Tọa đàm về công trình cha Phêrô Trần Lục

Bài 1 : Diễn Từ Khai Mạc

ĐGM. Giuse Nguyễn Năng

Phát Diệm, ngày 15 tháng 07 năm 2013

LTS:. Lần đầu tiên, giáo phận Phát Diệm tổ chức buổi Tọa đàm mang tính nội bộ về CÔNG TRÌNH CỤ SÁU. Buổi Tọa đàm do Đức cha Giuse Nguyễn Năng chủ tọa đã quy tụ 500 đại biểu bao gồm Linh mục đoàn Phát Diệm, Chủng sinh, tu sĩ nam nữ, Ban hành giáo, giáo viên. Dưới đây là loạt bài cấu thành nội dung buổi Tọa đàm.. Hy vọng sẽ tạo được sự quan tâm của bạn đọc xa gần, góp phần cho diễn đàn Hội thảo trong tương lai được phong phú và có chất lượng chuyên môn cao.

Lưu hành nội bộ

DIỄN TỪ KHAI MẠC

Đức Cha Giuse Nguyễn Năng

Từ nhiều năm nay, khách hành hương cũng như khách du lịch tìm đến Phát Diệm ngày càng đông để chiêm ngắm quần thể nhà thờ Chính Tòa Phát Diệm, một công trình tôn giáo độc đáo mang đậm nét văn hóa Việt Nam do Cụ Sáu, tức linh mục Phêrô Trần Lục khởi công xây dựng từ năm 1875 đến khi Cụ qua đời vào năm 1899. Cụ Sáu đã để lại cho hậu thế không những một công trình kiến trúc có giá trị về kỹ thuật và nghệ thuật, mà hơn nữa, còn có những tập thơ diễn tả đức tin Kitô giáo và các nguyên tắc hướng dẫn đời sống Kitô hữu cũng như những kinh nghiệm trong cuộc sống đời thường qua các mối tương quan hằng ngày.

Từ giữa thế kỷ XX, người ta mới nói đến từ ngữ “hội nhập văn hóa”, nhưng thật ra từ khi Tin Mừng bắt đầu được rao giảng, Hội Thánh luôn quan tâm làm sao cho Tin Mừng đi vào lòng văn hóa các dân tộc. Đức tin không phải là chuyện bên lề cuộc sống, được thêm vào đời sống như một chuyện ngoại tại; trái lại, đức tin cần thẩm thấu và hội nhập vào toàn thể cuộc sống để biến đổi con người, từ não trạng, cách suy nghĩ, tâm tư tình cảm, đến mọi hành vi và ứng xử. Khi Tin Mừng gặp gỡ một môi trường văn hóa, dần dần đức tin cũng biến đổi văn hóa và mặc cho chúng những ý nghĩa Kitô giáo.

Hội nhập văn hóa là một hoạt động hai chiều: “Qua hội nhập văn hóa, Giáo Hội làm cho Tin Mừng nhập thể vào các nền văn hóa khác nhau và đồng thời dẫn đưa các dân tộc cùng với các nền văn hóa của họ vào cộng đoàn Kitô hữu. Giáo Hội truyền thông cho các dân tộc những giá trị của mình, đồng thời đón nhận những gì tốt đẹp trong các nền văn hóa đó và đổi mới chúng từ bên trong.” (Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Chuộc, số 52).

Trong Năm Đức Tin, các Kitô hữu không những cử hành và tuyên xưng đức tin, mà còn có nhiệm vụ phát huy di sản đức tin của những bậc tiền nhân. Một câu hỏi được đặt ra như một “dụng cụ để làm việc”: phải chăng công trình của Cụ Sáu đã thể hiện được một điều mà Giáo Hội hằng mong ước, đó là đem đức tin vào văn hóa, và nâng văn hóa lên tầm của Tin Mừng? Nói cách khác, công trình kiến trúc và thơ văn của Cụ Sáu có thực hiện được điều này chăng: diễn tả đức tin bằng những nét văn hóa Việt Nam, và ngược lại, những nét của văn hóa Việt Nam cũng đã được đón nhận và thanh luyện để chuyển tải nội dung đức tin Kitô giáo?

