Sự thất bại của chủ nghĩa cấp tiến Công Giáo

Chưa ai tìm cách tổng hợp các ý niệm “cấp tiến” và “bảo thủ”. Nhưng người Công Giáo bảo thủ thường tự coi mình vâng phục thẩm quyền của Giáo Hội, chấp nhận các giáo huấn chính thức, và có một nền luân lý bản thân nghiêm nhặt, nhất là trong các vấn đề tính dục. Còn người Công Giáo cấp tiến thường chủ trương một quan niệm rộng mở hơn về Giáo Hội, một cái hiểu họ cho là có tính giải phóng hơn về bản chất của việc làm người Công Giáo.

Tự hào cho mình tốt hơn

Trên thực tế, chủ trương của người bảo thủ có tính khiêm nhượng hơn chủ trương tự do, vì người bảo thủ ít khi tự cho mình đóng vai những ngọn đuốc tâm linh. Người Công Giáo bảo thủ sẵn sàng nhìn nhận mình là người xấu, cần được cứu rỗi. Trái lại, người Công Giáo cấp tiến thường tự hào rằng mình đã tìm được con đường tốt hơn để làm người Kitô hữu.

Một cưụ chủ bút của tờ National Catholic Reporter (NCR) thực tế đã định nghĩa người Công Giáo cấp tiến như những người “ôm lấy hết dân Chúa… yêu thương… chào đón… cởi mở… khoan dung… Thành tựu vĩ đại nhất của ta trong tư cách Công Giáo là cảm thức cộng đồng và thuộc về, bất kể ta mang theo hành lý và các dị biệt nào… Vấn đề ở đây là dành chỗ cho mọi người trong căn lều vĩ đại…”.

Nhưng dường như Nữ Tu Rita Larivee thực ra không đọc tờ báo mà có thời chính bà đã trông coi, bởi nó chứng tỏ rằng người Công Giáo cấp tiến thật xa vời cái lý tưởng chào đón, cởi mở và khoan dung.

Thực vậy, một bài xã luận của tờ NCR từng nhắc tới “những người cánh hữu” chuyên viết “những lá thư ngoắt ngoéo, hậm hực và phần đông không được đăng tải gửi chủ bút”. Thực ra, các điều ấy, ngoại trừ việc “không được đăng tải” chính là các đặc điểm trong mục thư bạn đọc của tờ báo, trong đó hàng tuần đều có những kết án nặng nề nhất đối với điều họ coi là phản bội mới nhất chống lại Tin Mừng, với cùng những cái tên kết án được lặp đi lặp lại. Đại loại, các kết án đó như sau:

“… nhiều thế kỷ qua, Thánh Thể đã bị đánh cắp khỏi tay ta và nay đã đến lúc ta dành nó lại. Làm gì có những chuyện như phong chức”.

“… các chủ chăn vốn từng bỏ rơi con chiên và đã trở thành một phần của bày chó sói…”.

“… Giáo Hội mưu toan khoác lên vai người giáo dân một cái nhìn hết sức đen tối về hôn nhân bằng cách trích dẫn những điều điên khùng vô nghĩa về Adong và Evà…”.

“… xáo trộn tâm thần nặng nề… Dối trá, bác khước, ngạo mạn, vị kỷ, và nhát đảm, tất cả đều là những đặc điểm của nền văn hóa trong đó các linh mục Công Giáo đang sống…”.

“[Giáo Hội là] một nền văn hóa giả hình và bất trung thực đã từng hiện diện với chúng ta từ Thời Trung Cổ… nấp mình hàng bao thế kỷ qua dưới mặt nạ linh đạo và tôn giáo…”.

“… một thứ khí nóng phát sinh từ một phẩm trật nam giới bất lực… toàn chuyện nhảm nhí”.

“thủ đoạn bất lương [của vị giám mục] đã vượt quá ngạo mạn và cần bị bác bỏ”.

“Tầm nã tôn giáo và săn lùng phù thủy hiện đang hoạt động mạnh… Tôi rất mừng được làm một người Công Giáo già giặn không thèm đếm xỉa tới những tuyên bố vô nghĩa ấy”.

“Dưới nước sơn công lý là cả một hầm cầu đầy lừa đảo và bắt nạt”.

“Các vị giáo hoàng từ Gioan XXIII đến nay đơn thuần chỉ là những người không thỏa đáng. Phần lớn các giám mục nặng về trình diễn. Họ.. ăn vận như để diễn hành và cười hô hố trên đường tới Ngân Hàng Vatican”.

