Anh
nổi tiếng rất sớm. Vì thơ anh đi sớm hơn bước chân
còn ngại ngùng bỡ ngỡ của thế hệ trẻ thời ấy
trước sự tràn ngập của văn hóa phương Tây, qua hình
ảnh người lính viễn chinh Mỹ, và qua phong trào hiện
sinh mô phỏng trễ tràng trên đất nước đói nghèo,
chiến tranh. Anh mạnh dạn nói được tiếng nói của tình
yêu tuổi trẻ với sân trường, kỳ thi, chiến tranh, mất
mát, hoài vọng, tuyệt vọng... Chẳng phải sớm gì trong
thể loại thơ, mà sớm trong phong cách biểu hiện. Anh
dùng thứ ngôn ngữ của thời đại, rất hiện thực,
không đẽo gọt; vậy mà thứ ngôn ngữ ấy bỗng nhiên
mới, lạ, và được đón nhận nồng nhiệt. Bắt được
giọng thơ tươi rói và đầy sức thu hút của anh, một
nhạc sĩ tài danh phổ ngay thơ của anh thành nhạc, làm
rung động bao trái tim cuồng nhiệt yêu đương thời chiến
loạn. Vậy rồi thơ anh cất lên thành cơn sóng lớn, vượt
bờ. Không ai mà chẳng biết thơ anh, không ai mà không hát
nhạc phổ thơ của anh.
Hãy
đọc một số bài thơ nổi tiếng được phổ nhạc mà
ai cũng biết; và nên nhớ rằng lúc ấy, Nguyễn Tất
Nhiên chỉ mới xấp xỉ ở tuổi hai mươi, để thấy cái
tài hoa dị thường của anh:
Khúc
Buồn Tình
1.
Người
từ trăm năm
về
ngang sông rộng
ta
ngoắc mòn tay
...
trùng trùng gió lộng
(thà
như giọt mưa
vỡ
trên tượng đá
thà
như giọt mưa
khô
trên tượng đá
có
còn hơn không
mưa
ôm tượng đá)
người
từ trăm năm
về
khơi tình động
ta
chạy vòng vòng
ta
chạy mòn chân
nào
hay đời cạn!
(thà
như giọt mưa
vỡ
trên tượng đá
thà
như giọt mưa
khô
trên tượng đá
có
còn hơn không
mưa
ôm tượng đá)
người
từ trăm năm
về
như dao nhọn
ngọt
ngào vết đâm
ta
chết âm thầm
máu
chưa kịp đổ
(thà
như giọt mưa
vỡ
trên tượng đá
thà
như giọt mưa
khô
trên tượng đá
có
còn hơn không
mưa
ôm tượng đá)
2.
thà
như giọt mưa
gieo
xuống mặt người
vỡ
tan vỡ tan
nào
ta ân hận
bởi
còn kịp nghe
nhịp
run vồi vội
trên
ngọn lông măng
(người
từ trăm năm
vì
ta, phải khổ!)
(1970)
Trong
tình yêu, thơ anh táo bạo vay mượn những hình ảnh thánh
thiện để ví von mình, ví von người tình. Có thể nói
lối vay mượn này là bước khai phá có một không ai của
anh vào thời ấy, khiến thơ anh càng thêm phần đặc dị,
ngời sáng, mà lại gần gũi biết bao với tâm tình giới
trẻ.
Ma
Sœur
đưa
em về dưới mưa
nói
năng chi cũng thừa
phất
phơ đời sương gió
hồn
mình gần nhau chưa?
tay
ta từng ngón tay
vuốt
lưng em tóc dài
những
trưa ngồi quán vắng
chia
nhau tình-phôi-thai
xa
nhau mà không hay
(hỡi
em cười vô tội
đeo
thánh giá huy hoàng
hỡi
ta nhiều sám hối
tính
nết vẫn hoang đàng!)
em
hiền như "ma sœur"
vết
thương ta bốn mùa
trái
tim ta làm mủ
"ma
sœur" này "ma sœur"!
có
dịu dàng ánh mắt?
có
êm đềm cánh môi?
ru
ta -- người bệnh hoạn
ru
ta suốt cuộc đời
(cuộc
đời tên vô đạo
vết
thương hành liệt tim!)
đưa
em về dưới mưa
xe
lăn đều lên dốc
chở
tình nhau mệt nhọc!
đưa
em về dưới mưa
áo
dài sầu hai vạt
khi
chấm bùn lưa thưa...
đưa
em về dưới mưa
hỡi
em còn nít nhỏ
chuyện
tình nào không xưa?
vai
em tròn dưới mưa
ướt
bao nhiêu cũng vừa
cũng
chưa hơn tình rụng
thấm
linh hồn "ma sœur"...