Đây không phải là chuyện bàn luận của kẻ nhàn cư hoặc mang tính hàn lâm bác học, nhưng là một yêu cầu bức thiết của hoạt động truyền giáo. “Ðức tin mà không trở thành văn hóa là đức tin chưa được chấp nhận hoàn toàn, chưa được suy cho thấu và chưa được sống tới cùng.” (ÐTC Gioan-Phaolô II, Thư thành lập Hội Ðồng Giáo Hoàng về Văn Hóa, ngày 20.5.1982).

Sứ vụ loan báo Tin Mừng đòi hỏi Hội Thánh quan tâm nhiều hơn đến vấn đề hội nhập văn hóa: một mặt, Tin Mừng cần được diễn tả bằng những chất liệu và sắc thái độc đáo của mỗi nền văn hóa; mặt khác người tín hữu có nhiệm vụ tạo cơ hội để Tin Mừng thanh luyện và chiếu sáng các vùng tối nơi mỗi nền văn hóa: “Tin Mừng không ngừng thanh luyện và nâng cao phong hóa các dân tộc. Nhờ thiên ân, Tin Mừng phong phú hóa, từ bên trong, những phẩm tính thiêng liêng và những đặc tính của mỗi dân tộc và mỗi thời đại. Tin Mừng củng cố, bổ túc và tái tạo chúng trong Đức Kitô.” (Công đồng Vaticanô II, hiến chế Vui mừng và Hy vọng, số 58).

Các nghị phụ trong Thượng hội đồng Giám mục về châu Á “ý thức nhu cầu thúc bách của các Giáo Hội địa phương ở châu Á là làm sao giới thiệu mầu nhiệm Đức Kitô cho dân tộc mình theo những mô hình văn hoá và theo những cách tư duy của họ. Các ngài đã chỉ ra rằng cuộc hội nhập văn hoá của đức tin trên lục địa này phải dẫn đến việc khám phá lại diện mạo Á Châu của Đức Giêsu, đồng thời phải tìm ra những phương cách mà nhờ đó các nền văn hoá Á Châu có thể nắm bắt được ý nghĩa cứu độ phổ quát của mầu nhiệm về Đức Giêsu và về Giáo Hội của Người.” (Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II, tông huấn Giáo Hội tại châu Á, số 20).

Như vậy mục vụ văn hóa trở thành một nhu cầu khẩn thiết trong sứ vụ loan báo Tin Mừng hôm nay. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc lại tư tưởng của các vị giáo hoàng gần đây: “Chắc chắn, sự rạn nứt giữa Tin Mừng và văn hóa là một bi kịch”.

Mục đích của buổi họp mặt này là tìm hiểu về công trình của Cụ Sáu trên bình diện đức tin và văn hóa, để từ đó thế hệ Kitô hữu hôm nay biết noi gương tiền nhân diễn tả và sống đức tin theo văn hóa Việt Nam; đồng thời, khi nỗ lực thể hiện các giá trị đạo đức của Tin Mừng trong những mối tương giao và chọn lựa hằng ngày, các Kitô hữu cũng dần dần biến đổi lối sống của văn hóa dân gian thành “văn minh của tình thương và sự sống” (Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Thư Chung hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 gửi toàn thể các tín hữu: Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống).

Nguyện xin Thần Khí sáng tạo mở ra cho tâm hồn con người những chân trời mới để những giá trị chân thiện mỹ của văn hóa tự nhiên và Chân Thiện Mỹ của Tin Mừng gặp nhau trong sự hài hòa của Thần Khí, vì Ngài chính là sự hài hòa.

+ GM Giuse Nguyễn Năng


Bài 2: Đôi Lời Dẫn Nhập

Linh mục Phêrô Nguyễn Hồng Phúc

Phát Diệm, ngày 15 tháng 07 năm 2013

ĐÔI LỜI DẪN NHẬP

“Phát Diệm, tức là cha Sáu.” Đó là lời nhận xét của Lyautey, nguyên soái và thành viên Hàn lâm viện Pháp, năm 1896, sau khi thăm Nhà thờ Phát Diệm về đã viết lại cảm tưởng của mình. Lời nhận xét của ông ngày càng được khẳng định bởi lịch sử hàng trăm năm và bởi chính quan niệm thân thương của người giáo dân Phát Diệm, rộng hơn là cả giáo dân Việt Nam.