“Điều gì không ổn với vị [giám mục] này? … các hành động của ngài rõ ràng phớt lờ các lời dạy của Tin Mừng. Hình như [ngài] cổ vũ thứ não trạng vốn có từ thời Tầm Nã tôn giáo tại Tây Ban Nha và thời săn lùng phù thủy của Thượng Nghị Sĩ McCarthy… Tôi thực sự không tin tưởng ngài chút nào cả và tin rằng ngài chỉ có khả năng phá hoại Giáo Hội một cách lớn lao”.

Một người cộng tác với NCR, là Jamie Manson, gọi việc bác bỏ phong chức cho phụ nữ là một “bạo hành tâm linh sâu xa” và tố cáo Giáo Hội luôn dạy người ta rằng “thân thể phụ nữ làm nhơ Thánh Thể”. Còn Rick Heffern, một chủ bút khác của NCR, thì cho rằng “Chính sách của Vatican quả là bệnh hoạn khi cứ nằng nặc cho rằng cần phải duy trì chức linh mục cho nam giới mà thôi”.

Một người tham gia blog có khuynh hướng cấp tiến về phụng vụ là Pray Tell gọi Phong Trào Phụng Vụ Mới, vốn bảo thủ hơn, là phong trào sổ ruột (ỉa chẩy, bowel movement). Một người khác cũng tham gia Pray Tell, khi so sánh các vị giám mục với những tên tuyên truyền Cộng Sản, đã viết rằng “những ông này không ngần ngại nói láo thẳng thừng” còn người phối hợp Pray Tell là Anthony Ruff, thuộc Dòng Bênêđíctô, thì cho rằng việc canh tân phụng vụ hiện nay mang nhiều dấu ấn “lừa đảo và láu cá”.

Sau khi Đức Gioan Phaolô II bị bắn tại quảng trường Nhà Thờ Thánh Phêrô, người ta nghe Cyrill Barrett, một linh mục Dòng Tên người Ái Nhĩ Lan, “gào” lên như sau tại một quán ăn ở Luân Đôn: “Cái anh chàng Thổ Nhĩ Kỳ chết tiệt này có điều quá bậy là đã không chịu bắn thẳng”. Câu nói này, sau khi ông chết, đã được nhiều bằng hữu trưng dẫn để chứng tỏ ông thù ghét “sự hẹp hòi về trí thức”.

Trong một môi trường như thế, mà tờ NCR vẫn cho rằng một vị giám mục theo khuynh hướng cấp tiến “bị tấn công vào chính bản thân và bị người ta giận giữ tố cáo” trong khi một vị khác phải chịu đựng “chiến dịch bôi lọ của kẻ thù ở bên trong cũng như ở bên ngoài Giáo Hội”.

Biệt phái hay không biệt phái

Các người Công Giáo bảo thủ thường bị tố cáo là biệt phái. Nhưng trên thực tế, chủ nghĩa biệt phái là chủ nghĩa được phản ảnh rõ nhất qua các thái độ của những kẻ chuyên tố cáo người khác là biệt phái. Thậm chí tổ chức có tên là Voice of the Faithful (Tiếng Nói Giáo Dân) có lúc đã đứng ra cổ vũ “Đài Quan Sát Biệt Phái” (Pharisee Watch), mời gọi người ta nêu đích danh các người Công Giáo “biệt phái tân thời”.

Một thầy giáo hưu trí lên tiếng cảnh cáo kiểu nói “và ở cùng tinh thần cha” (and with your spirit) vì kiểu nói này “khuyến khích các người Công Giáo tầm thường nghĩ rằng tôn giáo của họ, trong căn bản, chỉ là để cứu các linh hồn” và “một lần nữa sẽ dẫn người Công Giáo tầm thường ra sai lạc”. Người viết này không coi mình là “người Công Giáo tầm thường” và ngây thơ. Trong sự giác ngộ của mình, ông hiểu biết sâu rộng hơn những “người Công Giáo tầm thường” như Inhaxiô thành Loyola và Têrêxa thành Avila, những người ngây thơ cho rằng tôn giáo của họ chỉ là để cứu các linh hồn.

Một độc giả khác của NCR kể lại rằng “Gần đây tôi hỏi một người bạn tại sao cô ấy là Kitô hữu. Không suy nghĩ, cô ấy trả lời ngay: ‘Để tôi được lên thiên đàng’”. Người này, do đó, đã nhìn sâu vào cõi lòng bạn mình và nhận ra rằng cô ta “không hề có suy nghĩ và làm nô lệ cho sợ hãi” rồi tự hào tuyên bố rằng, trái lại, “tôi là hội viên của Pax Christi”.

