống động do chính sứ mệnh Hội Thánh, “tùy theo độ lượng ân sủng Đức Kitô ban cho.” (Ep 4,7) (GH số 33)

 

14. Người giáo dân có quyền làm tông đồ không ?

“Giáo dân có bổn phận và quyền làm tông đồ do chính việc kết hiệp với Chúa Kitô là Đầu. Họ được chính Chúa chỉ định làm việc tông đồ, vì phép Rửa Tội sát nhập họ vào nhiệm thể Chúa Kitô, phép Thêm Sức làm cho họ nên mạnh mẽ nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Họ được thánh hiến vào chức vụ tư tế, vương giả và dân tộc thánh (1 Pr 2,2-10), hầu trong mọi việc họ dâng những lễ vật thiêng liêng và làm chứng cho Chúa Kitô ở mọi nơi trên hoàn cầu.” (TĐ số 3)

 

15. Có mấy hình thức làm tông đồ ?

 - “Giáo dân có thể thực hiện việc tông đồ hoặc từng ngu?i hoặc liên kết thành cộng đoàn hay hội đoàn.” (TĐ số 15)

 - “Việc tông đồ của giáo dân, cá nhân hay tập thể, phải được đặt vào đúng chỗ trong công cuộc tông đồ của toàn thể Hội Thánh. Hơn nữa điều cốt yếu của việc tông đồ Kitô giáo là liên kết với những ngu?i đã được Chúa Thánh Thần đặt lên cai trị Hội Thánh Chúa. (Cv 20,28). Vả lại, việc cộng tác giữa các tổ chức tông đồ khác nhau cũng cần thiết và phải được Hàng Gíao Phẩm điều hành thích đáng.” (TĐ số 23) 

 a) “Việc tông đồ cá nhân rất hiệu quả ở bất cứ nơi nào và thời nào. Hơn nữa, trong một số hoàn cảnh chỉ có hoạt động này mới thích hợp và mới có thể thực hiện được. Mọi ngu?i giáo dân, dù thuộc thành nào đi nữa, dù không có cơ hội hay khả năng để cộng tác trong các hội đoàn đều được kêu gọi và hơn nữa phải làm việc tông đồ cá nhân.”

 “Hình thức đặc biệt của hoạt động tông đồ cá nhân là giúp giáo dân làm chứng bằng cả đời sống phát xuất từ đức tin, đức cậy, đức mến. Đó là dấu chỉ rất thích hợp trong thời đại chúng ta để biểu lộ Chúa Kitô sống động trong các tín hữu của Ngài. Cùng với việc tông đồ bằng lời nói mà trong một số hoàn cảnh lại rất cần thiết ngu?i giáo dân rao giảng Chúa Kitô, cắt nghĩa và phổ biến giáo lý của Ngài tùy theo hoàn cảnh và tài năng của mỗi ngu?i, đồng thời họ cũng trung thành tuyên xưng giáo lý của Ngài nữa.” (TĐ số 16)     

 b) “Hoạt động tông đồ tập thể rất phù hợp với đòi hỏi của các tín hữu dưới khía cạnh con ngu?i cũng như dưới khía cạnh Kitô hữu. Đồng thời nó cũng biểu lộ được dấu chỉ hiệp thông và hiệp nhất của Hội Thánh trong Chúa Kitô, Đấng đã phán : “Vì ở đâu có hai, ba ngu?i họp nhau nhân danh Thầy, thì Thầy sẽ ở giữa họ.” (Mt 18,20)

“Hoạt động tông đồ rất quan trọng, vì trong các cộng đoàn Hội Thánh, cũng như trong các môi trường khác nhau, hoạt động tông đồ thường đòi hỏi phải được chu toàn do một hoạt động chung. Bởi vì các hội đoàn được thành lập nhằm hoạt động tông đồ tập thể, nâng đỡ và huấn luyện các hội viên làm tông đồ, phối hợp và hướng dẫn hoạt động tông đồ của họ để có thể hy vọng nơi họ những kết quả phong phú hơn là từng ngu?i hoạt động riêng rẽ.”

“Vậy trong những hoàn cảnh hiện tại, nơi nào có giáo dân hoạt động thì hoạt động tông đồ nhất thiết phải được củng cố dưới hình thức tập thể và có tổ chức.” (TĐ số 18) 

 

16. Người trẻ và trẻ em có bổn phận làm tông đồ không ?

- “Ngu?i trẻ phải trở nên những tông đồ đầu tiên và trực tiếp của giới trẻ trong khi chính họ hoạt động tông đồ giữa ngu?i trẻ và nhờ ngu?i trẻ tùy theo môi trường họ đang sống.”

- “Trẻ em cũng có hoạt động tông đồ riêng của chúng. Tùy khả năng, chúng có thể thực sự là những chứng nhân giữa các bạn hữu.” (TĐ số 12)

 

17. Người giáo dân làm tông đồ bằng cách nào ?

- “Giáo dân thực sự thi hành việc tông đồ bằng công việc của mình để rao giảng Phúc Âm và thánh hóa nhân loại, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn hảo hóa những việc thuộc phạm vi trần thế, sao cho công việc của họ thuộc lãnh vực này làm chứng tỏ tường về Chúa Kitô và góp phần vào việc cứu độ nhân loại. Vì bản chất riêng biêt của người giáo dân là sống giữa đời và làm việc đời, nên chính họ được Thiên Chúa mời gọi để một khi tràn đầy tinh thần Kitô giáo, họ làm việc tông đồ giữa đời như men trong bột.” (TĐ số 2)

 - “Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ : rao giảng Phúc Âm và thánh hóa. Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán : “Sự sáng các con phải soi trước mặt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con trên trời.” (Mt 5,16)

 - “Tuy nhiên việc tông đồ này không chỉ ở tại việc làm chứng bằng đời sống. Người tông đồ đích thực còn tìm dịp loan truyền Chúa Kitô bằng lời nói hoặc cho người chưa tin để đưa họ đến đức tin, hoặc cho tín hữu để giáo huấn họ, củng cố và thúc đẩy họ sống sốt sắng hơn “vì tình yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng ta” (2 Cr 5,14), và trong lòng mọi người phải âm vang lời thánh Phaolô : “Thật khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm.” (1 Cr 9,16)  (TĐ số 6) 

