Phaolô và một lần thất bại tại Athens

Athens,
Bi kịch một màn ở Công Vụ.
Vẫn còn đó niềm tin cứ đến rồi đi, rất thất thường.


Nói cho đúng, thánh Phaolô chưa từng viết thư gì gửi về giáo đoàn Athens hết. Và, thánh-nhân cũng chẳng khi nào bảo cho ai biết là mình sẽ đến đó làm gì. Phải chăng là để rao giảng hoặc thiết lập thêm một cộng đoàn nào khác, nữa không? Sách Công Vụ, đoạn 17 câu 16-34, vẫn cứ kể về chuyến viếng thăm của thánh Phaolô ở thành-đô yêu dấu đó; đồng thời, Sách này lại còn trích dẫn cả đến lời thuyết giảng của chính thánh-nhân nữa. Thêm vào đó, sách Công Vụ vẫn cứ kể thêm rằng: trên đường tiến thẳng về phía Nam để đến chốn miền Maxêđônia và sau đó sẽ đi Akhaia, thánh Phaolô có thể đã dừng chân ở nơi nào đó, cũng rất gần. Nói nôm na, thì: dường như thánh-nhân vẫn muốn tạo ấn-tượng về chuyến đi Athens hoành tráng, chói sáng. Nhưng ông đã tính sai, bèn đổi hướng quay về với Côrinthô, ngoài dự tưởng.

Thật ra, Athens là trung tâm thành-đô cũng rất cổ, ở Hy Lạp. Nơi đây, khi trước, lại là đất miền thuộc dân ngoài luồng, chốn “phố xá xôn sao” chỉ biết có doanh thương/phe phẩy chẳng lý gì chuyện thần học hoặc giảng rao mục vụ. Ở đây, đã thấy khá nhiều đền đài và tế đàn thờ lạy đủ mọi vị thần cùng ngẫu tượng, đầy mầu sắc, khí thế. Thời tác giả Công Vụ, cũng đã thấy khá nhiều thường dân ở huyện, năng lui tới đền đài chứa toàn thánh tích, với di hài quanh đô chốn miền đầy chất Athens. Nơi đây, còn có nhiều vị thần khá mới từng được vua quan lãnh chúa giới thiệu với chúng dân, vào mọi lúc. Thật ra thì, phần đông những người sống ở chốn thị thành nhiệt náo như Athens vẫn khát khao điều gì đó mới mẻ và khác lạ. Bất cứ thứ gì mà dân thường ở đây cần đến, đều xuất phát hoặc mang dáng dấp rất “Hy Lạp” cốt bày tỏ sự tôn kính/quý trọng đến độ được đề bạt, đi vào sử dụng rất đại trà. Cả đến nhà hiền triết như Socratès cũng là người nổi tiếng quyết vinh thăng các vị thần ngoại bang còn mới mẻ, để rồi ông lại sẽ kêu mời mọi người đem thần tượng về nhà mình mà sùng bái, lạy thờ.

Ngoài ra, có nhiều triết gia khác lại có lập trường khác biệt về việc đối thoại rất cởi mở, như ở Agôra tức: vùng đất lâu nay được thần linh chở che, thánh-hoá. Agôra, là thủ phủ nằm về hướng Tây Bắc của Acrôpôlis. Nói cho đúng, nơi này còn có thị trấn Arê, tức trung tâm hành chánh/doanh thương, mà ngôn ngữ thời nay có người sẽ tặng cho danh hiệu rất văn vẻ, như: “Khu doanh thương bộc phát!” ngõ hầu cuốn hút mọi người đặt chân đến thưởng lãm. Đằng khác, nơi đây lại sản sinh ra nhiều học-thuyết triết-lý nổi cộm suốt nhiều năm. Và, nhiều triết gia tên tuổi lại được coi như cha đẻ của nhiều chủ thuyết, tựa hồ triết thuyết vui chơi ăn nhậu kiểu Êpicurô hoặc sống khổ hạnh như nhóm Khắc Kỷ cực kỳ triết lý. Cả hai học thuyết này, đều “bộc phát” từ thế kỷ thứ Tư, ở Hy Lạp; chí ít là với người tạm dung nơi đất khách. Nhưng, nói gì thì nói, nơi đây từng kiến tạo nhiều uy thế vững chãi, rất năng động ngay từ thế kỷ đầu, sau Công nguyên.

Học thuyết Êpicurô lại vẫn chống đối các thói tục đặt nặng lên chuyện dị đoan/mê tín của dân chúng sinh sống ở xứ sở của mình. Trong khi đó, họ vẫn chủ trương rằng: các thần mới mẻ xuất từ ngoại bang không bị ảnh hưởng chút nào nhờ vào tài khuynh đảo và khống chế của con người, dù ta có gọi đó là nguyện cầu, hiến tế hay gì gì đi nữa cũng mặc. Nhóm Khắc Kỷ lại chỉ tin vào sự kết đoàn/quần tụ toàn nhân loại vào mối tương quan mật thiết rất tự tại giữa con người và Thiên Chúa.

Trong làn khói mịt mù của môi trường mang tính đa-nguyên chuyên chạy theo các khuynh hướng có nền tảng triết lý trổi vượt, thì mọi người lại chỉ công nhận mỗi yếu tố khách quan, mà thôi. Và rồi ra, cũng chẳng mấy ai đoái hoài đến thần-linh ngẫu tượng như thế nữa. Phần đông mọi người đều quả quyết: mình thuộc loại “dốt đặc cán mai”, chẳng biết gì nhiều về chuyện thần thánh linh thiêng. Nhiều nơi, thậm chí còn duy trì đủ mọi di hài/thánh tích và lăng tẩm dành cho thần vô danh để sau còn cậy trông nhờ vả. Và, nhiều vị ở nơi đó, lại cũng đồng thuận cho rằng: mãi đến lúc đó, thần-linh “đích thực” vẫn là các vị thần-thiêng thánh-hoá vẫn xuất hiện nơi tăm tối, không ai biết đến.

Thành thử, đọc Công Vụ, điều cần là: ta phải nhận ra rằng đã xảy ra sự kiện, là: bà con lúc đó không còn để mắt quan tâm xem thánh Phaolô có còn giảng giải điều gì mới lạ cho dân ngoại nữa hay không, để họ còn tìm tòi và học hỏi. Và dân ngoại đây, tức: cử toạ đang sống ngoài luồng, cũng khá đông. Về sau, khi được đọc trước-tác của thánh Luca, hồi đầu thế kỷ thứ hai, người đọc mới nhận ra rằng: thánh-nhân cũng đã đem lại cho người đọc một cơ hội mục vụ lâu nay vẫn do đám thức-giả người Hy Lạp đảm trách, và đa số các vị như thế thường chỉ sống ở Athens thôi. Mặt khác, vẫn còn nhiều rào cản to đùng từng che khuất/cản ngăn nhiều người đến nơi đó ngõ hầu nghe thánh Phaolô giảng giải, dù họ có khôn ngoan/thông thái mấy đi nữa, họ vẫn không tin vào lời dạy của Phúc Âm, do thánh-nhân mang đến.

Lúc đó, lại thấy dấy lên các vấn đề về “minh giáo” và về việc quảng bá Phúc âm cho mọi người. Hệt như thánh Luca có lần từng nhận định: các thừa sai trong Đạo đều, cùng một lúc, làm những hai việc: thứ nhất là cương quyết cải hoá những nguời lâu nay chỉ biết sùng bái các tượng thần; và việc thứ hai, là làm sao đem những người này về với niềm tin vẫn quyết rằng: Đức Giêsu Kitô, Ngài đã Phục sinh/trỗi dậy; và, Ngài sẽ phân xử/quản cai toàn thể thế giới, trong mai ngày. Để làm việc đó, các thừa sai phải thuyết phục mọi người về học thuyết chỉ có một vị thần duy nhất trên thế gian, mà thôi. Trên nguyên tắc, thời đó cũng như vào mọi thời, ai cũng có được nhận thức chứng tỏ mình chỉ nên tin vào một thần duy nhất, nếu biết ngang qua nền thần học tự nhiên, chuyên chính. Nhưng lúc đó, lại thấy nảy sinh vấn nạn hỏi rằng: các thừa sai phải sử dụng nền thần học tự nhiên đến thế nào mới được coi như mình đã đạt ngưỡng cửa của Phúc Âm? Điều gì là cần thiết cho việc giảng rao sau này về Đức Chúa-Phục-sinh, Đấng đã trỗi dậy? Nói cách khác, nên chăng bỏ qua một bên những gì không cần thiết, để nhận thức? Và, có nên nói thẳng và nói thật mọi điều mà chẳng cần lý sự gì nhiều về niềm tin vào Đức Chúa Phục sinh, nay mai một?