Nữ Tu Celine Goessl lên án hàng giáo phẩm như những thây ma sơn phết, trái ngược với “Dân Chúa là những người nhìn rõ sự thật thực sự, như chúng tôi (các nữ tu) chẳng hạn đang sống cuộc sống của mình một cách trung trinh theo Chúa Giêsu của Tin Mừng”.

Lên tiếng với Hội Đồng Lãnh Đạo Các Nữ Tu (Leadership Conference of Women Religious [LCWR], đang bị Tòa Thánh điều tra) gồm các vị đứng đầu hầu hết các dòng nữ ‘chính dòng”, Nữ Tu Shawn Copeland đã tương phản cử tọa của bà với những người “giữ luật nhưng hâm hấp; không suy nghĩ, nhưng lại ta đây; hống hách nhưng lại sợ sệt”; bà hào hiệp mời gọi những người này bước chân theo “lời mời gọi nên thánh của chúng ta”.

Nghị trình chia rẽ

Các nhà cấp tiến than phiền về “những tên cực đoan” và việc thiếu lịch sự cả trong sinh hoạt chính trị lẫn tôn giáo và những người bảo thủ là những người duy nhất bị gán cho các tội lỗi ấy. Linh mục thần học gia Richard McBrien nhất định cho rằng ông không hề thấy một người cấp tiến nào có nghị trình chia rẽ cả.

Ít có người Công Giáo bảo thủ nào bênh vực phong cách hàng giáo phẩm dùng để gỉai quyết cuộc khủng hoảng tình dục của giáo sĩ. Thực vậy, do tầm quan trọng họ vốn đặt lên nền luân lý tính dục, người bảo thủ thực sự là người ngỡ ngàng hơn cả người cấp tiến. Ấy thế mà vụ gương mù này mau chóng biến thành một vấn đề phe phái. Tiếng Nói Giáo Dân, được lập ra với mục đích đòi có hành động chính thức, đã mau chóng biến thành một nhóm vận động hành lang theo khuynh hướng cấp tiến.

Độc giả của NCR liên tiếp tỏ bày sự giận dữ của họ khi cho rằng Đức HY Bernard Law, nguyên TGM Boston, đã không bị trừng phạt đủ vì đã làm ngơ việc lạm dụng tình dục. Nhưng những người tự do lên tiếng rất ít về Đức HY Roger Mahony của Los Angeles, người từng công khai che đậy nhiều vụ tai tiếng, và khi các vị giám mục được phe cấp tiến coi như những anh hùng như TGM Rembert Weakland của Milwaukee, HY Godfrey Daneels của Bỉ bị phát hiện cũng đồng lõa không kém, thì các người cấp tiến lại không hề lên tiếng chỉ trích.

Margaret O’Brien Steinfels, nguyên chủ bút của tập san Công Giáo Commonweal nhìn nhận rằng dù TGM Weakland không hành động chi chống lại các linh mục phạm tội và sử dụng ngân quĩ của giáo phận để bịt miệng người yêu đồng tính tống tiền, ngài vẫn là vị giám mục gần như lý tưởng của bà. McBrien và nữ tu duy nữ Joan Chittister đều lên tiếng ca ngợi sự khôn ngoan của việc ấn hành cuốn hồi ký của TGM Weakland, và một độc giả của NCR đã coi ngài như là một trong các “giám mục đầy đức tin”. NCR chớ hề nhắc để các độc giả mình nhớ rằng một trong các giáo sĩ vi phạm tình dục tồi tệ hơn cả là Paul Shanley đã được ca tụng trên các trang báo của họ ít nhất ba lần ngay cả sau khi đã bị tố giác.

Trong cố gắng không ngừng muốn làm trầy da tróc vẩy các vị giám mục, các người cấp tiến quên khuấy một nhóm cá nhân khác cũng có trách nhiệm không kém, đó là bề trên các dòng tu. Không ai chịu điều tra xem tác phong xấu của giáo sĩ đã được các vị cấp tiến như Timothy Radcliffe, cựu bề trên cả Dòng Đaminh hay các vị bề trên theo cấp tiến của Dòng Tên xử lý ra sao, mặc dù phong cách giải quyết của các dòng tu này không hề khác với phong cách của các giám mục.

“Tín điều” của phe cấp tiến vốn cho rằng một hàng giáo phẩm nữ sẽ giải quyết cuộc khủng hoảng tình dục của giáo sĩ hay hơn nhiều, nhưng thực tế không hẳn như thế. LCWR từng cộc lốc từ chối gặp những người cho rằng mình bị các nữ tu lạm dụng, thậm chí không chịu ghi vấn đề vào nghị trình của mình nữa.