Và còn hơn thế nữa, Lord Curzon, về sau làm Phó vương Ấn Độ, đã một lần phải ngạc nhiên trước cơ đồ kỳ diệu của cha Trần Lục. Trong bài phóng sự gởi báo National Observer, ông gọi cha Trần Lục là “một vị giáo hoàng nhỏ của Việt Nam” Còn Đức Hồng Y Etchégaray Chủ tịch Uỷ Ban Hoà Bình Công lý của Toà Thánh trong lần viếng thăm Phát Diệm năm 1989 đã thân thương gọi Phát Diệm là Vatican của Việt Nam!

Căn cứ vào đâu để các vị chính khách đánh giá về Cụ Sáu như vậy? Thiết tưởng các vị đó đã căn cứ trên những công trình của Cụ Sáu để lại bao gồm những công trình về giáo dục và nhất là kiến trúc.

Về mặt kiến trúc, công trình Nhà thờ Phát Diệm bao gồm 11 công trình lớn nhỏ: Từ Ao hồ, Phương đình, Nhà thờ Chính, bốn Nhà thờ cạnh, Nhà thờ đá dâng kính Trái Tim Vô nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ, ba hang đá nhân tạo. Tất cả đều hài hoà và mang đậm nét kiến trúc Á Đông. Trong phần kết luận của tập giới thiệu về “Nhà thờ Lớn Phát Diệm” do Toà Giám mục Phát Diệm xuất bản năm 2009 đã khẳng định: “Nhà thờ Phát Diệm, một quần thể kiến trúc Công Giáo độc đáo và đồ sộ bậc nhất tại Việt Nam, đồng thời cũng là một di sản văn hóa quý báu của dân tộc, xưa đã do Đức Tin và công sức của tổ tiên ông bà xây dựng” Và dĩ nhiên ai cũng hiểu Cụ Sáu chính là linh hồn của công trình này!

Giám mục Olichon, tác giả cuốn Le Père Six, curé de Phát Diệm, Vice-roi de l’Annam đã nhận định về công nghiệp Cụ Sáu như sau: “Trên những đầm sình lầy, Cụ Sáu không chỉ có dự định làm cho lúa mọc lên, mà ngài còn muốn cho mọc lên những lâu đài, những đại giáo đường nữa. Ngài đã thành công và các núi công sức đó ngày hôm nay làm cho du khách thán phục. Nếu từ ngữ “sáng tạo” được phép dùng cho các công trình của con người, thì ở đây đúng là phải sử dụng từ ngữ ấy. Trên những ao đầm sình lầy của Phát Diệm, Cụ Sáu không có gỗ, không có đá, không có gạch, không có cơ giới kiến trúc, không có kiến trúc sư mà Cụ Sáu chỉ có tre nứa, những bàn tay, trí tuệ và ý chí dẻo dai mà thôi…”

Tiếp theo là nhận xét của Lyautey: “Cụ Sáu đã có óc tưởng tượng tuyệt vời, đã hội tụ những gì Cụ đã biết, cho nên người ta thấy nghệ thuật Trung Hoa phối hợp với nghệ thuật Việt Nam trong cách chạm trổ và trang trí tỉ mỉ. Rồi kiểu Gôtích huy hoàng trên đầu các cây cột. Chúng tôi sửng sốt và kinh ngạc vì không có cái gì xấu, cũng không có cái gì chướng mắt. Cụ Sáu đã làm cho tất cả những cái ấy hài hòa. Quả thật là Cụ Sáu đã sáng tạo một mô hình của riêng Cụ…”

Tác giả Kim Ân trong bài viết: “NHÀ THỜ PHÁT DIỆM NƠI NIỀM TIN KITÔ GIÁO GẶP GỠ VĂN HOÁ VIỆT NAM.” Đã nhận xét: “Vậy là tâm huyết của cha Phêrô Trần Lục cùng với mồ hôi và lao nhọc của người xưa đã hoá thân thành cái đẹp nơi Nhà thờ lớn Phát Diệm, cái đẹp trầm tư mà lộng lẫy, nhẹ nhàng mà uy nghi, kín đáo mà trang nghiêm, uyển chuyển mà vững vàng, thanh cao mà gần gũi.”

