Một chiều cuối năm 1998 tôi vào
Trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái
áp út tan giờ học.
Tình cờ tôi nhìn thấy một ông
già đứng chờ xe bên bến Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi
hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua
tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền
Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian
này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại
trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế
là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán
và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College
(Shoreline C. C.).
So với các trường đại học
cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C.
tương đối nhẹ.Thật là, không có gì diễn tả nổi
niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp
cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau
khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân
ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp
nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người
trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.Tôi làm việc mười
tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ.
Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp.
Từ ấy, tôi làm việc full-time, đi học full-time, bận bịu
vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp
Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi
miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong
học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba
đêm là thường. Tôi ghi danh full-time để thúc đít thằng
con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng
chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.
Một niên khóa trôi qua. Con đường
học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì
bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall
2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam”.
Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt-Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.
Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt-Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.
Người từ lâu độc quyền phụ
trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả
chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng
ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp
lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những
Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa,
thăm ông thầy cũ.
Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall
2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng
chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh
Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng
lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con
tôi nhiều.
Tôi cứ tưởng rằng những tài
liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải
nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của
Bộ Giáo-Dục Hoa-Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy.
Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy
giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học
vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà
thày đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào
thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những
tài liệu nào mà thầy ưng ý. Trong hai phần ba thời gian
đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào
Việt-Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM
như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn
khéo hướng dẫn dân tộc Việt -Nam tới chiến thắng
thoát ách đô hộ của Đế-Quốc Pháp.
Thầy khẳng định rằng, chính
phủ Hoa-Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông-Dưong
lần thứ hai (1954-1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm
lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần
phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ
chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp
quân Pháp trở lại tái chiếm Đông-Dương trong khi cao
trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn
trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi
thời.
Chúng tôi đã được cho xem những
đoạn phim cũ về trận Điện-Biên Phủ, về Hiệp- Định
Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm
vang quốc tế như Plei-Me, Khe- Sanh, Kontum, Bình-Long,
Long-Khánh vân vân... chúng tôi chỉ được thấy những
cảnh thương vong của quân đội Đồng-Minh và
Việt-Nam-Cộng-Hòa. Trận Mậu-Thân, chỉ là cảnh... nhà
cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này
đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần
có lợi cho Việt-Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng
thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt-Nam Cộng-Hòa.
Thầy mô tả Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa như một đội
quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến.
Với thầy Dan, chiến tranh Việt-Nam chỉ là một gánh nặng
cho ngân sách Quốc-Phòng Hoa-Kỳ, một sự phí phạm công
quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ tay nêu ý kiến bênh vực
quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ
tay vào quyển Sử dày cộm,
“Book said!”
Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!”
đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc
nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là
một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.
Thầy hùng hồn thuật lại những
lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s
và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã
đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa-Kỳ vào chỗ chết.
Kết quả hai lần khảo hạch
giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì
tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài
tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.
Cả hai bài đều lãnh điểm
KHÔNG (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thày.
Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm
đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp
này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington
của tôi sẽ thành mây khói.
Tôi theo học lớp này đúng vào
lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu
cử Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người
độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà Tiểu-Bang
Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Đảng
Dân-Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng
có ai thông cảm!
Thời gian này lòng tôi thật muộn
phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp
tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng
vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là bỏ tiền ra ghi
danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội
mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy
ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn
cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó
cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau.
Để thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý
ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.
Sau ngày có kết quả khảo hạch
kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu,
sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh
Việt-Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên
University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là
tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này
một trận, rồi muốn ra sao thì ra.Tôi lục lạo kệ sách
loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển
Sử-Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ
ràng những thành quả mà Việt-Nam Cộng-Hòa đã thực
hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có
cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2
Biệt-Động-Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy
những gi thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi
cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng
thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự
những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê
bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về
cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài
liệu mà ông đã dùng để trợ huấn.Buổi học áp chót
của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C
khoanh. Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời
gian còn lại, thày sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận.
Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi
học cuối cùng.Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới
bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một
mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu
sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ,
- Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui
lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều
liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa
qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?
Thầy Dan niềm nở,
- Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
- Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
Thấy câu chuyện đã mở đầu
trót lọt, tôi mạnh miệng,
- Thưa giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.
- Thưa giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.
Thầy chỉ biết tới những trận
đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí,
truyền thanh, và truyền hình.Còn tôi là người đã lặn
lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ
máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội
nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy,
không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với
thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày,
vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi
của nước Mỹ.Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa
một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy
không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một
người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến
thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.
Suốt đời thầy không hiểu được
vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn
vị Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng- Hòa phải mở đường
máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong
đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại
tá Hoa-Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh
Việt-Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu.Mạng
lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa-Kỳ đã
tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng-Sản Quốc-Tế
cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những c liên quan
tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc
Chiến-Tranh Việt-Nam. Từ đó, tên Việt-Cộng khát máu
HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ
đức độ anh minh.
Chính tên sát nhân này và đảng
Cộng-Sản Việt-Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng
bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm
chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị
giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị
chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ
Cộng-Sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân
miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp-Định Geneve năm 1954, và
sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng
triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền
Nam rơi vào tay Cộng-Sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy
hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy,
thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Đồng-Minh
đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng
quân Đồng-Minh tàn ác.
Nếu thầy ở vào vị trí của
tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm
1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku, tôi đã
tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy.
Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc
giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ
lính. Chị bị Việt-Cộng lột hết quần áo, bị hãm
hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột
gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng.
Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn
nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và
cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào
ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của
đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày.
Họ đã không kịp chạy khi Việt-Cộng tràn ngập căn cứ
trưa 15 tháng Tư năm 1974.