 

18. Người giáo dân hoạt động tông đồ trong những môi trường nào?

 “Gíao dân thi hành việc tông đồ muôn mặt của mình trong Hội Thánh cũng như giữa đời. Trong cả hai lãnh vực này, nhiều môi trường hoạt động tông đồ khác nhau được khai mở. Ở đây chúng tôi muốn nhắc tới những môi trường chính yếu hơn cả là : các cộng đoàn Hội Thánh, gia đình, giới trẻ, môi trường xã hội, các lãnh vực quốc gia và quốc tế. . .

 a- Giáo xứ  : “Giáo xứ là một hình thức tông đồ cọng đồng kiểu mẫu, vì đó là nơi qui tụ đủ mọi hạng ngu?i thành một cộng đoàn và đem họ vào tinh thần đại đồng của hội Thánh. Giáo dân nên tập thói quen cộng tác chặt chẽ với các linh mục của mình đ? hoạt động trong giáo xứ. Họ cũng nên có thói quen trình bày với cộng đoàn Hội Thánh những vấn đề riêng của cộng đoàn mình hay của cả thế giới hoặc những vấn đề liên quan đến phần rỗi của mọi người đ? cùng nhau góp ý kiến, nghiên cứu và giải quyết. Họ cũng phải tùy sức mà cố gắng đóng góp vào mọi công việc tông đồ và truyền giáo của Hội Thánh địa phương.”

 

b- Giáo phận : “Giáo dân phải luôn nuôi dưỡng ý thức về giáo phận, vì giáo xứ như là một tế bào của giáo phận. Họ phải luôn mau mắn đáp lại tiếng gọi của chủ chăn, và tùy sức tham gia những công cuộc chung của giáo phận. Hơn nữa, để đáp ứng những nhu cầu nơi thành thị cũng như ở thôn quê, họ không chỉ hạn hẹp sự cộng tác của mình trong giới hạn trong giáo xứ hay giáo phận nhưng họ cố gắng mở rộng phạm vi tới cả lãnh vực liên xứ, liên giáo phận, quốc gia hay quốc tế.”

“Vì thế, người giáo dân phải quan tâm đến những nhu cầu của Dân Thiên Chúa ở rải rắc trên khắp hoàn cầu. Nhất là họ phải coi những công cuộc truyền giáo như việc của chính mình, bằng cách đóng góp về vật chất hay cả về nhân sự. Vì chưng nhiệm vụ và vinh dự của ngu?i Kitô hữu là trả lại cho Thiên Chúa phần của cải họ đã nhận nơi Ngài.”  (TĐ số 10)

 

c- Môi trường xã hội : “Làm tông đồ trong môi trường xã hội là cố gắng đem tinh thần Kitô giáo thấm nhuần tư tưởng, phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đồng nơi họ đang sống : đó là bổn phận và trách nhiệm của ngu?i giáo dân mà không ai có thể thay thế họ cách đầy đủ.

Trong lãnh vực này, ngu?i giáo dân có thể làm tông đồ cho ngu?i đồng cảnh ngộ với mình. Ở đó, họ lấy lời nói bổ túc cho bằng chứng của đời sống. Cũng ở đó, họ dễ dàng giúp đỡ anh em trong môi trường làm việc hay nghề nghiệp, môi trường học vấn, cư ngụ, giải trí cũng như trong sinh hoạt địa phương.”

 “Việc tông đồ này phải nhắm tới hết mọi ngu?i trong môi trường hoạt động và không được loại bỏ bất cứ lợi ích thiêng liêng hay vật chất nào có thể làm cho họ. Nhưng ngu?i tông đồ đích thực không chỉ hài lòng với hoạt động này, mà họ còn phải quan tâm đến việc rao giảng Chúa Kitô cho anh em bằng cả lời nói nữa. Bởi vì nhiều ngu?i chỉ có thể nghe Phúc Âm và nhận biết Chúa Kitô nhờ những ngu?i giáo dân sống gần họ.”  (TĐ số 13)

 

19. Gia đình có phải là môi trường hoạt động tông đồ của người giáo dân không ?

 - “Có một bậc sống rất có gía trị để thể hiện nhiệm vụ đó, bậc sống được một bí tích đặc biệt thánh hóa, đó là đời sống hôn nhân và gia đình. Gia đình là môi trường hoạt động và trường học tuyệt diệu cho việc tông đồ giáo dân.”

 - “Từ gia đình, Kitô giáo thấm nhập vào tất cả các tổ chức cuộc sống và dần dần biến đổi các tổ chức ấy; nơi gia đình, vợ chồng tìm thấy ơn gọi riêng của mình là làm chứng cho nhau và cho con cái : lòng tin và tình yêu Chúa Kitô.”

 - “Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của Nuớc Thiên Chúa và niềm cậy trông vào một đời sống hạnh phúc. Như thế, bằng gương lành và chứng tá, gia đình Kitô giáo làm cho thế gian nhận biết tội lỗi mình, đồng thời sáng soi những kẻ đang kiếm tìm chân lý.” (GH số 35)

- “Tất cả những việc ngày xưa vốn là bổn phận vợ chồng, thì ngày nay còn phải coi là phần quan trọng nhất của việc tông đồ. Đó là : phải biểu lộ và chứng minh bằng đời sống tính cách bất khả phân ly và sự thánh thiện của dây hôn phối. . .”

- “Chính gia đình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa sứ mệnh trở nên tế bào đầu tiên và sống động của xã hội. Gia đình sẽ chu toàn được sứ mệnh đó nếu gia đình tỏ ra như một đền thờ của Hội Thánh trong nhà mình nhờ yêu thương nhau và cùng nhau dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa, nếu tất cả gia đình cùng tham dự vào việc phụng vụ của Hội Thánh; sau cùng nếu gia đình tỏ ra hiếu khách và cổ võ đức công bằng cũng như những việc thiện khác giúp các anh em đang túng thiếu.”