Tự hào là người Công Giáo có suy nghĩ

Người cấp tiến thường tự nhận mình là “người Công Giáo có suy nghĩ”, một phạm trù xem ra muốn loại bỏ những người như các cố thần học gia Hans Urs von Balthasar, Jean Danielou, Henri DeLubac, và Avery Dulles, cũng như hai vị giáo hoàng gần đây nhất. Theo NCR, các thần học gia chính thống chỉ là những người “nhai lại đường ranh phe phái” chứ không hề là các tư tưởng gia. Ngược lại các nhà thần học vĩ đại của tờ báo bao gồm cả người huênh hoang “hậu Kitô Giáo” như Mary Daly.

Có những giáo sư Công Giáo chính thống tại các đại học danh tiếng, nhưng sự hiện diện của họ thẩy đều bị làm ngơ, vì theo định nghĩa, “suy nghĩ” phải có nghĩa là bất đồng. Elizabeth Anscombe có lẽ là nữ triết gia quan trọng nhất của thế kỷ 20, nhưng người cấp tiến không thể thừa nhận bà, vì bà hoàn toàn bênh vực giáo huấn Công Giáo về ngừa thai và nhiều vấn đề khác.

Một phần trong sự phỉnh lừa của người cấp tiến là chiêu bài cho rằng những người bất đồng chỉ bất đồng sau khi đã nghiên cứu lâu dài và cẩn thận. Nhưng như các trang của NCR đã chứng tỏ, bất đồng đôi khi chỉ là những khẩu hiệu châm chọc. Rất ít người cấp tiến chịu khó đọc hết thông điệp Humanae Vitae, huống hồ là có thể đưa ra một phê phán thận trọng.

Trên thực tế, đối với “những người Công Giáo có suy nghĩ” của phe cấp tiến, cảm xúc thường là qui luật và họ quen dùng một thứ tống tiền bằng cảm xúc để bênh vực quan điểm của mình, để biện minh các đòi hỏi của mình dựa trên cơ sở họ chịu nhiều đau khổ.

Ruff từng nói rằng “Nghĩ đến giáo huấn của Chúa khi nào… tôi cũng khóc”. Các lá thư gửi về NCR thường bắt đầu với câu “trái tim tôi tan nát…”, “tôi khóc một cách sầu thảm…” McBrien cho biết các nhân viên giáo xứ “bị thương tổn một cách khủng khiếp” còn người đàn bà kia thì “chạy bổ ra khỏi nhà thờ khi đang có bài giảng lễ, đầm đìa nước mắt”, lỗi của linh mục giảng lễ là đã phục hồi các lối sùng kính truyền thống, thúc giục giáo dân đi xưng tội, và phủ các tượng ảnh bằng vải tím dịp Chúa chịu nạn…

Tự nhận đọc được các dấu chỉ thời đại

Công đồng khuyên ta “đọc các dấu chỉ của thời đại”, một nhiệm vụ chắc chắn thuộc loại khó khăn nhất, nhưng những người cấp tiến luôn cho là mình có khả năng làm được điều đó. NCR nói về một nhóm tự nhận là Giáo Hội Tương Lai như sau: “Họ nhìn rất xa con đường trước mặt” và “có đủ kiên nhẫn và thiện chí kéo chúng ta đi chung với họ”.

NCR tóm tắt lịch sử Giáo Hội gần đây như sau: “một bí mật công khai là các lực lượng mạnh mẽ trong hàng ngũ lãnh đạo Giáo Hội vốn cực lực chống lại các cải cách do Công Đồng Vatican II khởi xướng và vốn âm thầm nhưng cương quyết mưu toan, trong 40 năm qua, nhằm đi ngược lại những gì đã đạt được. Sự đi giật lùi này đã được che đậy bằng một ngôn từ theo kiểu Orwell, nghĩa là hết lời ca tụng Công Đồng dù ý định là đi ngược lại nó”.

Điều ngụy biện trong lối tường trình trên nằm ở các chữ “khởi xướng” cũng như “ý định” của Công Đồng. Không người nào dám chứng minh rằng sự suy sụp của đời sống tu dòng, cuộc cách mạng tình dục, và việc “phong chức” cho nữ giới là các ý định của Công Đồng. Công Đồng minh nhiên kết án ngừa thai, phá thai, và ly dị, và ngăn cấm bất cứ ai đưa ra các cải cách bất hợp pháp về phụng vụ. Ấy thế nhưng các người cấp tiến vẫn liên tiếp cho rằng “Đức Gioan XXIII đang trở mình trong mồ” như thể mục đích triệu tập Công Đồng của ngài là để thừa nhận việc ngừa thai, phá thai, ly dị, đồng tính luyến ái, và nữ linh mục.