Cũng nên nhớ, đây là vấn đề gai góc đối với tín-hữu thời tiên-khởi ngay từ thế kỷ thứ hai, sau Công nguyên. Nói như thế, không phải để đề ra bất cứ vấn nạn nào về tính-cách lịch-sử ở thánh Phaolô, tông đồ. Bởi, nếu thánh-nhân từng sử dụng nền thần học tự nhiên để minh chứng điều mình giảng giải, hẳn là ông cũng phải thuyết phục cho bằng được cộng đồng nhân-loại rất tội lỗi về tính chất đầy lỗi tội của con người. Và đó là điều mà thánh Phaolô từng nói đến ngay phần đầu của thư Rôma. Nhưng ở đây, ta đang đọc giòng chảy của thánh Luca, chứ không phải là đang nghe thánh Phaolô nói chuyện hoặc giảng giải về thần học. Riêng thánh Luca lại đã sử dụng cảnh trí đặc biệt có tấm kích rất kịch-tính được dàn dựng để nói về đề tài có liên quan đến việc bảo vệ nền thần học minh giáo.

Theo sách Công vụ, thì: ở Athens, thánh Phaolô lập tức rơi vào mối hiểm nguy dễ dính líu vào với lập trường/quan điểm của nhà hiền triết Socratès. Và, xem ra bậc “hiền triết” nói trên lại những muốn vinh thăng chỉ các thần linh mới mẻ/ngoài luồng, mà thôi. Trong khi đó, thánh Phaolô cũng đã giải toả được cáo buộc của người dân thành Athens bằng cách trông nhờ vào các khuyến dụ mang tính châm ngôn của dân thành, mình đang tiếp xúc. Nói khác đi, thánh nhân đã nhờ vào sự “ngu dốt”, “chẳng biết gì” về thần linh của người ở đây vốn dĩ vẫn coi mọi sự như một lựa chọn pháp lý từng được nhiều người ở đó tôn trọng và gìn giữ. Bởi thế nên, người dân ở Athens bèn phải nghĩ đến việc lập ra nhiều lăng tẩm chứa đựng đủ mọi loại di hài/thánh tích cho Thần Vô Danh, không ai biết.

Thánh Phaolô từng quả quyết: Thiên Chúa là Đấng tự giới thiệu về Ngài cho mọi người biết. Ngài là Đức Chúa, Đấng cao cả hơn mọi thần mà mọi người vẫn thờ kính. Cho đến nay, điều này cũng rất tốt. Thế nhưng, trên căn bản giới thiệu và dẫn nhập, thánh Phaolô lại tiến bước thêm vào trọng điểm Phục Sinh của Đức Giêsu, là Đấng mà họ từng quay lưng bỏ đi, không còn muốn nghe ai trần tình điều gì nữa. Những người này, phần đông không cáo buộc thánh Phaolô chuyện gì và cũng chẳng làm tình làm tội ông về bất cứ sai sót nào khác nữa. Nhưng, họ vẫn gay gắt với thánh-nhân và đôi lúc còn gọi thánh-nhân là người “bép xép”, “kích bốc” hoặc “con chim mồi ăn lá non” (người Hy Lạp lại dùng cụm từ Spermologos để chỉ về những việc như thế). Và đặc biệt, họ còn khôi hài dùng lời lẽ của thánh-nhân khi ông nói về Phục sinh, làm thế cốt để biến nó thành trò cười cho thiên hạ; và họ dùng âm-vận tiếng Hy Lạp ở cụm từ “anastasis” giống như tên gọi của nữ-phụ nào đó có âm vang nghe như một Anastasia, rất cắc cớ. Hoặc, lấy trường hợp của phu nhân vị thần nào đó rất mới lạ, rồi gán ghép cho Thần-chủ của mình là Giêsu Đức Chúa Đấng đã Sống Lại từ cõi chết. Thật sự, họ chẳng muốn tìm hiểu thêm điều gì về vị Thần-Chủ từng nâng nhấc con người khỏi sự chết; hoặc, về Đấng đã trỗi dậy từ cõi chết. Kết cuộc là, thánh Phaolô chẳng nói thêm điều gì cho họ và với họ. Và, một kết quả khác nữa là: thánh-nhân lại phải tiến thêm bước nữa để về với kinh thành Côrinthô, vùng đất cũng không gần gũi cho lắm. Ở Côrinthô, thánh-nhân không mấy ưu tư/quan ngại về các chi tiết được cãi tranh ở nền thần-học, hoặc triết-lý. Nói theo cung cách nào đó, thì những người như đám du thử du thực chuyên đứng đầu đường xó chợ hoặc những người mà thời nay ta lại dám bảo họ là đám “gái gọi” ở Côrinthô, được nghe nhiều/biết nhiều nhất về lời giảng rao mục vụ của thánh Phaolô hơn ai khác…

---------------------

Xem thế thì, những gì thánh Phaolô đem đến cho dân thành Athens, chỉ là niềm tin, chứ không phải mớ lý thuyết suông, trống rỗng, tồi tệ. Thánh-nhân muốn cho dân thành này có được cùng một trải nghiệm về “con đường Đamát” như ông từng gặp vào thời trước; cũng không phải là cứ tàn tàn tản bộ bên ngoài các hiệu tiệm ở Agôra. Niềm tin đích thực, là sự đối đầu cách sinh động với Đức Chúa Phục Sinh, chứ không bao giờ là mớ tư tưởng mới lạ này khác, về tôn giáo. Thánh Phaolô những muốn rằng: Đức Giêsu đã Phục sinh trỗi dậy và Ngài sẽ trỗi dậy bên trong con người như thế, ở khắp chốn. Lý do là vì họ vẫn chưa có được niềm tin vững chãi đến như thế. Truyện kể về thánh Phaolô ở Athens là bài học về ý nghĩa đích đáng của niềm tin đích thực đối với Đức Chúa Phục sinh, rất Giêsu Kitô.

Quả thật, niềm tin không là động thái vẫn tán-thành đề nghị nào đó rất u uất, mà là quyết tâm sẽ “một sống một còn” cho chương trình hoặc lý tưởng nào đó. Chương trình ấy, lý tưởng này không chỉ tóm gọn vào bất cứ đề nghị nào hết. Niềm tin, cũng không là sự đồng thuận với sự kiện hiện hữu nào đó, giống thế. Niềm tin, chính là lối sống trọn vẹn có quyết tâm ngang qua tiến trình tương-tác hoặc hỗ-tương với những người cùng muốn sẻ san nỗi niềm tin tưởng mà mình nhận lãnh. Đó là khởi điểm của một cách sống đã trở thành hiện-thực nhờ vào loại hình tương quan rất mới mẻ.