- “Trong công việc tông đồ của gia đình cần phải kể đến những việc như:

- nhận làm con những đứa trẻ bị bỏ rơi,

- ân cần tiếp đón những khách lạ,

- cộng tác với học đường,

- khuyên bảo và giúp đỡ thanh thiếu niên,

- giúp những ngu?i đã đính hôn chuẩn bị cho việc hôn nhân của họ được tốt đẹp,

- giúp dạy giáo lý,

- nâng đỡ những đôi vợ chồng cũng như những gia đình khi họ gặp khó khăn về vật chất hay tinh thần,

- lo cho ngu?i già cả không những có những điều kiện cần thiết, mà còn cung cấp cho họ những tiện nghi chính đáng của tiến bộ kinh tế. . .

Để dễ dàng đạt tới những mục đích tông đồ này, các gia đình nên qui tụ thành những nhóm.” (TĐ số 11)

 

20. Bác ái có phải là linh hồn của công việc tông đồ không ?

 - “Đức ái như là linh hồn của tất cả việc tông đồ, được chuyển thông và nuôi dưỡng nhờ các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể.” (TĐ số 3)

 - “Thật vậy, mọi hoạt động tông đồ phải bắt nguồn và lấy sức mạnh từ đức bác ái. Nhưng một vài công việc tự bản chất của chúng có thể biểu lộ tình yêu cách sống động. Chúa Kitô đã muốn những việc đó là dấu chỉ cứu độ.” (Mt 11,4-5)

 - “Giới răn quan trọng nhất trong lề luật là yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn và yêu tha nhân như chính mình (Mt 22,37-40). Thật vậy, Chúa Kitô đã làm cho giới răn bác ái đối với tha nhân thành một giới răn riêng của Ngài và mặc cho nó một ý nghĩa mới phong phú hơn, khi Ngài muốn đồng hóa mình với anh em như chính đối tượng của bác ái, Ngài  nói : “Bao nhiêu lần các ngươi làm những việc đó cho một trong những người hèn mọn là anh em Ta đây, tức là các ngươi làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

 - “Bởi vì khi nhận lấy bản tính nhân loại, chính Ngài đã nối kết toàn thể nhân loại với Ngài thành một gia đình bằng một tình liên đới siêu nhiên, và Ngài đã dùng đức ái làm dấu hiệu riêng của các môn đệ Ngài, khi Ngài nói : “Nếu các con yêu thương nhau, thiên hạ cứ dấu ấy mà nhận biết các con là môn đệ Thầy.” (Ga 13,35)

 - “Trong thời sơ khai, Hội Thánh đặt bữa ăn thân tình “agapê” đi liền với bữa tiệc Thánh Thể để biểu lộ sự hợp nhất hoàn toàn trong tình yêu thương chung quanh Chúa Kitô. Như vậy, bất cứ thời đại nào, người ta cũng nhận ra Hội Thánh nhờ dấu hiệu tình yêu này và Hội Thánh đã tự đảm nhận những công cuộc bác ái như là nhiệm vụ và quyền lợi bất khả di nhượng của mình, dầu Hội Thánh vẫn hân hoan trước những khởi công của người khác.” 

- “Vì thế, Hội Thánh đặc biệt đề cao lòng xót thương đối với người nghèo đói, bệnh tật, cũng như những công cuộc mệnh danh là từ thiện và tương trợ để xoa dịu mọi nỗi thống khổ của nhân loại.” (TĐ số 8)

 

21. Việc bác ái phục vụ những ai ?

- “Ngày nay, công cuộc bác ái có thể và phải nhằm tới tất cả mọi người và mọi nhu cầu. Ở đâu có người thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mặc, thiếu nhà ở, thiếu thuốc men, thiếu việc làm, thiếu giáo dục, thiếu những phương tiện cần thiết để sống xứng danh con người; ở đâu có người bị đau khổ vì nghịch cảnh, ốm yếu, chịu cảnh lưu đầy, tù ngục, thì ở đó bác ái Kitô giáo phải tìm gặp, ân cần săn sóc, ủi an và xoa dịu họ bằng những trợ giúp thích đáng.”

- “Thi hành bổn phận này trước hết là bổn phận của những người giàu và các dân tộc giàu.” (TĐ số 8)  

 

22. Bác ái thực sự là thế nào ?

“Để thực thi bác ái mà không bị chỉ trích và để tỏ ra là bác ái đích thực, cần phải :

1/- Nhìn nhận nơi tha nhân hình ảnh Thiên Chúa, vì họ đã được dựng nên giống hình ảnh Ngài và nhìn nhận nơi họ chính Chúa Kitô, bởi vì bất cứ sự gì được tặng cho người nghèo là đã thực sự được dâng cho Ngài.

2/- Hết sức tế nhị tôn trọng tự do và nhân phẩm của người được trợ giúp. Đừng làm hoen ố ý hướng ngay lành và mưu cầu tư lợi hay vì một tham vọng thống trị nào.

3/- Thỏa mãn những đòi hỏi công bình trước đã, kẻo những tặng phẩm đem cho tưởng là vì bác ái, mà thực ra phải đền trả vì đức công bằng. Phải loại trừ không những hậu quả mà cả nguyên nhân gây nên sự dữ.

4/- Tổ chức giúp đỡ sao cho những người được trợ giúp dần dần thoát khỏi sự lệ thuộc người khác và có thể tự túc.”

“Vậy người giáo dân phải quý trọng và tùy sức giúp vào các việc từ thiện và những công cuộc cứu trợ xã hội của tư nhân, cũng như của quốc gia, kể cả quốc tế.”

“Nhờ những công cuộc đó, người ta mới trợ giúp hữu hiệu cho mỗi người và mỗi dân tộc đang lâm cảnh khốn cùng. Trong việc này, giáo dân cần cộng tác với mọi người thiện chí.” (TĐ số 8)     

 

23. Người tín hữu không sống bác ái, có được cứu rỗi không ?

- “Bất cứ người tín hữu nào, “dù được tháp nhập vào Hội Thánh, nhưng nếu không kiên trì sống trong đức bác ái, thì vẫn không được cứu rỗi, vì tuy “thể xác” họ thuộc về Hội Thánh, nhưng “tâm hồn” họ không ở trong Hội Thánh.”