(1971)
Linh
Mục
1.
dĩ
vãng là địa ngục
giam
hãm đời muôn năm
tôi
-- người yêu dĩ vãng
nên
sống gần Sa-tăng
ngày
kia nghe lời quỷ
giáng
thế thêm một lần
trong
kiếp người linh mục
xao
gầy cơn điên trăng!
2.
vì
tôi là linh mục
không
mặc áo nhà giòng
nên
suốt đời hiu quạnh
nên
suốt đời lang thang!
vì
tôi là linh mục
giảng
lời tình nhân gian
nên
không có thánh kinh
nên
không có bổn đạo
nên
không có giáo đường
(một
tín đồ duy nhất
vừa
thiêu hủy lầu chuông!)
vì
tôi là linh mục
phổ
lời tình nhân gian
thành
câu thơ buồn bã
nên
hạnh phúc đâu còn
nên
người tình duy nhất
vừa
thiêu hủy lầu chuông!
vì
tôi là linh mục
không
biết mặt thánh thần
nên
tín đồ duy nhất
cũng
là đấng quyền năng!
3.
tín
đồ là người tình
người
tình là ác quỷ
ác
quỷ là quyền năng
quyền
năng là tín đồ
tín
đồ là người tình
thiêu
hủy lầu chuông tôi
(vì
tôi là linh mục
giảng
lời tình nhân gian!)
4.
vì
tôi là linh mục
không
biết rửa tội người
nên
âm thầm lúc chết
tội
mình còn thâm vai...
(1970)
Ðụng
chạm, lôi kéo những biểu tượng linh thiêng, đưa vào
thơ và đưa vào tình yêu đời thường. Vậy mà anh chẳng
làm mất lòng ai. Người ta vẫn cứ thích thú ca hát lời
thơ của anh:
Hai
năm tình lận đận
1.
hai
năm tình lận đận
hai
đứa cùng xanh xao
mùa
đông, hai đứa lạnh
hơi
thở dài như nhau (?)
hai
năm tình lận đận
hai
đứa cùng hư hao
(em
không còn thắt bính
nuôi
dưỡng thời ngây thơ
anh
không còn luýnh quýnh
giữa
sân trường trao thư!)
hai
năm tình lận đận
hai
đứa đành xa nhau
em
vẫn còn mắt biếc
anh
vẫn còn nôn nao
ngoài
đường em bước chậm
trong
quán chiều anh ngóng cổ cao...
2.
em
bây giờ, có lẽ
toan
tính chuyện lọc lừa
anh
bây giờ, có lẽ
xin
làm người-tình-thua
chuông
nhà thờ đổ mệt
tượng
Chúa gầy hơn xưa
Chúa
bây giờ, có lẽ
rơi
xuống trần gian, mưa
(dù
sao thì Chúa cũng
một
thời làm trai tơ
dù
sao thì Chúa cũng
là
đàn ông... dại khờ!)
anh
bây giờ, có lẽ
thiết
tha hơn tín đồ
nguyện
làm cây thánh giá
trên
chót đỉnh nhà thờ
cô
đơn nhìn bụi bặm
làm
phân bón rêu xanh
(dù
sao cây thánh giá
cũng
được người nhân danh!)
3.
hai
năm tình lận đận
em
đã già hơn xưa!...
(1972)
Anh
thoát ra khỏi những hình ảnh và ngôn ngữ thơ chắt lọc,
sang cả quí phái của nền thơ truyền thống. Thơ anh,
không cứ là trăng là gió, là bến nước, bờ mây, tóc
thề và áo dài bay tha thướt, mái tranh, cây đa hay gốc
chuối... (như thể là người thơ cứ suốt đời ở nhà
quê, cảnh cũ!) mà thay vào đó là những hình ảnh rất
thực của thị thành với "tóc demi garçon", tóc
bính, cột điện, với xe đạp, cà phê, cà phê đá, rạp
cải lương, nhà ga và toa tàu, mùa thi với văn bằng... Tự
ví mình như là một gã ngông cuồng, là người phá phách,
là người vô đạo, là sa-tăng ác quỷ... nhưng trên thực
tế thì anh rất hiền, và trong tình yêu, thường là người
thua cuộc, hoặc tự nguyện chịu thua cuộc. Trách người
chỉ là trách nhẹ nhàng. Còn lại là trách mình.
Thơ
tình của anh vì vậy mà phổ cập, mà thành của chung. Ai
đọc cũng thấy, cũng nghe được nhân dáng và kinh nghiệm
của chính mình trong ấy. Từ thứ tình yêu reo vui, nhảy
múa theo nhịp chân của "cô Bắc-kỳ nho nhỏ" cho
đến tình yêu của người tuyệt vọng... anh nói thay mọi
người bằng thánh ca của tình yêu.