Nữ tu duy nữ Theresa Kane thẳng thừng tuyên bố rằng việc phong chức cho nữ giới là “viễn kiến của Công Đồng”, và nữ tu kiêm thần học gia Sandra Schneiders cho rằng Vatican II kêu gọi các nữ tu bước theo con đường dẫn họ tới “thời hậu hiện đại hoàn cầu hóa”, một hạn từ chưa nghe thấy bao giờ trong thời Công Đồng và xem ra có khả năng muốn được hiểu ra sao tùy thích.

Phong trào cấp tiến gồm quá nhiều những người lớn tuổi vốn có cái nhìn tiếc nuối đối với thập niên 1960, đến độ khi một độc giả của NCR nói tới “giáo hội xưa”, bà có ý nói tới thời kỳ từ khoảng năm 1960 tới lúc Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II lên ngôi vào năm 1978, và một người khác từng hỏi một cách hoài nghi rằng “Từ lúc nào có người đã công bố rằng các giáo huấn của Giáo Hội là vô ngộ?”

Một độc giả khác còn đi xa hơn nữa bằng cách cho rằng Đức Bênêđíctô XVI là giáo hoàng “bất hợp pháp” vì ngài và Đức Gioan Phaolô II có một “thiên kiến say mê” đi ngược lại Công Đồng bất khả ngộ. Một độc giả khác dõng dạc tuyên bố rằng hai vị giáo hoàng gần đây nhất phạm tội lạc giáo và phải bị tuyệt thông vì mưu toan “tháo gỡ Công Đồng”

Nhưng thực ra, chính người cấp tiến mới sử dụng “ngôn từ theo kiểu Orwell”. Khoa “giải thích gián đoạn” của họ (thuật ngữ của Đức Bênêđíctô XVI) tùy thuộc việc khám phá ra các ý nghĩa dấu ẩn của các hạn từ và kiểu nói đặc thù trong các văn kiện của Công Đồng và coi các Nghị Phụ của Công Đồng một là như những “máng chuyển” các sứ điệp mà các ngài không hiểu hai là cố tình che dấu ý định của mình bằng một mật mã nào đó.

Thomas Roberts, một chủ bút của NCR, cho rằng “coi thường tác động của Công Đồng, chia người Công Giáo thành các nhóm ‘chú giải’ đã trở thành một chiến thuật ưa dùng”; đây là một lối nói để cho rằng Đức Bênêđíctô XVI và Đức Gioan Phaolô II một là không hiểu Công Đồng (còn Roberts thì hiểu rõ) hai là cố tình mưu toan làm sai lạc ý nghĩa của Công Đồng. Những ai không chấp nhận lối chú giải cấp tiến đều một là bất lương hai là bị hàng giáo phẩm bất lương lừa dối.

Vào thời Công Đồng, người cấp tiến giải thích các dấu chỉ như buộc người Công Giáo phải trở thành một lực lượng của “công bằng xã hội”, một tham vọng, dù chưa nói hết được quan tâm nền tảng của Công Đồng đối với việc canh tân thiêng liêng, ít ra cũng không đi ngược với mục tiêu của Công Đồng.

Nhưng dự án ấy phần lớn đã không thành công, vì “công bằng xã hội” dễ rơi vào chính trị tả khuynh và vì chính người cấp tiến muốn phá hoại thẩm quyền của Giáo Hội một cách có hệ thống. Nếu phần đông người Công Giáo ngày nay không nghe các giám mục nói tới ngừa thai, thì họ cũng thấy không có lý do gì để nghe các ngài nói tới án tử hình hay vấn đề di trú. Những người cấp tiến hoan nghênh các người Công Giáo nào biết thừa nhận phá thai như dấu chỉ một “đức tin trưởng thành, có suy nghĩ” nhưng lại coi cũng những người Công Giáo này là ích kỷ và thiên lệch về luân lý trong các vấn đề khác.

Lồng cách mạng tình dục vào công bằng xã hội

Sai lầm chết người của phe cấp tiến là lồng cuộc cách mạng tình dục vào vấn đề “công bằng xã hội”, và đo lường “tiến bộ” của Giáo Hội chủ yếu căn cứ vào mức độ chấp nhận cuộc cách mạng ấy. Trên trang báo NCR, một mệnh phụ 71 tuổi than phiền rằng “những người đồng tính, lưỡng tính và đổi tính” đang bị Giáo Hội kỳ thị, một than phiền nghe đến nhàm tai.