- “Nhưng các con cái của Hội Thánh phải nhớ rằng : Địa vị cao trọng của họ không phải do công đức riêng mình, nhưng do đặc ân của Chúa Kitô; nếu họ không đáp lại h?ng ân ấy bằng tư tưởng, lời nói và việc làm, thì không những họ không được cứu rỗi mà còn bị xét xử nghiêm khắc hơn.” (GH số 14)    

 

24. Người giáo dân có phải là chứng nhân của Chúa Kitô không ?

- “Chúa Kitô, vị tiên tri cao cả, Đấng đã dùng chứng tá đời sống và sức mạnh của Lời nói để công bố Nước Chúa Cha; Ngài chu toàn chức vụ tiên tri, cho đến lúc sự vinh hiển của Người tỏ ra trọn vẹn; Ngài chu toàn chức vụ đó không những nhờ hàng giáo phẩm, là những người nhân danh và lấy quyền Ngài mà giảng dạy nhưng cũng nhờ các giáo dân; sở dĩ Ngài đã đặt họ làm chứng nhân, đồng thời ban cho họ cảm thức đức tin và ơn dùng ngôn ngữ nữa (Cv 2,17-18; Kh 19,10) là để sức mạnh Phúc Âm sáng ngời trong đời sống hằng ngày, trong gia đình và ngoài xã hội.”

- “Nếu giáo dân vững lòng trông cậy mà lợi dụng thời gian hiện tại (Ep 5,16; Cl 4,5) và kiên trì trông đợi vinh quang một ngày kia sẽ đến (Rm 8,25), họ sẽ tỏ ra là con cái của lời giao ước; nhưng niềm hy vọng đó, họ không nên dấu kín trong lòng, trái lại họ phải diễn tả nó qua những cơ cấu của cuộc sống trần gian, bằng cách hoán cải không ngừng và chiến đấu chống lại “bá chủ của thế gian tăm tối này và bọn tà thần” (Ep 6,12).

- “Như những bí tích của luật mới, là của ăn nuôi dưỡng đời sống và hoạt động tông đồ của tín hũu, tiên báo trời mới và đất mới thế nào (Kh 21,1), thì giáo dân cũng mạnh mẽ loan báo lòng tin vào điều mình trông đợi như thế (Dt 11,1), nếu họ không ngần ngại nối kết đời sống đức

tin với việc tuyên xưng đức tin làm một.”

- “Trong cuộc rao giảng Phúc Âm đó, nghĩa là sự loan báo Chúa Kitô bằng đời sống, chứng tá và lời nói, mang một sắc thái và hiệu qủa đặc biệt vì được thể hiện trong những hoàn cảnh chung của trần gian.” (GH số 35)

 

25. Người giáo dân có nhiệm vụ truyền bá Phúc Âm cho thế giới không ?

 - “Người giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao qúy là truyền bá Phúc Âm cho thế giới, cả lúc họ bận tâm lo lắng những viêc trần thế. Dù khi thiếu thừa tác viên có chức thánh hoặc khi các ngài bị ngăn trở vì bách hại, có những giáo dân thay thế các ngài thi hành một vài phận vụ thánh tuỳ theo khả năng của họ; dù có một số giáo dân đã dốc toàn lực vào việc tông đồ, tất cả vẫn phải cộng tác vào việc mở mang Nước Chúa Kitô trên trần gian.”

- “Vì vậy, giáo dân phải khéo léo tìm hiểu sâu xa hơn chân lý Chúa mạc khải, và tha thiết nài xin Chúa ban ơn khôn ngoan cho mình.” (GH số 35)

- “Thực thế Chúa cũng muốn nhờ cả giáo dân để mở rộng nước Ngài, nước của chân lý và sự sống, của ân sủng và thánh thiện, của công lý, tình yêu và hòa bình; trong nước này, chính tạo vật cũng được giải thoát khỏi thân phận làm nô lệ sự hư đốn, để được hưởng tự do rạng ngời của con cái Thiên Chúa.” (Rm 8,21) (GH số 36)

 

26. Người giáo dân có phải là chứng nhân       của Chúa Giê-su Phục Sinh không ?

“Trước mặt nhân loại, mỗi giáo dân là chứng nhân của sự phục sinh và sự sống của Chúa Giêsu, đồng thời là dấu hiệu của Thiên Chúa hằng sống. Tất cả và mỗi người góp phần nuôi dưỡng thế giới bằng những hoa trái thiêng liêng (x Gl 5,22), và truyền bá cho thế gian tinh thần của những người nghèo khổ, hiền lành và hiếu hòa, những người mà Phúc Âm Chúa đã tuyên bố là có phúc.” (x Mt 5,3-9).

 Tóm lại “người Kitô hữu hãy làm cho thế giới sống như linh hồn làm cho thân xác sống.” (Th Gioan Kim Khẩu) (GH số 38)

 

 

27. Người giáo dân có nhiệm vụ canh tân trật tự trần thế không ?

- “Người giáo dân phải đảm nhận việc canh tân trật tự trần thế như là nhiệm vụ riêng, và trong nhiệm vụ đó, được hướng dẫn nhờ ánh sáng Phúc Âm và theo tinh thần của Hội Thánh, với bác ái Kitô giáo thúc đẩy, họ phải trực tiếp và cương quyết hành động.”

- “Với tư cách là công dân, họ phải đem khả năng chuyên môn cùng với tinh thần trách nhiệm để cộng tác với các công dân khác. Họ phải tìm sự công chính nước Thiên Chúa ở mọi nơi và trong mọi sự. Phải canh tân trật tự trần thế cách nào để vẫn tôn trọng toàn vẹn các định luật riêng của nó mà vẫn làm cho trật tự đó phù hợp với các nguyên tắc cao cả của đời sống Kitô giáo, cùng thích nghi với các hoàn cảnh khác nhau của các địa phương, các thời đại và các dân tộc.”