Và còn đẹp hơn nữa trong nhận xét của Đức Cha Nguyễn Minh Nhật nguyên chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam: “Hiền hoà trong nét trầm mặc của các tôn giáo Phương Đông mà diễn tả được Đức Tin nhập thế của Kitô giáo”.

Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế Phụng Vụ, số 37 đã công bố: “Bất cứ những gì trong tập tục, không liên quan mật thiết với dị đoan và lầm lạc, đều được Giáo Hội mến phục với thiện cảm, và nếu có thể, còn được bảo tồn trọn vẹn. Hơn nữa, đôi khi những tập tục đó còn được Giáo Hội nhận vào trong phụng vụ, miễn sao hoà hợp với những nguyên tắc của tinh thần phụng vụ đích thực và chân chính.” Thật ngạc nhiên và cảm phục khi Cụ Sáu đã có những hội nhập văn hoá Tin Mừng, đem Đức tin vào nét kiến trúc văn hoá Á Đông. Cụ Sáu xứng đáng được gọi là người đi trước thời đại hàng thế kỷ, nói theo ngôn ngữ hiện đại.

Về mặt giáo dục, Cụ Sáu đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm rất được ưa chuộng, trong đó có ba tác phẩm phổ biến hơn, đó là: HIẾU TỰ CA, NỮ TẮC THƯỜNG LỄ, NỊCH ÁI VONG ÂN. Tất cả được gọi thân thương là CA VÈ CỤ SÁU.

Tủ sách Dũng Lạc giới thiệu: “Tác phẩm Hiếu Tự Ca rất nổi tiếng của Cụ Sáu Trần Lục, gồm 1088 câu thơ theo thể Vè, vẫn được gọi là Ca Vè Cụ Sáu. Đây là một hình thức giáo dục bình dân tuyệt vời, vì dân chúng trong vùng ai cũng thuộc, và đọc đi đọc lại thường xuyên trong mọi sinh hoạt đời thường đã khiến trở thành kim chỉ nam đời sống.”

NỮ TẮC THƯỜNG LỄ cũng là một tác phẩm dài gồm 1015 câu, tác giả giáo dục thiếu nữ hết sức tinh tế về mặt nhân bản và cung cách ứng xử trong gia đình. Mặc dù có những quan niệm phong kiến không còn phù hợp với thời đại dân chủ, nhưng tâm huyết của Cụ Sáu muốn giáo dục những thiếu nữ đoan trang đức hạnh thì sống mãi với thời gian.

NỊCH ÁI VONG ÂN là tác phẩm giáo dục thanh niên gồm 440 câu. Vẫn tâm hồn nhà giáo dục toát lên lương tâm và trách nhiệm của các bậc làm cha mẹ. Từ những quan sát tinh tế đến những thực tế chứng minh. Cụ Sáu đã đưa ca vè trở thành một gia sư bình dân đồng cảm với mọi gia đình. Những tiêu chí cho chàng kết duyên với nàng mãi vẫn luôn là mực thước. Những chuẩn mực đạo đức đòi hỏi nơi người thiếu nữ thì không bao giờ thay đổi. Các bậc cha mẹ đã rất tâm đắc với Ca Vè Cụ Sáu:

“Tự nhiên cũng lắm thứ hoa

Coi xinh đẹp đẽ nhưng mà không thơm

Chớ bờm xơm rây vào mà chết

Lúc về nhà tính nết như ma

Làm cho cực khổ mẹ cha

Rầu rĩ trong nhà, mất nghĩa anh em”.