Việc Giáo Hội từ khước không thừa nhận cuộc cách mạng tình dục đã bị coi là bằng chứng để tố cáo hàng giáo phẩm là “bị ám ảnh bởi giới tính”, nhưng thực ra chính người cấp tiến cho thấy họ bị chứng ám ảnh này. Không một linh mục cấp tiến nào không nói quá 5 phút mà lại không kêu gọi chấm dứt việc linh mục độc thân, còn các giáo dân cấp tiến thì vừa chỉ trích việc ngăn cấm ngừa thai vừa thực hành việc ngừa thai ấy.

Một hội nghị quốc tế các nhà thần học luân lý khuyến cáo rằng các ý tưởng không phải của Tây Phương nên được trọn vẹn đưa vào chính dòng thần học. Nhưng khi các người Anh Giáo Phi Châu đe dọa rời khỏi Hiệp Thông Anh Giáo hoàn cầu vì hiệp thông này thừa nhận đồng tính luyến ái, thì hành động này hoặc bị làm ngơ hoặc bị coi là hẹp hòi. Cuộc cách mạng tình dục phải được bảo vệ bằng mọi giá. Đối với những người cấp tiến vốn nằng nặc cho rằng hầu như mọi học thuyết Kitô Giáo đều bị nền văn hóa điều kiện hóa, thì cuộc cách mạng tình dục này tuyệt đối không thể bị đặt thành nghi vấn.

Chống lại cuộc lạm dụng tình dục của giáo sĩ, phe cấp tiến đòi phải có việc “tính sổ”, nhưng chỉ áp dụng việc này vào các trường hợp lạm dụng đã vấp phải mà thôi. Họ ít nói đến việc ngăn ngừa, vì việc ngăn ngừa buộc phải đương đầu với sự kiện này: các linh mục đồng tính là những người chịu trách nhiệm đối với đa số các vụ lạm dụng, dù người cấp tiến vẫn cứ vô lý cho rằng các người lạm dụng phần lớn là dị tính đi thích mấy chàng đực rựa. Khi một giới chức Vatican cho hay chỉ có khoảng 10% các vụ giáo sĩ lạm dụng tình dục thực sự liên hệ tới ấu dâm, thì một linh mục và một nữ tu viết trên tờ NCR tố cáo rằng câu tuyên bố dựa vào sự kiện ấy hoàn toàn là một tránh né có tính bệnh lý.

Linh mục kiêm thần học gia cấp tiến Charles Curran cho rằng vụ tai tiếng giáo sĩ lạm dụng tình dục “khiến nhiều người nhìn nhận nhu cầu phải thay đổi trong Giáo Hội”. Nhưng lạm dụng tình dục vốn là một vi phạm thô bạo tới giáo huấn luân lý của Giáo Hội, nên thật khó thấy làm thế nào việc cả đời cổ vũ một nền luân lý tính dục dễ dãi hơn của Curran có thể khiến cho những vi phạm kia bớt xẩy ra được.

Cuộc cách mạng tình dục vốn được các người Công Giáo cấp tiến ủng hộ, chủ yếu vì họ coi tôn giáo đương nhiên là trở ngại cho việc khai sáng, thành ra họ cần được sự dạy bảo của thế tục. Đức tin không ngừng chịu lệ thuộc các phê phán từ bên ngoài và chỉ được coi là chính đáng khi được các phán đoán đó thông qua.

Ken Briggs, một cựu chủ bút về tôn giáo của tờ New York Times, cho độc giả NCR hay: về vấn đề đồng tính luyến ái, “Những người Anh Giáo Mỹ, được coi như các nhà quí tộc của sinh hoạt tôn giáo Mỹ,… đặt tiêu chuẩn cho mọi giáo hội khác, kể cả Giáo Hội Công Giáo, là Giáo Hội, về mặt chính thức, thật xa vời đối với cuộc canh tân về phương diện này”. Nên nhớ, ở đây cũng như ở chỗ khác, “canh tân” có nghĩa hoàn toàn trái ngược với truyền thống Giáo Hội.

Tờ NCR than phiền rằng không một sáng lập viên nào của phong trào môi sinh là người Công Giáo. Nhưng điều này hầu như đúng từ trong định nghĩa, vì chủ nghĩa cấp tiến Công Giáo chỉ đơn thuần bước theo bất cứ những gì chủ nghĩa duy tục làm cho nổi tiếng. Điều đáng lưu ý là tờ NCR lại cho việc nói rằng không có người cấp tiến thế tục nào trong phong trào phò sự sống là điều vừa không ăn nhập gì vừa có tính thiển cận.