- “Trong những công cuộc của việc tông đồ này nổi bật hơn cả là hoạt động xã hội của người Kitô hữu. Thánh Công Đồng ước ao hoạt động đó lan đến mọi lãnh vực trần thế, kể cả lãnh vục văn hóa.” (TĐ số 7)

 

28. Người giáo dân có thể góp phần vào công cuộc tông đồ của hàng giáo phẩm không ?

- “Ngoài việc tông đồ này, mọi việc có liên quan đến mọi Kitô hữu không trừ ai, giáo dân có thể còn được mời gọi góp phần trực tiếp hơn và bằng nhiều cách vào công cuộc tông đồ của hàng giáo phẩm, giống như những tín hữu nam nữ đã chịu vất vả vì Chúa Kitô để giúp đỡ tông đồ Phaolô rao giảng Phúc Âm. (Pl 4,3; Rm 16,3 tt). Đằng khác, họ có những khả năng mà hàng giáo phẩm có thể dùng một số phận vụ thuộc hàng giáo sĩ có mục đích thiêng liêng.”

- “Bởi vậy, nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan rộng tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại. Vì thế, khắp nơi phải mở đường cho họ tham gia vào công cuộc cứu độ của Hội Thánh, tùy sức lực họ và tuỳ nhu cầu của thời đại.” (GH số 33)

 

 

Lm Giuse Hoàng Kim Đại

Chính xứ Chợ Lách Bến Tre,

(Trích dẫn và trình bày)


THỂ HIỆN GIÁO HỘI MỘT CÁCH MỚI  THEO CÔNG ĐỒNG &  TÔNG HUẤN GIÁO HỘI TẠI CHÂU Á

(A New Way of Being Church)

 

Lm Tiến sĩ Phêrô Phan Đình Cho

 

Có một cách khác làm nổi bật điều mà tôi đã lưu ý khi nói rằng Thượng Hội đồng Giám mục Á châu có một tác động lâu dài, là các Giáo hội Á châu– với lòng can đảm và óc sáng tạo - phải tìm cho ra cách thể hiện Giáo hội một cách mới và từ đó xây dựng một Giáo Hội học khác có thể thay thế. Đây là một chủ đề được Liên Hội đồng Giám mục Á châu nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại rất nhiều lần, đặc biệt trong Đại hội toàn thể lần  thứ  3 tại Băngcốc (Thái Lan) năm 1982 và lần thứ 5 tại Băngđung (Indonesia) năm 1990. Như cuộc cách mạng Côpécnic, Giáo hội học ấy sẽ thực hiện một cuộc thay đổi quyết liệt: lấy Vương quốc của Thiên Chúa làm trung tâm đời sống Kitô hữu thay vì coi Giáo hội là trung tâm như từ trước đến nay. Các Kitô hữu không lấy Giáo hội làm trung tâm mà lấy Nước Thiên Chúa làm trung tâm. Sứ mạng của họ không phải là mở rộng Giáo hội và các cơ chế của Giáo hội (plantatio ecclesiae) để giúp Giáo hội mở rộng phạm vi ảnh hưởng mà để Giáo hội trở nên dấu chỉ trong sáng và dụng cụ hữu hiệu của sự hiện diện cứu độ của Vương quốc Thiên Chúa, Vương quốc của công lý, hoà bình, tình thương mà Giáo hội là hạt giống. Như  Tông huấn Giáo hội tại châu Á đã nói: “Được Chúa Thánh Thần hỗ trợ và làm cho có khả năng hoàn tất công cuộc cứu độ của Đức Kitô trên trần gian, Giáo hội chính là hạt giống của Nước Thiên Chúa, luôn náo nức mong cho Nước ấy ngự đến. Căn tính và sứ mạng của Giáo hội không thể không có liên quan với Nước Thiên Chúa…. Chúa Thánh Thần nhắc Giáo hội nhớ rằng tự Giáo hội không có cùng đích nơi mình: trong tất cả những gì Giáo hội là và trong tất cả những gì Giáo hội thực hiện, Giáo hội hiện hữu là để phục vụ Đức Kitô và cứu độ thế giới” (Giáo hội tại châu Á, số 17). Cách thức mới để thể hiện Giáo hội và Giáo hội học mang tính cách mới ấy sẽ có những đặc điểm sau đây:

 

1. Trước hết, ở cấp địa phương cũng như ở cấp toàn cầu, Giáo hội phải được coi là “sự hiệp thông của các cộng đoàn”, trong đó giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ nhìn nhận và coi nhau như anh em chị em một nhà. Ở trung tâm mầu nhiệm Giáo hội là sự hiệp thông nối kết Thiên Chúa với con người và nối kết con người với nhau mà Thánh Thể là dấu chỉ và là phương thế tuyệt vời.

Đàng khác, Giáo hội học này nhìn nhận sự bình đẳng cơ bản giữa các thành phần khác nhau của Giáo hội địa phương với tư cách là môn đệ Đức Giê-su và sự bình đẳng cơ bản giữa các Giáo hội địa phương khác nhau với tư cách là các cộng đoàn môn đệ của Đức Giêsu mà sự hiệp thông tạo nên Giáo hội toàn cầu. Sự hiệp thông (koinonia) tạo nên Giáo hội, cả ở cấp Giáo hội địa phương, cả ở cấp Giáo hội toàn cầu và từ đó xuất phát sự bình đẳng cơ bản của mọi Kitô hữu, bắt nguồn từ đời sống thâm sâu của Thiên Chúa Ba Ngôi trong đó có sự hiệp thông trọn vẹn của ba Ngôi bằng nhau. Nếu sự bình đẳng cơ bản của tất cả mọi Kitô hữu này không được nhìn nhận thì Giáo hội không thể trở thành “sự hiệp thông của các cộng đoàn” tại châu Á.  Sống sự bình đẳng cơ bản ấy là việc hết sức khó tại châu Á, không chỉ vì sự nhấn mạnh đến tính phẩm trật của Giáo hội có thể làm lu mờ và hạn chế sự bình đẳng ấy mà còn vì điều đó trái nghịch với ý thức về giai cấp của nhiều xã hội Á Châu.

Hơn nữa, nhìn Giáo hội là “sự hiệp thông của các cộng đoàn” và hệ quả tất nhiên của cách nhìn ấy là tính bình đẳng cơ bản,  là điều kiện không thể thiếu (sine qua non) để chu toàn sứ mạng của Giáo hội. Nếu Giáo hội không là sự hiệp thông, Giáo hội không thể chu toàn sứ mạng truyền giáo của mình, vì Giáo hội không là gì khác ngoài là sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người và giữa con người với nhau. Như  Tông huấn Giáo hội tại châu Á đã khẳng định:”hiệp thông và truyền giáo không thể tách rời nhau” (số 24).