Niềm tin, không là cung cách hiểu biết duy nhất chỉ có một hay nhiều sự việc. Điều cần thiết ở đây, có lẽ là: ta nên gỡ bỏ kinh-nghiệm từng-trải về tin-tưởng (tức niềm tin) ra khỏi lĩnh vực nhận thức, có hiểu biết. Tin, tuyệt nhiên không là tầm hiểu biết hoặc nhận thức nào đó rất hữu hiệu. Niềm tin không bị định đoạt do bởi những gì đã tin-tưởng là có hoặc có được nó do ngôn-từ/lời lẽ mọi người bàn về điều gì cần thiết. Tin, cũng không là sự việc giúp ta nhìn vào những gì thoạt xem ta có thể tin được. Tin, cũng không tuỳ thuộc vào những gì có liên quan đến nội dung mình tin tưởng. Niềm tin, không thể giống như định-nghĩa ở sách vở chuyên giúp ta đi đến minh-xác thế nào là tin tưởng. Minh xác, không theo cách trực tiếp, cấp-bách tuỳ “đối tượng” vốn được coi như khả năng diễn-bày như của ngành khoa-học thực-nghiệm. Tin ở đây, cũng không do kết quả của văn-bản từng cắt nghĩa nhiều điều để mình tin. Niềm tin ấy, dù được diễn tả như thế nào chăng nữa, thì người người đều có thể nói: niềm tin, thực ra không phải thế. Quả là, không có tính cách khách quan của “nhân-vật thứ ba” trong đó, tức có tin. Cũng không có nối-kết trực-tiếp nào vào sự việc “có thật”. Thật sự, thì: Đấng được mọi người tin tưởng, đã không diễn tả niềm tin vào Ngài một cách thấu đáo, ít là bằng phương tiện tích cực. Đúng hơn, mọi cố gắng quyết thực hiện cho bằng được như phải vứt bỏ đi động-thái đích-thực để mình tin như thế nào. Bỏ, luôn cả nỗi ao ước biết được những gì mình không có được trong tay hoặc không thể biết hết mọi sự; hoặc, vì đã vắng mặt hoặc do người khác đem đến; tức: những người đầu tiên không trở thành “nhân vật thứ ba”, hoặc do thiếu sót cả sự hiện diện rất hữu hiệu, nữa. Thế nên, khi được kêu mời hãy chứng tỏ rằng: tin, tức là ta được mời gọi dính-dự vào với ai đó đang hiện hữu theo cung cách mà ta chưa “biết” và sẽ không bao giờ “biết” đến hoặc lý giải được.

Tin, là phương cách rất khác biệt để ta thành người. Là, sự việc rất thực-tiễn trong nghệ thuật sống, cũng rất khác. Tin, làm cho người đang tin tưởng có được khả năng biết đón-nhận trật tự hiện-hữu cách khác biệt, làm cho chủ-thể có được sự tự-do sống với trật-tự mới, rất như thế.

Tin, giống như những người đương yêu và yêu đương rất mực. Và, tin còn có nghĩa: nguyện cầu, khẩn thiết và “nói với” chứ không “nói về” hoặc “nói đến”. Tin, là đáp-ứng với việc mình từng nghe biết có chất giọng, chứ không cam kết hoặc nói năng gì hết. Tin, là thứ gì đó thực sự đang ở mức thăng/trầm về điều mà mọi người vẫn đang tin. Tin, là nghệ thuật rất mới giúp ta nghe ngóng; “nói với” theo ý nghĩa đích thực. Tin, là di dời về nơi nào đó có người chuyển dời biết rõ chốn miền mình đạt được.

Tin, là ngôn ngữ của những mất mát có tính sở-hữu chứ không là sở-hữu-chủ của mọi thứ. Với những trải nghiệm về niềm tin ta có mà ở đó, lại đã nhận thức rằng: người có niềm tin vững chãi cũng sẽ hiểu được rằng: hành động “tin tưởng” của mình được người khác (tức những người cùng tin với mình) đã công nhận những chuyện như thế. Và như thế, toàn thể mọi người lại sẽ tham gia cộng-đoàn gồm những người đồng lòng, cùng tin tưởng.

Niềm tin, bao gồm một quyết tâm mang tính linh-đạo ngõ hầu đi vào chốn bi-thảm trong cuộc sống con người. Tin, là biết rõ: cuối cùng rồi ra, cũng chẳng có gì là bi đát. Hãy cứ để quyền-uy sức mạnh của Đức Chúa Phục sinh sờ chạm vào những gì bi thảm mà mình đã gặp. Hãy để Đức Chúa Phục Sinh đến tận bên trong con nguời mình, rồi sẽ tin.

Niềm tin đây, có thể vẫn còn đó nhiều yếu điểm. Yếu điểm hoặc điểm rất yếu, vẫn nằm ở đặc trưng/đặc thù của nó. Nhưng, tin không là sự yếu kém trong biến-hoá đi từ ký-thác rồi sẽ đi đến nhận thức. Tin, không là lập trường/quan điểm của riêng ai, nhưng dù có yếu kém ở bên trong con người mình mà không bị bất cứ thứ gì lướt thắng nó. Niềm tin, ra như đón nhận điều gì khác biệt hơn là hiệu-quả tích-cực của chính mình. Yếu kém, là dấu ấn cùng con niêm của sự việc dám chấp nhận chịu để cho người khác đóng đinh mình vào thập giá còn lưu lại nơi người trỗi dậy, khỏi nỗi chết.

Cuối cùng, thì: sự thể về dân thành Athens không đạt đến niềm tin vào Đức Chúa Phục Sinh, một chút nào hết, đã làm thánh Phaolô biết được là mình đã thất bại. Nhưng, Côrinthô thì khác. Niềm tin của người Côrinthô, lại đạt đến đối-tượng nhận-lãnh dù khi trước họ vẫn không muốn được như thế.

Thư Côrinthô số 1

Đến đây, tưởng cũng nên xét kỹ hơn về văn hoá của dân con thành Côrinthô. Họ đâu có là người gốc Do thái đâu . Và, ơn cứu độ mà người Do thái có được là nhờ Thiên Chúa can thiệp coi đó như chóp đỉnh lịch sử của mối tương quan giữa Ngài và dân con được chọn, thôi. Trong khi đó, Côrinthô lại là môi trường của dân con ngoại Đạo. Nên, ơn cứu độ chỉ đến với cá nhân mỗi người qua quan hệ mật thiết với ngẫu thần nào đó đã thuần phục và sẻ san thân phận bí nhiệm của họ. Điều này cắt nghĩa tại sao dân thành này lại có đến hai trạng thái tâm tình vừa phấn chấn vừa lãnh đạm do chủ nghĩa cá nhân tạo thành. Nói cho cùng, thần tính của họ đã được cứu rỗi, nhưng xác phàm lại không được chú tâm. Họ thực thi mọi mệnh lệnh để đưa vào với “bí nhiệm của phụng thờ sùng bái” sau khi được thánh Phaolô khai tâm mở trí. Họ cũng có đảng phái chính trị, vẫn thường kết nối với các lối giải thích khác nhau về những bí nhiệm của việc phụng thờ, sùng bái thần linh.        

 

Thánh Phaolô từng nói cho người dân ở đây biết về quá trình ngoại đạo của họ, nhưng ông vẫn giữ tâm trạng hạ xuống thấp niềm phấn chấn khi xưa vẫn có, để tỏ bày niềm ưu tư nối kết với Đức Kitô, Đấng chấp nhận đóng đinh vào thập giá để thánh-nhân đi vào con đường có thập tự bằng tinh thần vâng phục cao hơn, ngõ hầu lĩnh nhận ơn cứu độ trọn vẹn cho thân xác yếu hèn đã phục sinh.

 

Người dân ở đây thắc mắc nhiều về tính dâm đãng, cùng lối sùng bái ngẫu thần và ân huệ thu hút người nghe cũng như bản chất của thân xác ngang qua phục sinh/trỗi dậy. Họ gửi đến thánh Phaolô một danh sách có ghi đầy đủ những thắc mắc/vấn nạn về thế thái nhân tình ở Côrinthô vào lúc thánh-nhân lưu lại tại Êphêsô giữa thập niên ’50, sau Công nguyên. Thánh Phaolô, khi đó, đã có thư hồi đáp cho họ sau khi ông rời trại giam nơi đây –và việc này xảy đến sau thời gian ông viết bức thư nổi tiếng gửi giáo đoàn Philípphê.