Những công trình về kiến trúc và giáo dục trên của Cụ Sáu trào lên những tâm tình biết ơn của bao thế hệ con cháu. Tưởng nhớ công ơn của Cụ và đón nhận được những ý niệm thâm trầm Cụ trao lại cho con cháu đã trở thành nghĩa vụ của những ai yêu mến Phát Diệm. Nhân ngày giỗ của Cha Phêrô Trần Lục (06/07/1899) và hiệp thông trong Năm Đức Tin, Toà Giám mục Phát Diệm tổ chức buổi toạ đàm về CÔNG TRÌNH CỤ SÁU để nhờ đó thế hệ hôm nay noi gương tiền nhân diễn tả đức tin theo văn hóa Việt Nam.

Nội dung được đề cập tới là

• Thân thế, sự nghiệp cha Phêrô Trần Lục.

• Đánh giá về công trình của Cụ Sáu nơi Đức Tin Kitô Giáo Hội nhập văn hoá Việt Nam.

Buổi toạ đàm cũng dành thời gian cho những cảm xúc của người giáo dân Phát Diệm bày tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với Cụ Sáu, người cha thân thương của Phát Diệm, cảm xúc này như những dư âm cần được luôn nối dài qua các thời đại.

Tuy nhiên, tất cả những gì thể hiện trong buổi toạ đàm này, chỉ là những nét chấm phá mở đường cho một Hội thảo có tính chuyên sâu do Đức Giám Mục giáo phận sẽ tổ chức vào thời điểm được coi là thích hợp nhất.

Nhưng cho dù có bao nhiêu chuyên đề và hội thảo khép lại thì Công trình Cụ Sáu vẫn là một công trình mở ra để đối thoại, hội nhập văn hoá Tin Mừng và in đậm dấu ấn của bản sắc văn hoá dân tộc.

Nhận thức trên đem đến một phương châm hành động, là luôn cần cập nhật những hội thảo chuyên đề về Công trình Cụ Sáu để tâm tình tri ân theo diễn đàn được mở rộng. Nếu thế thì buổi toạ đàm này là những nét khai phá cần thiết. Xin trân trọng giới thiệu những thuyết trình về nội dung buổi toạ đàm.

LM Phêrô Nguyễn Hồng Phúc


Bài 3: Cuộc Đời và Sự Nghiệp Cha Phêrô Trần Lục

Linh mục Phêrô Mai Văn Vọng

CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CHA PHÊRÔ TRẦN LỤC (CỤ SÁU)

Trong thời gian còn lưu học bên Hoa Kỳ, một lần tình cờ tôi gặp hai ông bà người Mỹ đã lớn tuổi, trong một buổi lễ tại nhà thờ Chính Tòa Oakland, miền Bắc tiểu bang California. Ông là nhà Văn người gốc Tây Ban Nha, bà là giáo viên đã nghỉ hưu. Trong câu chuyện xã giao, ông bà biết tôi là người Việt Nam, và nhất là đến từ Phát Diệm, nên rất vui mừng kể cho tôi nghe là hai ông bà đã đi du lịch hơn một tháng tại Việt Nam, thăm nhiều nơi, nhưng thích nhất vẫn là thăm nhà thờ đá Phát Diệm. Ông nói: “Tôi không thể ngờ được tại một miền quê xa xôi nghèo túng vào nửa cuối thế kỷ XIX, một linh mục người Việt chưa từng xuất ngoại, đã có thể xây dựng được một quần thể kiến trúc vĩ đại, mà các vua chúa Việt Nam thời đó cũng khó có thể làm nổi”. Tôi hỏi ông: “Điều gì ông tâm đắc nhất khi tham quan khu quần thể nhà thờ Phát Diệm?” Ông trả lời: “Điều tôi thích nhất đó là nét kiến trúc ở đây đã thể hiện rất hài hòa hai nền văn hóa Kitô giáo Âu Châu và nền văn hóa Viễn Đông cổ truyền.” Rồi ông đưa ra những bằng chứng chứng minh cho nhận định của ông. Ví dụ khi nói về nhà thờ Chính Tòa, ông nói: Ngôi nhà thờ này làm bằng gỗ sơn son thếp vàng, chạm khắc theo phong cách văn hóa Việt Nam, nhưng cấu trúc cao to thể hiện phong cách Âu Châu…

Thú thực, lúc đó tôi chỉ muốn bay luôn về nhà để tỉ mỷ tìm hiểu và chiêm ngưỡng ngôi thánh đường mình đã gắn bó từ khi có trí khôn cho đến bây giờ, mà vẫn chưa có những cảm nhận sâu sắc như một vị khách tham quan du lịch ở tận phương xa nửa vòng trái đất đã có về ngôi thánh đường vĩ đại này của chúng ta.