 

2. “Tính môn đệ của những con người bình đẳng” dẫn tới đặc điểm thứ hai của việc thể hiện Giáo hội một cách mới tại Á Châu, đó là bản chất mọi thừa tác cùng tham gia và hợp tác trong Giáo hội: ”Đó là Giáo hội mà mọi người đều tham gia trong đó hồng ân mà Thánh Thần ban cho hết mọi tín hữu- giáo dân, tu sĩ và linh mục- được nhìn nhận và được đưa vào hành động, để Giáo hội có thể được xây dựng và chu toàn sứ mạng của mình”. Bản chất mọi người cùng tham gia cần phải được sống không chỉ ở trong nội bộ Giáo hội địa phương mà cả ở giữa tất cả các Giáo hội  địa phương với nhau, kể cả với Giáo hội Roma nữa, dĩ nhiên là với sự nhìn nhận thẩm quyền của Đức Giáo hoàng. Trong bối cảnh ấy, cần khuyến khích việc đọc lại khẳng định sau đây của Tông huấn: “Thật vậy, chính khi đặt mình trong viễn tượng hiệp thông Giáo hội, người ta mới thấy rõ hơn thẩm quyền của Đấng Kế Vị Thánh Phêrô mang tính phổ quát, không phải một quyền hành mang tính pháp lý trên các Giáo hội địa phương mà là sự trổi vượt mang tính  mục vụ nhằm xây dựng sự hiệp nhất trong đức tin và đời sống của toàn thể Dân Chúa.” (Giáo hội tại châu Á, số 25). “Thẩm quyền mục vụ” phải làm hết sức có thể để phát huy tính đồng trách nhiệm và sự tham gia của tất cả mọi Giáo hội địa phương trong ba sứ vụ: giảng dậy, thánh hóa và phục vụ trong Giáo hội và phải làm thế nào để  những từ ngữ ấy không chỉ dừng lại ở những lời thuyết giảng đạo đức mà phải sinh hoa kết trái trong các cơ chế và hành động. Nếu Thượng Hội đồng Giám mục Á châu chứng tỏ được rằng các Giáo hội Á châu có điều gì đó dể dậy Giáo hội Roma và Giáo hội toàn cầu, thì “Huấn Quyền” trong Giáo hội không còn được quan niệm như con đường một chiều từ Roma đến các Giáo hội địa phương. Thay vào đó, phải là việc học hỏi và dạy dỗ lẫn nhau, phải là việc khch lệ và sửa sai lẫn nhau giữa Giáo hội Roma và các Giáo hội khác, tức giữa tất cả mọi Giáo hội địa phương. Chỉ bằng cách đó thì sự sửa sai mới có thể được hiểu bằng một khái niệm rộng rãi, nhất là trong các quốc gia với các GH được mệnh danh là Giáo hội quốc gia hay Giáo hội yêu nước, rằng thì là Giáo hội Kitô giáo tại châu Á là một tổ chức nước ngoài (thật  ra là một tổ chức quốc tế), có thể so sánh được với các tổ chức đa quốc gia, rằng Giáo hội ấy phải nhận lệnh từ một quyền bính nước ngoài. Trong bối cảnh này, có lẽ sẽ hữu ích khi đưa ra nhận định rằng để không gây hiểu lầm, chúng ta nên tránh xử dụng một vài kiểu  diễn tả mối quan hệ giữa Giám mục địa phương và Giám mục Roma, thịnh hành trong một số giới thuộc giáo hội. Tôi muốn nhắc đến từ  “trung thành” và “vâng phục” là hai từ  đặc trưng cho thái độ của các Giám mục đối với Đức Giáo hoàng. Nhưng đối với người Á châu thì các từ ấy không thể không gợi lên những cam kết phục tùng của các chư hầu đối với các lãnh chúa trong chế độ phong kiến. Không kể sự kiện là trong Giáo hội sự “trung thành” không thuộc về một người khác ngoài một mình Đức Kitô mà thôi và vị Giám mục không mang  ơn đối với Đức Giáo hoàng về chức vụ Giám mục của mình cũng không phải là phụ tá của Đức Giáo Hoàng, nên theo thần học mà nói thì việc thích hợp hơn là phải diễn tả và sống mối quan hệ giữa Giáo hội địa phương và Đức Giáo hoàng bằng các ý niệm của từ giám mục đoàn và tình liên đới. Chỉ bằng cách ấy thì trách nhiệm giảng dậy của Giáo hội và thừa tác vụ cổ võ sự hiệp nhất của Đức Giáo hoàng mới có thể được thực thi một cách có hiệu quả, khi học hỏi được nhiều kinh nghiệm phong phú khác nhau về cách thể hiện Giáo hội từ khắp bốn phương trời của địa cầu này và khi đón nhận sự sửa lỗi đầy kính trọng nhưng chân thành trong trường hợp có sai phạm lỗi lầm do tâm trí hẹp hòi, do kiêu căng về luân lý và do u tối về tâm linh.