 

Một trong các lập luận biện chứng mà ông đã có về cộng đoàn Côrinthô là để xem người dân ở đây sinh hoạt tụ tập ra sao, vào buổi Tiệc Thánh. Thoạt nhìn, nhiều người nhận ra rằng: thành-viên cộng đoàn này vẫn đang lẩn quẩn ở đâu đó, không nhất định. Chừng như, họ chỉ muốn tổ chức các buổi họp mặt theo thể thức chỉ thế thôi, tức: vẫn thực hiện cùng một kiểu, làm cùng một thời như mọi người. Trong khi đó, thánh Phaolô lại muốn họ tuân thủ lề lối có hơi khác. Nhưng, ở đây, có lẽ cũng nên đặt vấn đề hỏi rằng: cuối cùng thì ai là người giành được thắng lợi? Câu trả lời: dĩ nhiên, người đó không thể nào là Phaolô thánh-nhân được. Làm sao ông lại có thể vượt thắng những người cứng đầu cứng cổ như dân con thành Côrinthô được như thế.

 

Với thánh Phaolô, tham dự Tiệc Thánh là cốt để tín hữu mình đến với nhau mà tưởng nhớ và thực hiện buổi tiệc họp mặt cùng với Chúa và có Chúa hiện diện ở với mình. Một số chức sắc có thẩm quyền trong cộng đoàn, là những người đăng cai tổ chức các buổi tụ tập ở “căn-nhà-nguyện-đường” của ai đó, cho thích hợp. Cung cách họ thực hiện buổi Tiệc Thánh cũng hệt như mọi bữa tiệc khác, tức: do các đấng bảo trợ người Hy Lạp hoặc La Mã vời họ đến. Nghĩa là, vẫn thừa-mứa đủ mọi thứ từ của ăn cho đến thức uống, nhưng trên thực tế, họ lại làm theo hai cách thế rất khác biệt. Cách thứ nhất, giống hệt như mọi buổi tiệc khác là: mọi người mang đồ mình nấu nướng đến nơi họp, rồi kéo nhau ra một góc nào đó mà thưởng lãm theo nhóm của mình. Cách thứ hai, là thực hiện theo kiểu bữa Tiệc Ly có Chúa chủ trì, tức: sẻ san hết mọi thứ, cho mọi người. Cách này thích hợp với cung cách tạo dựng cũng rất mới. Thật cũng dễ đoán được tâm tình của thánh Phaolô vào các buổi như thế; nhưng, do tính “yếu kém” rất mới mẻ của mình, thánh-nhân lại không thể đưa ra lập trường tư riêng của ông, nên ông đành phải nhượng bộ. Vì thế nên, ông đã yêu cầu các vị nào có khả năng hoặc khá giả, nếu được, hãy ăn uống trước ở nhà rồi hẵng đến. Và cứ thế, thánh-nhân còn đề nghị với tất cả mọi người có mặt ở buổi Tiệc, hãy bẻ bánh vào lúc sớm và sau đó, trong lúc ăn, hãy chuyền thức uống cho các nhóm nhỏ hoặc cho mọi người, có mặt ở buổi Tiệc.   

 

Một lập-luận thường gây tranh chấp khác nữa, là về tình dục và quan-hệ dục-tính giữa nam/nữ. Bằng vào truyền thống của người Do thái và của riêng ông có thị kiến sống động, thánh Phaolô chủ trương nam nữ phụ-thuộc vào nhau chứ không chỉ sinh hoạt một chiều. Và lập trường này xuất phát từ việc nam nhân phối kết với nữ giới. Theo tôi, thánh Phaolô tiến xa/tiến mạnh hơn cả nền thần học phổ thông của người Do thái về vấn đề này, nữa. Ông đã nhận thức sự việc là nam-nhân cũng như nữ giới phải phụ thuộc lẫn nhau bằng hôn nhân phối kết tựa hồ động thái hiệp thông kết-hợp giữa các đối tác qua đó sự việc phục sinh/trỗi dậy rất mỏng mảnh là do ở người thuộc phía bên kia. Ông nhận thấy “đối tác” phía bên kia, không là ai khác nhưng cả hai đã “nên một” với Đấng đã trỗi dậy như họ, và trong họ. Có lẽ việc đó còn hơn cả chuyện trở thành người dân thành Côrinthô, cũng rất rõ. Thánh Phaolô không thể là người thắng cuộc được, dù ta có diễn giải sự việc theo cung cách của tín hữu Đức Kitô tốt đẹp đến thế nào đi nữa, ông vẫn là người thất bại ê chề do có hiểu lầm và sai sót trong nhận định từ phía người Côrinthô.   

 

Ở đây nữa, ý niệm về cộng đoàn nay đã đổi thay cũng rất nhiều. Nói nôm na, thì mẫu mã/hình thái của người La Mã là ý niệm chủ chốt về cộng đoàn từng kéo theo nhiều dị biệt cũng như sự bất bình đẳng và cạnh tranh giành phần thắng lợi về cho mình; trong khi đó, loại hình cộng-đoàn do thánh Phaolô thiết lập là cộng đoàn mang tính “trút sạch”/trống rỗng lại dẫn đến động thái công bằng và hợp tác. Đặc biệt hơn, đây là động-thái tạo sự đối thoại với người dân thành Côrinthô mà thánh nhân chủ trương phải đi xa hơn cả vào khi ông bị giam giữ tại trại tù ở Êphêsô lúc đó ông cũng suy tư theo cung cách đặc trưng có hiểu biết, rất lý lẽ về công việc của Chúa tác động lên thế giới gian trần.

 

Trong khi đó, người La Mã chỉ muốn tập trung tư-duy vào những gì thuộc về con người, của con người; hoặc nhiều lắm, họ cũng chỉ quan tâm/để ý đến những gì là con người với tư cách xác thịt mà thôi, tức: về sự việc thông thường của văn minh nhân loại, vào thời đó. Người La Mã chỉ đặt ưu tiên vào các suy tính khôn khéo và về con người khôn lanh/linh lợi, ưu tiên cho thực quyền và những kẻ ỷ rằng mình có quyền, ưu tiên cho sức mạnh và người cường tráng. Còn, thánh Phaolô lại khác, ông chỉ tập trung suy nghĩ vào sự khùng điên/rồ dại, vào chính sự yếu kém cũng như kẻ yếu hèn, trong đó có chính ông.

 

Bốn chương đầu của thư thứ nhất gửi con dân thành Côronthô cũng tựa hồ như một bài bình luận rất dài để bàn về những gì được ghi trong thư Philípphê ở đoạn 2 câu 6-11. Chính đó, là tiến trình “trút sạch” thành hư luống của Thiên Chúa là Cha Đức Kitô và là tiến trình phục sinh/trỗi dậy nói chung, từng kích bốc đặt nặng việc sử dụng sự yếu kém cho mục đích giống như thế. Dĩ nhiên, sự việc ấy dù sao cũng mang tính cách ít bi đát hơn là việc đóng đinh vào thập giá; bởi, đây là khả năng đã suy yếu khi phải đối đầu giải quyết những chuyện thường ngày. Và đây còn là “tiến trinh” rất phục sinh. Lại nữa, ngay như thư thứ hai Côrinthô đoạn 11 câu 22-33, thánh Phaolô còn đi đến chuyện khuấy động sự yếu kém cả cho chính ông, tận bên trong con người mình.

 

Họ là người phục vụ Đức Kitô ư? Tôi nói như người điên: tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh! Có ai yếu kém mà tôi lại không cảm thấy mình yếu kém? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên sùng sục không?


Nếu phải tự hào, thì tôi sẽ tự hào về những yếu kém của tôi. Thiên Chúa, Đấng đáng chúc tụng muôn đời, là Cha của Đức Giêsu, biết rằng tôi không nói dối. Tại Đamát, tổng đốc của vua Arêta đã cho lính canh gác thành để bắt tôi. Nhưng người ta đã cho tôi vào một cái thúng, rồi thòng qua cửa sổ dọc theo tường thành. Thế là tôi thoát khỏi tay ông.”