Nhưng
đặc biệt là lúc khổ đau vì tình, thơ anh chùng xuống,
gãy đổ, nát tan... và quả là anh đã đi thật sớm,
trước thế hệ của anh, trong sự cảm nhận cũng như lối
biểu đạt về tình yêu:
Thiên
thu
sao
thiên thu không là xa nhau?
nên
mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu
tôi
đứng như cây cột đèn gẫy gập
và
một con đường cúp điện rất lâu!
sao
thiên thu không là chôn sâu?
nên
nắng xưa còn hanh mái tóc nhầu
tôi
đứng như xe tang ngừng ngập
và
một họ hàng khăn trắng buồn đau!
sao
thiên thu không là đường chim?
nên
mây năm xưa còn trên tay phiền
tôi
đứng như tường vôi luống tuổi
và
những tàng xanh chùm gởi quê hèn!
sao
thiên thu không là lãng quên?
nên
tình xưa còn cháy âm thầm
tôi
đứng như căn nhà nám lửa
và
những người thân trốn chạy vội vàng!
sao
thiên thu không là sương tan?
nên
mặt trời xưa còn gượng huy hoàng
tôi
đứng như dòng sông yên lặng
và
những cánh buồm kiệt sức lang thang!
sao
thiên thu không là thiên thu?
nên
những người yêu là những ngôi mồ
tôi
đứng một mình trong nghĩa địa
và
chắc không đành quên khổ đau!
(1970)
Trong
thơ lục bát, anh vẫn theo vần nhịp cũ nhưng lối diễn
đạt rất là thảnh thơi, thoải mái, tự nhiên như nói
chuyện. Ðây, vần lục bát của hơn 30 năm trước:
Nên
thời gian ấy ngùi trông
giọt
mưa xanh mấy tuổi nàng
tôi
nghe lá rụng như vàng áo xưa
hơi
tàn tro ấm lần đưa
ba
năm khơi lại cũng vừa đủ đau!
sớm,
trưa, chiều, tối, ra, vào
người
chưa yên nỗi thầm xao xác lòng
nên
thời gian ấy ngùi trông
khô
như hạt bụi trưa ngừng ngập bay...
ba
năm vuốt sợi tình dài
ừ,
tôi còn vụng ngón-tay-dậy-thì
thuở
nào sầu đã lâm ly
giờ
thêm già héo (nhiều khi hận thù!)
lửa
đom đóm mỏi mòn, lu
nhưng
tôi cứ buồn vi vu thổi hoài
mưa
thì mưa thả phai phai
rồi
sau đó sẽ một vài tang thương
bởi
quen cầm lược soi gương
biết
ai ôm gối mộng thường lâu chăng?
giọt
mưa xanh mấy tuổi nàng
tôi
nghe lá rụng như vàng áo xưa...
(1970)
Hôm
nay
khi
không tình não nùng buồn
gót
chân ai bỏ con đường nhớ nhung
gót
chân ai nhẹ vô cùng
dẫm
lên xác-lá-tôi từng tiếng kêu
gót
chân ai bước, nhẹ hều
bước
qua tôi, bước, hư nhiều thói quen!
khi
không tình não nùng buồn
nhớ
hôm qua vẫy tay ngừng ngập xa
tóc
ai ngắn ngắn, như là
suốt
đời chưa chịu thiệt thà chấm vai
suốt
đời khét nắng rong chơi
kể
như hơi hướm bàn tay tôi, thừa!
mừng
em sớm biết lọc lừa
biết
ngây thơ giả -- biết đùa với đau!
biệt
ly dù ở ga nào
cho
tôi ngồi một toa tàu lãng quên...
(1974)
Ðó
là Nguyễn Tất Nhiên của tuổi hai mươi, với TÌNH qua
tập Thơ Nguyễn Tất Nhiên; và bây giờ hãy đọc
Nguyễn Tất Nhiên với TÂM qua Tâm Dung. Tập
trước được xuất bản năm 1980 (gom lại những bài thơ
cũ trước năm 1975 và một số ít cuối thập niên 70) khi
anh mới vượt biên ra hải ngoại; tập sau được xuất
bản 9 năm sau đó. Tựa tập thơ là Tâm Dung, bao
gồm nhiều bài thơ bắt đầu bằng chữ TÂM (như Tâm
khai, Tâm sân, Tâm hoa, Tâm xuân, Tâm hồng, Tâm hương, Tâm
mưa, Tâm sương, Tâm ca, Tâm cảm...) được chính tác giả
mở đầu bằng một đoạn rất thâm trầm về tư tưởng
Phật giáo, khiến người đọc có cảm tưởng là sẽ
được đọc một tác phẩm về Thiền vậy:
"Dung,
theo nghĩa dung chứa.