 

3. Đặc điểm thứ ba của việc thể hiện Giáo hội một cách mới tại Á châu là tinh thần đối thoại: “Được xây dựng giữa lòng các dân tộc, đó là Giáo hội mà chứng từ đầy lòng tin và tình yêu thương đối với Chúa Phục Sinh và truyền tới những người có niềm tin và xác tín tôn giáo khác nhờ sự  đối thoại về sự giải phóng toàn diện của tất cả mọi người. Ngay từ Đại hội toàn thể lần đầu tiên họp tại Taipei, Đài Loan, năm 1974, Liên Hội đồng Giám mục Á châu đã nhắc đi nhắc lại rằng trọng trách đầu tiên của các Giáo hội Á châu là Loan Báo Tin Mừng. Nhưng Liên Hội đồng Giám mục Á châu cũng thường chủ trương rằng Giáo hội chỉ có thể thực hiện được trọng trách ấy tại Á châu bằng con đường đối thoại với các Nền Văn hoá Á châu, với các Tôn giáo Á châu và với chính người Á châu, nhất là những người nghèo. Tông huấn nhắc lại sự cần thiết của cuộc đối thoại này. Trong cuộc đối thoại với các Nền Văn hóa Á châu (hội nhập văn hóa), Tông huấn làm nổi bật các lãnh vực Thần học, Phụng vụ và Thánh Kinh (Giáo hội tại châu Á, số 22). Trong cuộc đối thoại với các Truyền thống Tôn giáo khác, Tông huấn nhấn mạnh cuộc đối thoại mang tính đại kết và giữa các tôn giáo. Tông huấn lập lại đề nghị 41 của Thượng Hội đồng Giám mục Á châu: Những quan hệ giữa các Tôn giáo sẽ được mở mang cách tốt đẹp, nhất là khi mọi người sống trong bầu khí cởi mở  với nhau, có ý muốn lắng nghe, tôn trọng và thông cảm người khác trong những khác biệt của họ. Để làm được tất cả những việc này, cần phải biết yêu thương tha nhân. Từ đó mới có sự hợp tác, hòa hợp và làm giầu cho nhau (Giáo hội tại châu Á, số 31). Trong cuộc đối thoại với người nghèo, Tông huấn khẳng định cần phải có tình yêu ưu tiên dành cho người nghèo (cách riêng những người dân nhập cư, các dân tộc và bộ lạc gốc bản xứ, phụ nữ và trẻ em), bênh vực quyền con người, chăm sóc về y tế, giáo dục, kiến tạo hoà bình, hủy bỏ nợ nước ngoài và bảo vệ môi sinh (Giáo hội tại châu Á, số 32-41).  Hẳn nhiên nếu Giáo hội Kitô giáo phải trở thành Giáo hội của Á châu thực sự, thì các Kitô hữu Á châu phải dấn thân, một cách kiên cường và toàn tâm toàn ý, vào cuộc đối thoại bằng “cuộc sống và trái tim” với ba đối tác trên. Và bằng cách đó họ thực thi quyền và trách nhiệm của mình là Loan báo Đức Giêsu cho những người đồng hương Á châu khác.

Trong bối cảnh Loan báo Tin Mừng và đối thoại với các Nền Văn hóa, với các Tôn giáo và với người nghèo Á châu, có lẽ sẽ nẩy sinh  vấn đề đang được tranh cãi là phải Loan báo Đức Kitô là Đấng Cứu Độ và là Đấng Cứu Độ duy nhất như thế nào tại Á châu. Tông huấn khẳng định rằng “Không thể có sự Phúc Âm hóa thật sự nếu không có việc công khai loan báo Đức Giêsu là Chúa” (Giáo hội tại châu Á, số 19) và rằng sự Loan báo ấykhông phải là do một động cơ phe phái hay do tinh thần chiêu mộ tín đồ hoặc bởi sự trịch thượng nào” mà “chỉ vì muốn tuân theo mệnh lệnh của Đức Kitô(Giáo hội tại châu Á, số 20). Vì thế cho nên sự Loan báo ấy phải được thực hiện với lòng kính trọng đối với cả hai phía: ”một đàng tôn trọng con  người trong hành trình tìm kiếm những giải đáp cho những vấn nạn sâu xa nhất của cuộc sống, đàng khác tôn trọng hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi con người” (Giáo hội tại châu Á, số 20).

Về việc phải loan báo như thế nào về Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất thì TH thẳng thắn nhìn nhận rằng sự loan báo ấy “đã đụng phải những khó khăn về triết học, văn hóa và thần học, nhất là nhìn từ những niềm tin có trong các Tôn giáo lớn của Á châu, vốn quyện rất chặt với các nền Văn hóa và các thế giới quan riêng biệt(Giáo hội tại châu Á, số 20). Nỗi khó khăn này là do sự kiện đã được nhắc đến ở trên là, Đức Kitô được coi là người xa lạ đối với Á châu, như một gương mặt Tây phương hơn là một gương mặt Á châu. Ở đây Tông huấn đáng được ca tụng vì đã yêu cầu ba điều quan trọng sau đây:

* một công cuộc giáo dục tiệm tiến về việc Loan báo Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất,

* xử dụng cách kể chuyện để bổ sung cho các hệ (thần học) trong việc Loan báo ấy,  và

* nhìn nhận có sự khác biệt chính đáng trong các cách tiếp cận để loan báo về Đức Giêsu.

Đây không phải là chỗ để tranh luận thần học về chủ nghĩa khử trừ, dung nạp và đa dạng, nhưng theo sự phán đoán của tôi, vấn đề Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất là vấn đề lý thú có lẽ trong thần học, nhưng là một kiểu nói vô bổ trong giảng dậy và giáo lý. Nguyên do là vì mục tiêu trực tiếp của việc loan báo Tin Mừng là làm cho người ta đón nhận Đức Giêsu là “Đấng Cứu Độ của họ” (personal Savior) - nếu muốn dùng cách nói mà các Kitô hữu thuộc Phong trào Thánh Linh rất thích dùng - chứ không phải là “Đấng Cứu Độ duy nhất”. Điều được nhắm tới là sự dấn thân có tính cá nhân và trọn vẹn của người tân tòng đối với Đức Giêsu chứ không phải là sự khước từ việc có thể có những cách thức khác mà Thiên Chúa có thể dùng để đến với người khác. Câu hỏi mang tính sống còn vượt trên tất cả không phải là các dân tộc khác có thể được cứu độ hay không và được cứu độ bằng cách nào nhưng là câu hỏi ‘bằng cách nào tôi có thể đi vào mối quan hệ cá vị (personal) với Thiên Chúa một cách sung mãn?’  Khi một người nào đó đã khám phá ra rằng Đức Giêsu là con đường giúp  người ấy đạt tới Thiên Chúa thì lúc đó với kinh nghiệm cá nhân của mình, người ấy có thể làm chứng về sự kiện ấy với người khác. Sức mạnh và lòng nhiệt thành của chứng nhân không phát sinh từ sự xác tín có tính thần học rằng Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất nhưng xuất phát từ kinh nghiệm sâu xa rằng Người  là Đấng Cứu Độ của tôi (personal Savior for me). Trong giảng dậy khi tôi bị hỏi về các tôn giáo khác và về các khuôn mặt cứu độ khác thì tôi sẽ phải công nhận, một cách vui vẻ và biết ơn rằng các tôn giáo và các khuôn mặt cứu độ khác có nhiều yếu tố tốt và có sự hiện diện cứu độ của Thánh Thần Thiên Chúa nơi họ; nhưng tôi sẽ làm chứng rằng Đức Giêsu là con đường cho tôi đến với Thiên Chúa và tôi sẽ mời họ thử  đi vào con đường này xem. Nếu họ chấp nhận Đức Giêsu là con đường của họ để tới Thiên Chúa thì khi ấy tôi sẽ cho thấy rằng Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ phổ quát và duy nhất, nghĩa là Đấng Cứu Độ của tôi cũng như của những người khác.