(2Cor 11: 23-33)

 

Thánh Phaolô nhất quyết kiến tạo sự sống rất phục sinh cho chính mình và ông vẫn tự coi mình là đồ đệ hăng say/nhiệt nồng của Đức Chúa, bởi ông biết rõ mình là như thế. Và, người Côrinthô không thể khuynh loát lợi dụng câu nào, chữ nào của ông hết. Ông bắt đầu nói lên sự thật, để bảo họ: “Kìa! Đã bao lần tôi loanh quanh luẩn quẩn bên cạnh các cạm bẫy đặt để cho tôi. Chỗ nào, tôi cũng làm thế, và bà con cũng nên làm theo kiểu của tôi đi là vừa - bởi đó chính là cung cách đích thực mà người con của Đức Chúa rất nên làm.” Thế nhưng, những người nghe ông nói, họ đâu có làm theo lời ông khuyên, bởi họ không thể chấp nhận những lời lẽ như thế được. Kịp lúc ấy, ông lại nói:“Tôi từng ghi thư cho bà con rất nhiều lần và gửi cho các nơi khác nữa; và này! bà con hãy cứ xem các thư do tôi viết, bà con sẽ thấy những điều tôi đề nghị với mọi người.”

 

Hệt như thế, dân con thành Côrinthô chẳng buồn tin vào những lời tựa hồ như thế, nữa. Kết cuộc, là thánh Phaolô phải thực hiện vai trò của người chuyên cảm kích/khích lệ chứ không là kiểm soát viên của ai, cho ai. Ông có thể khuất phục họ từ khoảng cách nào đó cũng khá xa, bởi ông viết thư này là viết từ Êphêsô rồi gửi về cho người dân thành Côrinthô, ngay tức thì. Cả vào lúc cãi vã/biện luận với họ cũng thế, khi đó ông đâu có lưu lại tại Côrinthô, đâu. Sau bao lần nhượng bộ đến độ như “xuống nước”, thế mà họ vẫn không tin vào điều ông trần tình đến độ cứ để mọi chuyện đổ lên trên người ông. Thành thử, khi đã nhượng bộ cả đường lối suy tư/xét đoán tốt đẹp là thế rồi, thông thường làm được chuyện này cũng là điều phải lẽ, nhưng ông chẳng thực hiện được đường lối do mình chủ trương như dạo trước. Đó chính là cách diễn tả động lực phục sinh/trỗi dậy ngay bên trong con người mình. Nay, thì ông không còn ưa thích những kiểu cách như thế nữa.                

 

Có thể, có người lại sẽ bảo: tôi đây, cũng chẳng ưa gì động lực phục sinh với trỗi dậy hết, nhưng chỉ muốn vứt bỏ những thứ đó vào một xó nếu như tôi buộc phải nghe/biết những điều đại loại như vậy. Thế đấy! Dân thành Côrinthô khi xưa cũng từng làm thế với thánh Phaolô, dù đó không là thói quen họ vẫn làm vào dạo trước. Họ chỉ muốn bàn luận điều gì mà họ cho là quan trọng, lớn lao hơn mà thôi. Và, Phaolô thánh-nhân vẫn cứ thua hết thua cuộc này, rồi lại thất thế cả chuyện khác. Quả nhiên, động lực phục sinh/trỗi dậy đã thực sự khiến thánh Phaolô trở thành người thua cuộc tự bẩm sinh. Và đó là bài học quý giá dành để cho ông cách đặc biệt.

 

Bài học đây, không chỉ là lối học bình thưòng, chín chắn của những người từng trải nghiệm qua nhiều năm tháng với ngày giờ. Đó không chỉ đơn thuần là sự tăng trưởng về mặt tâm lý, rất bình thường mà thôi; nhưng theo tôi, đó là cung cách để ông được học và học được những gì khác với điều mình nghĩ: có lẽ ông cũng chẳng bao giờ được học và cần học những điều như thế nữa. Và, điều đó khiến ông suy tư nhiều hơn, chẳng hạn như có lần ông từng nói: “Lâu nay, chẳng phải là tôi từng nói cho mọi người biết hết mọi sự sao? Và, chẳng phải là tôi đã kể cho mọi người nghe làm sao, biết thế nào, chứ?” Và từ đó, nó bắt đầu hiển hiện trước mắt ông ngày càng giống như lý thuyết rất tốt đẹp, nhưng không bao giờ là thực tại hiển hiện trước mắt ông. Thế rồi, ông lại đã loanh quanh nói nhiều hơn nữa về thực tại rất rõ ràng. Đồng thời, ông lại cũng đi đến trạng thái bớt đi việc áp đặt nó lên mọi người và nói cho họ biết thực tại ấy hiện thực đến thế nào đối với ông. Và chung cuộc, là ta cũng đã thấy đôi chút về con người của ông ngày càng tốt đẹp hơn.

 

Ở phần cuối thư thứ nhất Côrinthô, nhất là chương 13 và thư thứ hai Côrinthô, đặc biệt ở cuối thư, thánh Phaolô lại đã tìm cách nhè nhẹ đưa điều này vào khuôn khổ của công việc mà ông từng sử dụng. Ông có nói: “Phục sinh nói chung ư? Vâng, đúng thế. Và đó chính là phần dạo đầu để đi đến một đổi thay cuối cùng về thế giới bạo tàn này, theo cung cách rất chính trị. Vâng. Cuối cùng rồi thì sự thay đổi toàn bộ thế giới gian trần cũng sẽ làm cho mọi người kết hợp hài hoà mà thương yêu nhau, để rồi sẽ có buổi tiệc cánh chung với đủ mọi thực khách cùng đến với nhau mà thưởng lãm. Quả thật rất đúng. Tôi có được điều đó là nhờ đã rút tỉa đôi điều từ học thuyết cánh-chung-luận của người Do thái và tôi đưa những chuyện của Đức Giêsu Kitô vào trong đó. Và, đó chính là chủ đích tôi nhắm đến.” Thế nhưng, nay ông lại nói: “Bà con biết đấy. Những gì sẽ xảy đến, khi toàn bộ việc chữa lành toàn thể vũ trụ nhân trần đã hiển hiện, thì tất cả sự việc xảy đến lúc đó sẽ chỉ duy nhất nói lên có một lời. Và, lời đó là: Tình yêu, thôi”

 

Ông còn đưa vào cụm từ “Tình yêu”, nhiều sắc thái và chiều sâu mà theo tôi nghĩ ông chưa từng thấy được vào lúc trước. Đó đích thực là Tình yêu theo cung cách rất mới. Thứ tình không chứa chấp bạo lực hoặc động thái khống chế. Tình yêu đây, không là lối yêu đương theo kiểu dục vọng như của người dân thành Côrinthô. Và, cũng không là lối thương yêu theo cảm-nghiệm thiêng liêng đầy tính xuất-thần của Artêmi. Đó là Tình yêu mà ông hướng đến; hướng một cách chậm rãi nhưng dồi dào/sung mãn, vuợt khỏi kinh nghiệm mà họ không chịu lắng nghe, và cũng phải nhượng bộ những thứ cần thiết, như những kẻ khờ dại từng có cảm xúc yếu kém, rồ dại khổ đau vì hư luống, “trút sạch”. Từ đó, ông gặp được tình yêu theo kiểu cách mà trước đó có lẽ ông đã không muốn thực hiện. Phải chăng đó là tình yêu thương con người? Đúng thế. Phải chăng đó là Tình yêu của Thiên Chúa? Vâng, tôi vẫn nghĩ như vậy. Thế nhưng, sau một thời gian ngắn, thánh Phaolô lại nghĩ Thiên Chúa cũng là Đấng dại khờ giống như ông. Và, Ngài cũng thực hiện tình yêu điên dại như ông đang thực hiện, ở đây. Ngay lúc này. Nhưng, dứt khoát đó là cuộc vận động nơi thánh Phaolô, và đó là tất cả sự nhỏ bé có ở nơi ông, nếu ta dùng lối nói như thế để tiến bước về phía trước hoặc mường tượng về thể loại yêu thương mình phải có ở mọi nơi, trước khi vũ trụ phàm trần vui lòng mặc lấy nó. Và thánh Phaolô cũng thừa biết là mọi sự sẽ không thể thành tựu được nếu tình thương yêu này chưa hiển hiện với mọi người. Tôi nghĩ: đó chính là tâm trạng rất khác biệt nay hiện rõ tận bên trong con người của ông.