Câu chuyện vừa tới đây thì
hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ
vai tôi,
- Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
- Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp
nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi
viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy
Dan nói nhỏ với tôi,
- Ông hãy tiếp tục câu chuyện
của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm. Tôi
không ngần ngại, tiếp lời,
- Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói
những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy
ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một
nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt-Nam đã
ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt. Tôi
tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt
nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm
nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước.
Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông
giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới
những chiến dịch xảy ra trên Tây-Nguyên, và ông có vẻ
rất quen thuộc với những địa danh Ban-Mê-Thuột, Pleiku,
Plei-Me, Đức-Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây-Nguyên chiến
trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,
“Mỗi lần ra trận, ông có sợ
không?”
Tôi cứ tình thực trả lời,
Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Bu-Prang vào những năm 1972-1973.
Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Bu-Prang vào những năm 1972-1973.
Ông cũng rất hứng thú khi nghe
tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Đoàn
82 Biệt Động Quân đã áp dụng trong trận Xuân-Lộc
tháng Tư năm 1975. Trận Xuân-Lộc này ông có nghe qua,
nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực
tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước
mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân
bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè
xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời
mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều
thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối
mặt với quân thù.Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình
thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu
kiên cường như thế nào.
Và sau khi biết rằng chỉ trong
vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân
số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động
Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay
lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,
“Trời ơi!”
Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu
xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một
triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa
ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ
sau tháng Tư năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải
Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp”
mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù
khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống
không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói.
Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực. Tinh thần bị
khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi
đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với
ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự
do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng
cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần
tôi trốn trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi
phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại
hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con
thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13
năm tôi bị giam giữ, tù đầy.
Tôi cho ông giáo biết tôi là
người sinh ra tại Miền Bắc Việt-Nam. Tháng 7 năm 1954
gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư
vào Nam để trốn lánh Cộng-Sản. Tôi cặn kẽ phân tích
cho thầy rõ, sau Hiệp-Định Geneve năm đó, hai miền Nam,
Bắc Việt-Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ
quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng-Sản
Việt-Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo
đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân
đội và nhân dân Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ làm nhiệm vụ
tự vệ. Quân Mỹ và Đồng-Minh vào Việt - Nam là để
phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ
phương Bắc.
Chúng tôi thất trận không phải
vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu,
mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân,
cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị
bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu.
Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân
dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời
gian khởi đầu chương trình Việt-Nam- Hóa chiến tranh,
còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng
tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ
nhiệm vụ nào của quân đội Đồng-Minh bàn giao lại.Để
chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History
của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt-Nam
Cộng-Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam-Bốt trong
chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn
II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác
có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái
là con số 2,
- Đây! Thưa thầy, cuối năm
1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi
quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê-Kông trên đất
Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực
thuộc Liên-Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi đã đánh chiếm
thành phố Ba-Kev, và đóng quân tại nơi này một thời
gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu
của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng
những năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh
thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu
trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả
lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy
rõ sự khác biệt.
Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm
1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn
đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà -Lạt
đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân
yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất
F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại
bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó
chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C.
C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974,
tiền đồn Plei-Me do tôi trấn giữ đã bị một lực
lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm.
Plei-Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy
mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới
hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Để chống lại,
ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi
chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm,
tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn
là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu
trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn
chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?
Chúng tôi đã chiến đấu cho
chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế
đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi
cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó
có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ
thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính
nước Hoa-Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như
thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân
nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi
cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một
bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt-Nam năm 1973.
Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang
làm việc. Đây là lời của anh ấy,
“Bạn có cảm thông nỗi đau
đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ
Everett , Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người
thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách dơ cao ngoắc ngoắc
ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi
mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu
người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng
tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải
ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều
khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với
những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng
may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu
tôi vào làm việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy
chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm
rồi.”
Sau câu chuyện này, tôi chuyển
sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói
thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo
lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc
Việt-Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch
sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học
trò những thành kiến sai lầm đối với Việt-Nam
Cộng-Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ
và nhân dân Hoa-Kỳ đối với nước tôi.Cuối cùng, tôi
hỏi ông giáo,
-Thầy còn nhớ, năm ngoái, có
một cậu bé Việt-Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm,
tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?
- Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có
vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
- Cậu bé Việt-Nam đó chính là
thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu
của nó bị điểm KHÔNG (0) vì nó viết theo quan điểm
của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi
cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó;
tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và
trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa
qua;tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết
những đều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp
nhận hậu quả.
Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh
cơn mơ,
- Tôi tin lời ông, vì chẳng có
lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới
nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình
Việt-Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa-Kỳ, chưa ai nói
cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn
quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm
nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả
là một chiến binh thực thụ.
Nghe được những lời nói chân
tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp
lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn
đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,
“Thưa người chiến binh. Ông
vừa lập một chiến công!”
Đêm ấy trên đường về nhà,
lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động
Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một
đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa
rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do
ban quân nhạc Quân-Đoàn II hòa tấu.
Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000
ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết
cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274
của tôi ghi 4 chấm (4.00).
Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ
cấp văn bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường
có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông
nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có
mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên
bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc
nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có
tiếng ai gào lên như tiếng sấm,
“Long! I’m proud of you!”
Đến lúc bà Hiệu Trưởng bắt
tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về
sân khấu,
“My soldier! I’m loving you!”
“My soldier! I’m loving you!”
Ông là một người cao lớn.
Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân
vật chính trong phim “Người Dơi”.
Những người có mặt trong hội
trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông
giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một
ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo
Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả
ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai
năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi
về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.
Từ đó cho tới khi tôi ngồi
viết lại những giòng này (2011) hàng chục ngàn học trò
đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc
chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp
History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối
năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự
với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy
chương, vẫn còn văng vẳng,
“Thưa người chiến binh. Ông
vừa lập một chiến công!”
Vương Mộng Long