 

4. Đặc điểm thứ bốn và là đặc điểm cuối cùng của việc thể hiện Giáo hội một cách mới tại Á châu là tính ngôn sứ: “Giáo hội là men biến đổi trong thế giới này và là dấu chỉ ngôn sứ dám nhìn xa hơn thế giới hiện tại để hướng tới Nước Thiên Chúa là Triều Đại đang đến nhưng chưa đến trọn vẹn. Trong những gì có liên quan tới Á châu, thì nếu muốn làm “men biến đổi thế giới”, Kitô giáo phải từ bỏ tham vọng của mình đã gắn liền với những giai đoạn truyền giáo hồi đầu thế kỷ 20, để kéo đại đa số người Á châu về với Đức Kitô. Nói về cái chết của các tôn giáo Á châu xem ra có vẻ quá sớm và đã được phóng đại một cách quá đáng.  Tại Á châu, nơi mà các Kitô hữu vẫn còn là một thiểu số rất khiêm tốn trong dân chúng sau 4 thế kỷ truyền giáo và nơi mà các tôn giáo không phải là Kitô giáo đã tỏ cho thấy có sức cạnh tranh lớn lao, thì viễn tượng người ta trở lại hàng loạt với đức Tin Kitô giáo là hoàn toàn không thể xẩy ra. Các Kitô hữu Á châu phải đi đến chỗ nhận ra sự kiện này là họ sẽ mãi mãi là một “nhóm nhỏ còn sót lại” đồng hành với các tín đồ của các tôn giáo khác trong cuộc hành trình tiến về Vương quốc của Thiên Chúa.

Mục tiêu của việc truyền giáo “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19) của Giáo hội tại Á châu vì thế không thể là càng có thêm nhiều tín hữu càng tốt, bằng phép rửa “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19) mà sẽ được coi như là mục tiêu đáng ước ao của việc truyền giáo của Giáo hội.  Đúng hơn thì trách nhiệm ưu tiên hàng đầu của Giáo hội là trở nên “dấu chỉ ngôn sứ” đáng tin cậy của Nước Thiên Chúa đang đến. Trọng tâm mới này của việc truyền giáo của Giáo hội phải là ngọn đèn soi sáng việc sắp đặt các mối ưu tiên và sự chọn lựa các chiến lược không nhằm mục tiêu phục vụ các lợi ích nội bộ của Giáo hội mà nhằm Loan báo Tin Mừng xuyên qua cuộc đối thoại với ba đối tác đã đề cập ở trên.

Có một cách diễn tả rất hữu ích về sứ mạng của Giáo hội mà Thomas Thangaraj đã thực hiện là nhìn sứ mạng ấy là một phần và là sự hoàn tất sứ mạng của chính nhân loại bao gồm ba nhiệm vụ cơ bản là: tính trách nhiệm, tình liên đới và sự hỗ tương.  ‘Tính trách nhiệm’ theo Thangaraj có nghĩa là con người là sinh vật thoát ra khỏi chính mình và quay lại với chính mình trong lương tâm có suy nghĩ, lý giải chính mình và với một cảm nhận tính hiệu quả biết lãnh lấy trách nhiệm về chính mình và về các hành động của mình. Nhiệm vụ này con người phải chu toàn trong tình liên đới và hỗ tương giữa người này với người khác. Điều mà sứ mạng của người Ki-tô hữu thêm vào sứ mạng của nhân loại - nhờ niềm tin của mình -  là làm cho ba nhiệm vụ trên  có một cung cách mới: tính trách nhiệm mang dấu tích “bị đóng đinh thập giá”, tình liên đới “có tính giải phóng” và sự hỗ tương “mang tính cánh chung” 

Hệ quả của cách nhìn sứ mạng truyền giáo như trên là các Giáo hội phải thiết lập không chỉ các Cộng đoàn Kitô cơ bản (Basic Christian Communities) mà Tông huấn đã khuyến cáo cách mạnh mẽ (đọc Giáo hội tại châu Á, số 25) mà còn phải xây dựng cả các Cộng đoàn nhân sinh cơ bản (Basic Human Communities). Vì́ các Kitô hữu Á châu cần phải hợp tác với những người đồng hương Á châu của mình trong nhiệm vụ thăng tiến nhân sinh, nên các Cộng đoàn nhân sinh cơ bản cũng cần thiết không kém các Cộng đoàn nhân sinh cơ bản để Giáo hội trở thành dấu chỉ ngôn sứ của Nước Thiên Chúa. Các Cộng đoàn nhân sinh cơ bản làm cho người Kitô hữu mở rộng các mối quan tâm của mình vượt ra ngoài khuôn khổ của các bức tường chật hẹp của các ngôi Thánh đường và đặt họ vào tư  thế đối thoại “bằng đời sống và trái tim" với các tôn giáo khác kể cả với những người không tin.

 

[Lm Tiến sĩ Phêrô Phan Đình Cho (giáo sư Đại học Georgetown của Dòng Tên, DC, Hoa Kỳ), Ecclesia in Asia: Challenges for Asian Christianity, Giêrônimô Nguyễn Văn Nội dịch]

  

Địa chỉ liên lạc

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

Email: hnoivnguyen@yahoo.ca

Điện thoại: 098 648 0337