Năm
lần Phật chỉ cho ngài A Nan, tâm là cái thấy.
Lấy
cái thấy phân biệt để chỉ cái thấy vô phân biệt,
lấy cái tâm vọng để chỉ cái tâm chơn, lấy ngón tay
phàm phu để dụ như ngón tay Phật chỉ trăng. Kẻ trèo
đèo này chỉ mong góp một cỏn con Phật sự, vọng động
chăng?
Chỉ
mong quí thiện hữu niệm tình: vọng mà biết mình vọng,
còn hơn không."
Nguyễn
Tất Nhiên
(Westminster,
Ca. ngày 12/01/89)
Nhưng
không. Dù mào đầu như thế, dù chọn lựa chủ đề và
tựa đề như thế, thơ anh vẫn cứ là thơ, không phải
là tập giáo nghĩa khô khan, cứng nhắc. Chỉ khác là anh
đã chững chạc hơn (dĩ nhiên!), bớt bông đùa hơn, và
trải đều lên những trang thơ là cõi lòng bát ngát của
anh.
Tâm
nguyệt
từ
gót sen hài em hút dấu
sầu
tôi như lá thẫn thờ bay
ví
dù lá ngập đường em bước
lá
cũng xin đừng bận gót ai...
từ
mắt chia lòng sông cách núi
sầu
tôi như bụi khắp không gian
ví
dù bụi ố hoen màu trắng
bụi
cũng xin đừng vương mắt xanh...
từ
tóc bay xuôi dòng quá khứ
sầu
tôi như bóng lặng lờ trôi
ví
dù bóng đẳng đeo tròn kiếp
bóng
cũng xin dòng tóc thảnh thơi...
từ
hơi thở của không gian khác
sầu
tôi như lịch nhẩn nha rơi
mỗi
ngày thiên hạ hồn nhiên xé
lịch
mới, như tờ-thương-nhớ-tôi!
từ
hoa môi của bình minh khác
núi
đồi vắng cả tiếng thông reo
chim
thôi cười chúc mừng hoa lá
thành-phố-tôi
già ho động cơ
từ
vỡ, lành trăng lồng bóng nước
từ
em là nguyệt lộng đời sông
từ
tôi là một dòng tâm nguyệt
sông
có trăng cười sông xóa trăng...
(06/01/1989)
Tâm
duyên
1.
mùa
hè anh lên núi
thấy
tóc em lành nhiên
cười
theo chiều, gió tối
trời
đi vào giấc yên
cho
sự sống duyên hiền
từng
búp hoa huệ nhỏ
cho
sự sống hương êm
từng
thoảng hoa huệ thở
sự
sống trắng tinh im
từng
nụ quan-âm nở
im
lặng là xin dâng
tặng
đời bông hoa nữa...
mùa
hạ anh ra đường
thấy
mới tinh tất cả
thấy
nắng nôi dịu dàng
đang
vuốt ve cây cỏ
thấy
cây cỏ dễ thương
đang
làm duyên, tóc xõa
thấy
lửa trời nung ngon
chín
bòn bon sự sống
thấy
sự sống nhịp nhàng
theo
đỏ, vàng, xanh, đỏ...
thấy
phố xá từ tâm
đèn
cười hoa ba đóa...
(17/01/89)
Rõ
ràng là anh đã học ở đâu, từ những vật vô tri, từ
người tình, từ cuộc đời, từ nỗi buồn đau, từ cơn
thất chí, từ niềm tuyệt vọng, từ cơn bệnh tưởng,
từ một nền đạo lý hun đúc tâm anh, hay từ tất cả
những thứ trên: đức khiêm nhẫn và lòng tha thứ, chịu
đựng vô cùng:
Tịnh
khúc
buồn
ơi...
tôi
bỏ tôi chìm đắm
trong
tiếng làm thinh của ghế bàn
ghế
bàn không sẻ chia sầu thảm
nhưng
biết làm thinh lặng cảm thông
bàn
ghế đâu như người vui nhảm
tọc
mạch đời nhau để miệng mồm
buồn
ơi, tôi muốn như bàn ghế
chịu
đựng đời không biết thở than!
buồn
ơi...
tôi
bỏ tôi tàn tạ
lạy
đời xin một bận ngó lơ
lần
té nặng này tôi muốn giữ
cho
tim đừng hối hận trèo cao
lần
té nặng này tôi muốn sống
buồn
ơi, đừng giết chết tình nhau
buồn
ơi, tôi muốn hôn đời sống
dù
môi nhầu nứt nẻ thương đau!
buồn
ơi...
tôi
bỏ tôi ngây dại
có
phải thu-bồn chở tóc ai
có
phải lần run tay vuốt đại