 

Thế nhưng, ngay lúc đó, ông lại đã nhận ra rằng bước tiến mà ông thực hiện việc dấn thân và tầm kích của sự lặng êm ông đang sờ chạm là yếu điểm rất không ngờ, và cũng chẳng mời mọc dân con trong thành đi vào với tình thương yêu tối thượng là hiệu quả cho thấy Thiên Chúa đang hoạt động. Và tên gọi ông đặt cho hoạt động tối thượng này là Thần Khí. Thần Khí đây, không nên hiểu theo nghĩa Ngôi Ba ở Ba Ngôi Thiên Chúa. Và cũng chẳng là Thần khí do Chúa định liệu, chút nào hết. Cũng không hẳn là Thần Khí Chúa đến vào Lễ Ngũ Tuần theo ngôn từ được thánh Luca diễn tả. Ở đây, thánh Phaolô đã thực sự nối kết cụm từ “thần khí” vào với thứ gì đó để ông có thể đi dần vào sự thể thưa dần và ít dần đi. Và, ông coi đó như điều kiện tiên quyết để ta có thể sờ chạm được những gì là dồi dào, sung mãn. Chính đó là sự việc rất đẹp. Là, thay hình đổi dạng thành tình yêu qua sự “trút sạch” thành hư không, trống rỗng. Đó, còn là đặc tính rất biến thái của ý niệm Tình yêu. Là, sự thể rất dễ nể, đầy quyền thế. Từ hư không, ta sẽ kết thúc với sự thể là “cuối hết”, tức Ômêga. Và, chính nhờ Thần khí nối kết người này với người khác , lấy từ người này đem đến với người khác.

 

Theo tôi, thì đây rõ ràng là cung cách của thánh Phaolô đã đáp ứng lại cảnh tình của dân con thành Côrinthô trong hoàn cảnh rất dị biệt. Chính vì thế, mà nhiều người ở đó cũng chẳng muốn tạo cho mình, tình cảnh đó.

 

Thánh Phaolô cũng tìm cách quảng bá điều đó cho dân thành Athens trên đường đi Côrinthô vào lúc đầu; và, cũng chẳng thấy ai buồn hỏi han hoặc bén mảng gì chuyện này cả. Đó cũng là lý do khiến ông chào thua tại Athens và đã đi về với Côrinthô.

 

Thật sự thì, một số nhân vật cứng rắn tại Côrinthô từng chán ngấy lối cảm nghiệm về sự việc lớn lao chẳng tạo được gì cho mình, đã quyết định là họ có thể quan tâm tìm về với động thái như thế. Chính vì lý do đó, thánh-nhân mới thiết lập cộng đoàn Côrinthô theo kiểu cách của riêng ông. Lúc đó, có đong có đếm cho kỹ cũng chỉ thấy không hơn 50 người hiện diện ở cộng đoàn sở tại.

 

Tác giả Jerome Murphy-O’Connor đã làm một số công việc tuyệt vời rất nhiều năm, để dõi theo và tìm ra danh tánh của các vị được nêu tên trong các thư của thánh Phaolô; và cả đến các gia đình nối kết với các vị này, cuối cùng ông cũng chỉ tìm ra không đầy 50 vị. Và, có lẽ tầm kích cộng đoàn nơi đây cũng chỉ bấy nhiêu, thôi. Có thế, mới hiểu được làm sao cộng đoàn này lại có thể tụ tập ở sau vườn nhà hoặc tại “căn-nhà-nguyện-đường” rộng lớn hơn. Có lẽ vì thế mà cộng đoàn đó chẳng bao giờ cần đến chung cư hoặc biệt thự đặc biệt nào hầu tổ chức các buổi tụ tập nguyện cầu ngay tại chỗ. Có lẽ đó cũng là sự thể nhỏ bé rất đặc trưng từng biến cải con người của thánh Phaolô và cả cộng đoàn ở đây nữa, ngõ hầu có được sự cởi mở độc đáo, đúng yêu cầu. Và, có lẽ cũng chính ông từng định danh sự cởi mở độc đáo này là “tình thương yêu” và đặt tên cho việc vận động chuyển luân từ người này đến người khác là “Thần khí”. Xem thế, thì chính ông đã tạo mẫu mã rất khác biệt cho “cộng đoàn” mình.

 

Ngôn ngữ Hy Lạp có cụm từ “Koinonia” đồng nghĩa với tiếng “communio” tiếng La-tinh để nói lên tinh thần “chung phần hợp tác” dù chỉ một số nhỏ chứ không phải toàn bộ. Chính đó là sự “chung phần” tận bên trong và cũng là “hợp tác” rất sâu thẳm trong tiến trình trọn vẹn. Đó, còn là sự thể để ta đi vào tận bên trong và có được cảm nghiệm về những gì xuất từ phần sâu thẳm, rất “ở trong” ấy. Toàn thể cộng đoàn ở đó, nay bắt đầu nhận ra rằng có thể là họ không làm được gì về chuyện đó, nhưng họ lại đang làm được rất nhiều thứ về chính nó. Ở nơi đây, đã thấy sự triển nở rất lớn mạnh bên trong con người của thánh Phaolô. Nói khác đi, nghĩa là bảo: ta có thể hiểu được rằng: nếu lúc đó, mọi người hiểu được trọn vẹn ý nghĩa của Đạo Chúa, thì có lẽ họ sẽ khuyên: “Hãy quên chuyện ấy đi. Chúng tôi đang có ở trong người những sự việc còn thích thú hơn nhiều.” Quả có thế. Cũng có thể, là thánh Phaolô đã chấp nhận sự thật từ sự việc ấy nhất là vào thời gian ông càng ngày càng thêm tuổi. Và theo tôi, thánh Phaolô đã sờ chạm vào thứ gì đó thực tiễn hơn cả những điều ông từng nói với dân con cộng đoàn và người khác, khi còn trẻ. Nói cách khác, đó là lúc ông có được thuật hùng biện vững chắc và lãng mạn hơn lúc đầu. Và, trong thuật-ngữ phục sinh/trỗi dậy nữa. Càng về già, ông càng thực tế chứ không chỉ lãng mạn, bàn toàn chuyện dưới đất nhiều hơn trên trời, rất lý thuyết.

 

Chính đó là lý do khiến tôi đã nói ở phần đầu, là: theo cung cách rất nghịch thường, thì “Roma” tức “Amor” đọc ngược lại, theo nghĩa rất “yêu đương” của tiếng La-tinh. Văn chương/văn hoá La Mã vẫn quan niệm tình thương yêu rất thiếu sót. Cái hay ở thánh Phaolô, là: ông đã đưa ra loại hình tình yêu tối hậu, không giống mảnh vụn riêng tư của thần tính mà đúng là hệ thống chính trị của riêng ông thay cho hệ thống của La Mã. Ông đề nghị như thế cho thành phố nào của đế quốc La Mã đã “sẵn sàng”. Đây là sự triển nở rất lớn rộng không chỉ với thánh Phaolô thôi, mà còn cho toàn bộ thần học mục vụ của “Hội thánh” theo đúng nghĩa. Xin mở thêm một dấu ngoặc ở đây để ta có thể nhắn với nhau rằng: hãy quên đi những bất đồng nho nhỏ ở Antiôkia giữa thánh Phaolô và thánh Phêrô và Giacôbê khi trước. Bởi, đó chỉ là buổi tập huấn ban đầu về sự sống sau này mà khi đó ông chưa mường tượng ra, thôi.