Liên quan tới chủ nghĩa duy môi sinh, tờ NCR đi xa đến chỗ buộc tội chính chủ nghĩa cấp tiến Công Giáo bằng cách chấp nhận lời chỉ trích của phe duy môi sinh cho rằng việc nhấn mạnh tới “công bằng xã hội” đã khiến người Công Giáo quá tập chú vào con người hơn là vào thiên nhiên. Tờ báo còn cho rằng hiện tượng cho là mặt trời quay tại Fatima là điều các nữ tu hiện đại không thể chấp nhận được vì đó là việc “sử dụng sai lầm quá nhiều năng lượng mặt trời chỉ để phục vụ việc phúc âm hóa”, hạn từ “chỉ để” đã vô tình bôi xấu nhiệm vụ căn bản của người Kitô hữu đối với việc phúc âm hóa.

Bài Công Giáo hay không bài Công Giáo

Xét đến cùng, chủ nghĩa cấp tiến Công Giáo thực sự trở thành chủ nghĩa bài Công Giáo, đến độ Ed Doerr, người đứng đầu tổ chức bài Công Giáo Americans United, thỉnh thoảng vẫn viết ca tụng tờ NCR đã vạch trần những cái xấu xa của Công Giáo.

Linh mục kiêm thần học gia cấp tiến được nhiều người biết đến là Hans Küng xem ra không tỉnh táo bao nhiêu khi cảnh cáo những người Anh Giáo muốn gia nhập Đạo Công Giáo phải coi chừng “chính sách ngoại giao quỉ quyệt của Vatican”, “đừng vướng vào chiếc lưới giăng của Vatican”, coi chừng “cơn khát quyền lực của Rôma” và cả “các ngục tối của Rôma” nữa.

Tập san Công Giáo cấp tiến ở Anh, The Tablet, từng cho đăng tải một thư ngỏ của một nhà thần học Công Giáo Hung Gia Lợi khẩn khoản yêu cầu người Anh Giáo đừng gia nhập “Giáo Hội đang khủng hoảng của chúng tôi” và chỉ trích Đức Bênêđíctô XVI không chịu chấp nhận nữ linh mục và đồng tính luyến ái mà theo ông nhiệm vụ lịch sử của Hiệp Thông Anh Giáo cần phải phát huy.

Những người Công Giáo cấp tiến đã nội bộ hóa chủ nghĩa kỳ thị Công Giáo của những người họ đang đi tìm sự ủng hộ, như tiểu thuyết gia Mary Gordon chẳng hạn, người từng nói với NCR “Nói rằng tôi là một nhà văn Công Giáo quả đã tự động giảm IQ của tôi xuống 90 điểm. Nhưng tôi hiểu tại sao có người lại nghĩ như thế”. Bà “tự giữ một khoảng cách thật xa với hàng giáo phẩm” và cho mọi người biết rõ mình ủng hộ Planned Parenthood (phá thai).

Tờ NCR có bài ở trang nhất nói về một giáo xứ ở Oregon không muốn làm chứng đầy đủ cho niềm tin Công Giáo của mình trong một môi trường nặng mùi duy tục. Thay vào đó, các giáo dân chỉ muốn cho mọi người thấy họ cũng “xanh” như bất cứ ai khác, và người lôi cuốn chính trong buổi liên hoan của giáo xứ chính là chính khách chuyên tranh đấu cho phá thai, Robert Kennedy Con.

Cái hiểu lệch lạc về lịch sử Giáo Hội

Vì cái hiểu lệch lạc của họ về Giáo Hội, nên lịch sử Giáo Hội đối với hầu hết những người cấp tiến đã trở thành cuốn sách đóng và điều tốt nhất họ có thể làm là lục lọi các giai đoạn có thể tương hợp với ý thức hệ hiện đại. Chittiser từng bác bỏ trọn thời kỳ từ Công Đồng Trent tới Vatican II, coi nó như một thời kỳ trong đó “Giáo Hội miệt mài trong việc ngưng đọng thời gian và hãm đà canh tân trong suốt 400 năm”.

John Henry Newman được ca ngợi là người nâng cao thẩm quyền lương tâm, trong khi lời ông cảnh cáo đối với chủ nghĩa cấp tiến, coi nó như đe dọa trầm trọng nhất đối với Kitô Giáo, thì bị làm ngơ. Một độc giả của NCR phản đối vụ phong chân phước cho ông chỉ vì nhiều người Anh Giáo “hiện vẫn còn ghét việc ông trở lại Công Giáo”. Lời phản đối này hình như muốn ngụ ý rằng Newman đã không hành động theo tiếng lương tâm của mình.