Nhưng khi đã về nhà sống và làm việc ngay tại nơi Quần thể kiến trúc vĩ đại này, tôi lại vẫn chưa làm được cái điều nguyện ước trên. Mãi đến bây giờ, khi được yêu cầu trình bày đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp của Cha Trần Lục, người đã thiết kế và xây dựng khu quần thể kiến trúc này, tôi mới tất bật đi tìm lại các tài liệu lịch sử đạo đời, cũng như những truyền khẩu sống động còn lưu truyền trong lòng giáo dân Phát Diệm có liên hệ đến Cha, để hy vọng có thể trình bày cách chính xác khách quan bao nhiêu có thể về thân thế và sự nghiệp của Cha.

A – Thân Thế Cha Phêrô Trần Lục

Về thân thế của Cha Phêrô Trần Lục, dựa vào các tài liệu viết về tiểu sử ngài, chúng ta có thể tóm tắt như sau:

Cha Phêrô Trần Lục sinh năm 1825, tại làng Mỹ Quan, tổng Cao Vĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ngài là con thứ hai trong gia đình gồm năm trai, hai gái. Cha ngài là Cụ Trần Văn Nhu quê gốc Nam Định, và mẹ ngài quê Thanh Hoa ngoại trấn (tỉnh Ninh Bình). Khi còn nhỏ, tên ngài là Phêrô Trần Văn Hữu. Năm mười lăm tuổi, ngài đi theo giúp lễ Cha Tiếu ở xứ Bạch Bát (nay là xứ Bạch Liên, Giáo phận Phát Diệm). Năm 1845, ngài nhập chủng viện Vĩnh Trị (về sau chuyển về Hoàng Nguyên, Hà Nội) và đổi tên là Triêm. Năm 1855, ngài theo học triết lý và thần học ở Kẻ Non. Khi đã chịu chức Phó tế và đang đi theo giúp Đức Cha Liêu và mấy linh mục ngoại quốc ở La Mát (đối diện xứ Kẻ Sở, Giáo phận Hà Nội), ngày 13 tháng 7 năm 1858, các ngài bị quan quân bao vây. Lúc đó thầy Triêm đóng giả “đạo trưởng”, mặc áo dài đen, đeo ảnh thánh giá lớn trên ngực, tự ý ra nộp mình, để Đức Giám Mục và các linh mục ngoại quốc có đủ thời gian trốn sang Đồng Bầu (thuộc xứ Khoan Dụ). Sau đó, thầy Triêm phải đi đầy ở Lạng Sơn (tại đây, một số giáo dân cũng bị đi đầy như ngài yêu mến gọi ngài là “Cụ Sáu”; và vì ngài đã quá nổi tiếng vào thời điểm này, nên sau này khi đã là linh mục, người ta vẫn gọi ngài là Cụ Sáu). Năm 1860, nhân chuyến được phép về thăm nhà, ngài lãnh tác vụ linh mục tại Kẻ Trừ, Hà nội. Năm 1862, với Sắc chỉ tha đạo, ngài được trả tự do, về coi ba xứ Mỹ Diệm, Kẻ Rừa, và Tam Tổng. Từ năm 1865 cho tới khi qua đời năm 1899, ngài là Cha chính xứ Phát Diệm.

B – Sự Nghiệp Cha Phêrô Trần Lục

Trong phạm vi của một bài nói chuyện, chúng tôi chỉ xin được trình bày rất tóm tắt về sự nghiệp của Cha, được thể hiện nơi những công trình Cha để lại (Quần thể kiến trúc Nhà thờ Chính tòa Phát Diệm, và các tác phẩm thơ ca như: Hiếu Tự Ca, Nữ Tắc Thường Lễ, Nịch Ái Vong Ân, bài Than Mồ Đứng Trước Hiếu Sơn, và các bài Vãn Dâng Hoa), và nơi một số tác phẩm của những người con Phát Diệm hậu duệ của ngài viết về ngài, qua ba nét chính sau:

• Một Mục tử nhiệt thành.