 

Một trong các chìa khoá chính của lập trường này, là ở chương 2 thư Philípphê mà tôi vừa đọc đoạn diễn giải từ thư thứ nhất Côrinthô chương 1-4, là như thế. Ở đây, tôi cũng xin nói thêm một điều này, là: ta có thể thêm những điểm như thế vào thư thứ nhất Côrinthô ở chương 13 cũng là chương đề cao tình yêu, và lòng mến agapè như ca vịnh để tuyên dương/đề xuất. Và, nếu muốn đi sâu hơn vào thư thứ 2 Côrinthô ở đoạn 5, ta sẽ thấy được tất cả đã bao hàm cách tuyệt vời mọi công tác ở đó. Đấy là lý do khiến tôi bắt đầu bằng thư Philípphê trước đã, sau đó mới xét đến thư Côrinthô. Theo dõi chuyện này, ta còn thấy nhiều điều hơn thế. Và đây nữa, vẫn là cung cách diễn tả cách tốt nhất về cảm nghiệm gọi là con đường Đamát, là như thế.

 

Cũng trong khuôn khổ triển khai tình tự ấy, quan điểm của thánh Phaolô về phục sinh còn ghi đậm chiều sâu hơn thế nữa. Nói cách khác, dân con thành Côrinthô của thánh-nhân, nói theo triết lý, thì họ đều là những người theo triết thuyết Plato cũng sâu sắc. Có thể, những người như thế đều đã chấp nhận sự bất tử của thần tính rất linh hồn. Thế nên, khi thánh Phaolô đề cập đến việc phục sinh/trỗi dậy của thân xác, họ lại cho đó chỉ là chuyện tầm phào, vớ vẩn. “Bề ngoài” của Đức Kitô Phục sinh có thể cũng không thích hợp với họ cho lắm. Vì thế nên, thánh Phaolô mới tạo thêm sắc thái cho tư tưởng của ông. Ông bắt đầu bằng việc nói rất rộng về tiến trình phục sinh rất chung chung như một bản dạo đầu cho công cuộc biến đổi chung cuộc của toàn thế giới, đi vào tình trạng gọi là Omega, rất “cuối hết”. Xem thế thì, đã có sự công bằng chính trực cho tất cả mọi người, ở dưới thế cũng như ở nơi cao vời vợi ấy. Và thánh nhân cứ thế nhấn mạnh điều này, là tiến trình phục sinh rất chung nay đã khởi sự lớn mạnh rộng khắp. Và Thiên Chúa, ngang qua Đức Giêsu Kitô rất sống động ở trong ta, và cả nơi đặc tính yếu kém của ta nữa, cuối cùng cũng đã rửa sạch được chuyện bê tha/\ tồi tệ, của thế giới. Đức Giêsu và cả chúng ta nữa, là thân mình của Thiên Chúa, đều ở trong thân mình có Thần khí Chúa tác tạo ra uy lực ở đây, ngay bây giờ. Bằng vào tư tưởng này, thánh Phaolô muốn nói đến thân mình thực tế rất “yếu kém” của ta được Thần khí biến đổi để trở thành sự thể đích thực trong thân mình rất chính trị, thời hiện tại, nhất là khi ta sống hiệp thông san sẻ Tiệc Thánh đích thực. Và, thánh Phaolô còn đi xa hơn nữa bằng cách đề ra lập trường tư tưởng bảo rằng: không phải cái chết thể xác hoặc sinh lý cuối cùng sẽ thắng thế, mà là bạo lực, chí ít là cái chết rất bạo tàn để cuối cùng các vị tử đạo đều được xác nhận qua sự công bằng của Thiên Chúa. Và, đó mới là sự yếu kém của chúng ta.

 

Ở đây, nhiều người vẫn cố gắng đi tìm diện mạo tâm lý của thánh Phaolô. Trái lại, tác giả Murphy O’Connor lại đã có một số nhận xét về điều đó. Ông từng nói: ngôn từ mỉa mai/châm biếm của thánh Phaolô về Côrinthô và cả chuyện thánh nhân từng giận hờn/cau có này khác đều là chuyện bên lề, mà thôi. Sự thể về ông lại cứ hành xử theo cung cách của chính trị gia vui tính hoặc ngay cả đến tâm tính phẫn nộ/thiếu kềm chế đã khiến ông sai trệch một đôi lúc. Tác giả đây, không nghĩ rằng thánh-nhân đã bỏ phí thì giờ để cứ phải đề cập đến tư tưởng của mình về các ý niệm triết học, và ông đã để chuyện ấy chuyển sang cho Apôllô, người đệ tử rất mẫn cán của chính ông.

Thư Côrinthô số 2

 

Cộng đoàn Côrinthô chưa bao giờ là cộng đoàn dễ ưa hoặc dễ chịu cả. Tất cả mọi rẽ chia, đối nghịch đều phát xuất từ sự thể là mọi người quá đặt nặng tin tưởng vào tính chất cởi mở và ‘cho đi’ của Thần Khí rồi đã quyết chí tìm đến đổi thay và xử trí. Kết quả, như các thư từ/giao dịch với thánh Phao lô cho thấy, có những mẩu vụn thư nhắn gửi đến đã chứng minh là: vẫn còn đó nhiều ưu tư cũng như bức bách, trăn trở.

 

Thư Corinthô số 1 không giúp ích được nhiều người. Bởi, sau đó vẫn có nhiều thư khác đã được viết xem như thể:

 

1.      Thánh Phaolô đã phải vội vã ghé thăm Corinthô, xứ miền đầy khổ đau;

2.      Thánh Phaolô vẫn cử đại diện đến thăm thủ phủ này;

3.      Thánh Phaolô đành phải ghi một thư khác khá nghiêm trọng gửi về cộng đoàn. Thư đó được viết trong tình trạng đầu óc suy sụp đến độ ‘hôn mê’ như được kể ở 2 Cor 2:3-9

4.      Titô đến đến báo tin cho Thánh Phaolô biết bức thư nghiêm trọng ấy, đã đạt được kết cuộc khá khả quan.

 

Và rồi sau đó ta lại có thư Côrinthô số 2. Tuy thế, thư này là sự kết hiệp của ít nhất hai bức thư. Hai thư chính yếu này là:

 

Lá thư đầu, là để cử hành việc giải hoà giữa thánh Phaolô và dân con thành Corinthô : chương 1-9.

Thư sau gồm các chương từ 10 đến 13...

 

Toàn bộ thư đầu có 2 đoạn nhỏ không ăn khớp với nhau cho lắm. Cũng có thể đó chỉ là trích đoạn được rút từ các thư nào khác chứ không từ thư Corinthô đầu, thôi.

 

            Đoạn 6, câu 14 đến đoạn 7 câu 1 bàn về trạng thái lo sợ người ngoài.

            Đoạn 9 từ câu 1 đến 15 là để gửi cho hội thánh ở Galát bàn về tiền thu thập nói chung.

 

Sức mạnh thù địch từ bên ngoài cộng đoàn lâu nay lại đã phá rối Cộng đoàn ở đây. Họ đến với cộng đoàn đem theo mẫu mã về những điều mà tiếng Hylạp gọi là ‘theios aner’, tức nhân vật thần thánh hiểu theo nghĩa: chính họ đã được thấy Đức Giêsu, và đã hồi hướng trở về. Điều này dẫn đến nhiều xung khắc phản kích lập trường đặc biệt của Thánh Phaolô, nên vẫn cần đến hoà giải/hoà hợp cả dân nước. Thánh Phaolô vẫn nhấn mạnh về sự kiện ‘Đức Kitô chấp nhận chịu đóng đinh vào thập giá’, thế nên việc hoà giải hoà hợp chỉ có nghĩa giới hạn như vậy, thôi.