Chính Chúa Giêsu cuối cùng cũng trở thành xa lạ với người cấp tiến, ngoại trừ mức độ Người được coi như một người duy nữ nhút nhát, hay như một nhà trị liệu tự thành tựu hoặc một nhà cách mạng chính trị. Kitô học cổ điển là một hàng rào cản sự hiểu biết của họ.

Gần 50 năm sau Công Đồng, những người cấp tiến cay đắng vẫn còn than phiền rằng Giáo Hội không chịu theo con đường mà họ tin chắc Công Đồng đã đưa ra. McBrien than thở rằng các linh mục tốt lành đang “bị đối xử như những kẻ phản bội” còn Giáo Hội thì đang “hủ bại” vì “khi một giám mục lành mạnh về phương diện mục vụ qua đời… người thừa kế của ngài thường là một tiểu quản trị viên cứng ngắc, ưa kiểm duyệt”. Theo McBrien, các linh mục mới chịu chức chỉ cử hành thánh lễ bằng tiếng La Tinh, “mắng nhiếc” tội lỗi giáo dân, sa thải nhân viên, và trên tòa giảng chỉ nói tới phá thai.

Những than phiền như thế phần đông chỉ cho thấy cái mặc cảm tự tôn của các linh mục giống như McBrien, một mặc cảm mà cái Giáo Hội vô ơn kia không chịu thừa nhận. Một linh mục Úc là Eric Hodgens còn vênh vang tự hào rằng “chúng tôi hết sức thành công trong việc huấn luyện một hàng ngũ giáo dân sinh động một cách mới mẻ”. Ông coi hai vị giáo hoàng mới đây là kém cỏi về trí thức không giống thế hệ ông, “lúc hàng linh mục duy trì được một tỉ lệ cao nhất gồm nhiều nhà lãnh đạo thông minh, có giáo dục và có khả năng”.

Nguyên bỉnh bút của tờ NCR là Tim Unsworth có lần mô tả một cách kính phục một nhóm cựu linh mục ở Chicago từng gặp nhau thường xuyên để ăn trưa và thường lắc đầu khi nghe một số linh mục được thăng chức mà theo họ ai cũng thấp kém hơn họ cả.

Cựu linh mục Eugene Kennedy, trong nhiều thập niên qua, chuyên cười nhạo Giáo Hội, coi Giáo Hội như “một máy đánh đu trục trặc”, “đường đi chính giữa của đoàn xiệc văn hóa giáo sĩ”. Các bản dịch mới của Thánh Lễ là một gian dối, giống “thuốc men có trình tòa đánh cướp từ phía sau các toa tầu thế kỷ 19”. Có lần Kennedy phân tích tâm lý các giám mục từ xa, coi họ bất ổn đối với nam tính của mình và do đó thích ra tay trừng trị các linh mục cấp tiến vì chỉ có họ mới có nam tính thực sự. Có điều ông nói thế trước khi các vị giám mục bị tố cáo là lơ là không chịu trừng phạt các linh mục lạm dụng tình dục!

James Gilgannon, một linh mục cao niên ở Kansas City, khi trở lại giáo phận gốc sau nhiều thập niên sống tại Bolivia, đã cho công bố “một thư ngỏ” gửi vị giám mục ít tuổi hơn của mình để chỉ trích đường lối hành động “đầy ý thức hệ hẹp hòi” của ngài khiến giấc mộng của thế hệ ông tan vỡ, nhất là vì đã thẳng thừng bác bỏ phá thai.

Denise Simeone, một người tự nhận “có năng khiếu điều hợp nhóm, đặt kế hoạch lâu dài, và lo phát triển truyền giáo”, đã viết một thư ngỏ gửi các linh mục thuộc lớp tuổi nọ mà bà vẫn thương hại vì họ chịu nhiều ức hiếp và bị thương tổn nhiều về tinh thần do liên hệ với hàng giáo phẩm. Còn Pat Marren, một cựu linh mục và nay là một nhân viên của NCR, thì phê phán rằng “Các linh mục của Vatican II” chịu “nhiều đau khổ và thất vọng vì một Giáo Hội định chế mà họ vốn phục vụ hết sức trung thành”.

Nhưng người Công Giáo bảo thủ biết rõ: bạo chúa đáng sợ nhất thường là những người gần mình hơn cả. Trong nhiều năm qua, các linh mục, tu sĩ và giáo dân bảo thủ đã phải chịu nhiều đắng cay dưới thẩm quyền độc đoán của các giám mục và bề trên tự coi mình không cần phải vâng phục thẩm quyền cao hơn. “Các linh mục của Vatican II” đã tự tung tự tác trong nhiều thập niên qua, chỉ đến nay họ mới bị yêu cầu phải tính sổ, điều mà họ thường từ chối.