 

Lại có sự thể là người Côrinthô vẫn cứ loay hoay/xoay vần giữa các lập trường cố hữu liên quan đến việc “tự dung tha” cho đến quan điểm chủ thuyết khắc kỷ đặt sai mục đích. Thánh Phaolô nhân thấy thấm mệt nhưng cũng đã tìm cách giải quyết mọi sự bằng một đường lối khá chính đáng để họ sống cho thích hợp

 

Thư Côrinthô số 2 ở đoạn 11 câu 21-33, thánh Phaolô liệt kê ra một danh sách kể về các nỗi khổ mình từng chịu. Ông nói đến sự yếu kém, ốm đau, âu sầu, khổ ải –tức những điều hoặc các sự việc mà thế giới Hy Lạp từng bỏ phế,- chỉ cốt nhắm vào thân xác toàn hảo của con người. Thánh Phaolô chấp nhận sự bất toàn và gánh chịu mọi nhục nhã lẫn đớn hèn xảy đến với ông. Điều này từng khiến cho Hội thánh ở Côrinthô lấy làm bất mãn, cự tuyệt. Thánh Phaolô cũng đã đề cập đến các sự kiện quá quắt khiến ông ưu tư nhiều về những hành xử từng khiến ông ưu phiền/nhục nhằn trong cuộc đời. Ưu và nhục đến độ thánh nhân đã phải nghĩ đến việc tự làm khổ mình xuống mức độ hạ thấp, rất trút sạch. Ông không còn tin tưởng vào một ai. Đây chính là  trạng thái ộng định-vị chính mình vào với Đức Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Và, ông cũng đã tìm ra lý lẽ để thấy được rằng Đức Chúa Phục Sinh đã hoạt động tích cực ngang qua ông.

 

Cuối cùng, ông lại đã đi đến giai đoạn coi mọi sự chỉ như một thất bại và cỏ rác; tức, thứ mà người Do Thái tốt lành vẫn luôn trân trọng. Ông đã tụt hạ xuống trạng thái rất thấp đến độ tự biến thái thành hư không, trống rỗng (xem Siguard Grindheim, The Crux of Election, 2003).

 

Nay, là lúc thánh Phaolô sống đích thực ý nghĩa của tình yêu thương con người đến độ không có gì làm mình tự hào, hoặc cao cả. Và tình thương yêu ấy là thứ chính trị rất mới mẻ đáng được thay thế để đối mặt với loại chính trị đầy khuynh loát/khống chế của đế quốc. Ông đã để cho 2 lập trường sống ấy đối đầu giáp mặt với nhau, không kiêng nể.

 

‘Kể từ nay, chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Ngài như vậy nữa.

( 2 Cor 5:16)

 

‘Già lão/cổ xưa’ đây, chính là biểu tượng nói về sự rẽ chia, phân cách. Đây là thế giới của những xu hướng kỳ thị sắc tộc. Một thế giới đầy những cách ly, bạo tàn. Thứ thế giới của cạnh tranh /giành giựt chỉ nhằm lợi dụng người khác. Một thế giới cứ chăm chăm chú chú nhằm loại bỏ những người mình không mấy thích thú. Là, thế giới chẳng biết cách tập họp nhau lại mà hoà hợp. Một thế giới chỉ biết sống với ưu tư/lo lắng vẫn quyết rằng Đức Chúa của mình bị chia năm xẻ bảy, xa lánh/tách rời, chỉ chăm chút giữ lối sống bê tha, tiêu cực. Thế giới ấy đầy dẫy những lỗi lầm và sai sót khiến họ cứ lo ngại mình không thể nào hoà giải/hoà hợp được với Thiên Chúa do bởi những điều mình đã làm đáng cho mình hủ hoá thành hư không, trống rỗng; đồng thời tự mình tạo lấy cho mình tình huống không có giá trị gì ở bên trong; hoặc chẳng có gì để tự mình tự hào với Đức Chúa, hết.

 

Lập trường già nua/xưa cũ ở mọi việc, nay quá lỗi thời nên đã bị cất bỏ đi và lập trường mới mẻ khác đã xuất hiện. Lập trường mới mẻ là thế, nay xảy đến một thế giới trong đó có Thiên Chúa vẫn từng nói: “Nay Ta về với các ngươi. Ta vực các người trỗi dậy từ cõi chết. Ta đòi các người đến để sở hữu mà lo lắng chăm sóc yêu thương, bao bọc các người và đặt các người vào với cuộc sống của Ta. Ta sống cuộc sống của các ngươi cùng với các ngươi. Ta vui hưởng cuộc sống với ngươi và Ta đưa các người tháp nhập vào ở trong Ta’. Đây là thế giới biết tôn kính/trân trọng và yêu thương nhau. Tức, thế giới của sự hiệp thông/nối kết rất quan hệ. Một thế giới trong không còn chỗ cho tranh chấp/lũng đoạn giữa con người và Thiên Chúa; và cũng chẳng còn phân ly cách biệt nào giữa con người với con người. Bởi lẽ, thế giới này đã thay đổi, một lần là tất cả’.

 

Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải.19 Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Ngài. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngài. (2 Cor 5: 17-21)

           

Tác giả Michael Gorman (x. Reading Paul, Eugene, Cascade Books 2008 tr. 8.) đã tìm cách viết về chuyện ‘Thánh Phaolô bị lên án’ rất như sau:

 

Thánh Phaolô đã diễn giảng rất nhiều điều và sau đó lại lý giải mọi sự bằng vào thư mục vụ kết hợp cộng đoàn khác biệt, sau đó ông còn cắt nghĩa thêm bằng Tin Mừng đầy những truyện kể có tính cánh chung và có cả nền thần học chính trị theo kiểu cách rất khác biệt quyết đề cập đến các luận đề như:

 

1.      Nối tiếp vào với câu chuyện của Isarael; và

 

2.      Khác biệt hẳn lời lẽ kể về đế quốc La Mã và các quyền bính từng tập trung vào Đức Giêsu là Đấng Thiên sai chấp nhận chịu đóng đinh vào thập giá và Ngài đã sống lại.

 

Chuyện Ngài mặc lấy thân xác làm người, rồi lại sống như con người và bị đóng đinh vào thập giá cho đến chết. Một cái chết được Thiên-Chúa-là-Cha chứng giám và tuyên dương Ngài bằng sự sống lại và nâng nhấc/thánh-hoá Ngài trở thành Đức Chúa. Ngài khai mạc kỷ nguyên mới bằng vào tạo dựng vũ trụ gồm mọi thành viên, trong đó loài người đã thiết lập giao ước rất trung kiên và họ đã đáp trả bằng một niềm tin rất hãnh tiến, quyết từ bỏ chính mình bằng cam kết tham gia vào với cái chết và sự sống lại của Đức Chúa; và

 

a.      Mọi thành viên đều được xác chứng và tái tạo tương quan giao ước phải lẽ/đúng đắn với Thiên Chúa và với người đồng loại;

 

b.      Tất cả được tháp nhập chung vào Và lại cứ chan hoà  thân mình đặc biệt của Đức Kitô ở trần thế là Hội thánh, tức cộng đoàn thay thế các nhóm người đã có đó, vẫn cương quyết để Xêda và vua chúa ở thế trần quản cai bằng các đặc trưng đi ngược lại Lời Chúa ở Tin Mừng.

 

c.      Và rồi lại hoà trộn theo tư cách cá nhân riêng lẻ vào với Thần Khí của Con Thiên Chúa đến độ bao gồm cả cuộc sống lưỡng nguyên vốn dĩ tập trung vào cuộc sống giáng trần và hướng vào công cuộc tái lâm của Chúa, để bắt chước Đức Kitô mà chấp nhận thập giá, tức luôn tin tưởng và hy vọng vào Chúa cũng như thương yêu người đồng loại và kẻ thù của mình nữa. Tình yêu như thế được đánh dấu bằng sự an hoà hội nhập bằng vào vị thế vui vẻ thực hiện trước những điều như sau:

 

1.) Trở về lại với Đức Kitô

 

2.) Người chết trỗi dậy để rồi sẽ đi vào cuộc sống vĩnh hằng

 

3.) Hoàn toàn đổi mới công cuộc tạo dựng vẫn liên tục.
--------------------
(còn tiếp)

____________________
Lm Kevin O’Shea, CSsR
Mai Tá lược dịch.