• Một Công dân gương mẫu.

• Một nhà tri thức uyên thâm.

• Cha Phêrô Trần Lục – Một Mục Tử Nhiệt Thành

Khi đọc qua tiểu sử Phêrô Cha Trần Lục, các tác phẩm thơ ca của ngài, đặc biệt khi chiêm ngưỡng công trình Nhà thờ Phát Diệm, chúng ta dễ dàng nhận ra điều này: Dù khi chưa chịu chức linh mục hay khi đang thi hành chức vụ linh mục, và cả khi vì đức vâng lời để tham gia một số công tác xã hội, cha Trần Lục đã luôn có một mối ưu tư lo lắng mục vụ rất sâu xa. Cha lo lắng làm sao để cho giáo dân hiểu biết giáo lý đầy đủ, hầu giúp họ sống đức tin và tăng trưởng đức tin đã nhận được.

1. Dạy giáo dân sống đạo qua công trình xây dựng Nhà thờ:

Chúng ta có thể tóm lược mối quan tâm lo lắng mục vụ của Cha Trần Lục được thể hiện qua công trình xây dựng Nhà thờ với những khía cạnh sau:

- Lo cho giáo dân có được của ăn Lời Chúa thật dồi dào. Chúng ta biết thời xưa giáo dân rất ít được tiếp xúc với Kinh Thánh, và hầu như không có cơ hội đọc Lời Chúa. Ý thức được tầm quan trọng của việc sống Lời Chúa, Cha đã chuẩn bị cho các tín hữu của ngài có của ăn bồi bổ linh hồn được rút ra từ Lời Chúa. Những của ăn này được ghi khắc khắp nơi qua các bia tích trên các nhà thờ, các hang đá và cách xây dựng nhà thờ. Ở đây chúng tôi chỉ xin trưng ra một số câu bia ghi tạc Lời Chúa (đã được diễn nghĩa) trên các phần nhà thờ để làm ví dụ: Tấm bia bằng tiếng Latinh ở phía cực Đông mặt tiền Nhà thờ Chính tòa: Kính chào Đức Maria, Con của Thiên Chúa Cha. Kính chào Mẹ của Thiên Chúa Con. Kính chào bạn trăm năm của Chúa Thánh Thần… (Bài khắc này được coi như lời kinh chúc tụng Mẹ Maria được gợi hứng sâu xa từ Kinh Thánh. X. Sph 3,1.14; Lc 1,2.3; Gl 4,4; Lc 1,35); mười lăm bức phù điêu, tạc mầu nhiệm Mân Côi nội dung được rút ra từ Lời Chúa trong Tin Mừng (biến cố Truyền Tin: Lc 1,26-38, thăm bà chị họ Elisabeth: Lc 1,39-54, …); mặt trước bàn thờ chính trong nhà thờ Trái Tim Chúa Giêsu có khắc những con vật tượng trưng Chúa Giêsu: Bên trái: Con Chiên (Chúa Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa – Ga 1,36; Kh 21,1), bên phải: Con Sư tử (Chúa Giêsu là sư tử chiến thắng – St 49,9; Ez 19,1-9; Kh 5,5); v.v…

Tấm Bia ở phía Đông mặt tiền Nhà Thờ Chính Tòa

- Lo cho họ thực hành đời sống Bí tích cách cụ thể. Ý thức rằng Thánh Thể là trung tâm của đời sống người tín hữu, cha Trần Lục đã muốn đưa các tín hữu của ngài vào mầu nhiệm và hy tế Thánh Thể. Ngay từ Phương Đình, là “Thánh Cung Bảo Tòa”, ngài đã đặt “Trạm tôn thờ Thánh Thể”, và từ đó, các tín hữu tiếp tục đi vào trong Nhà thờ Lớn, nơi cử hành Hy tế Thánh Thể, nơi nhận các Bí tích. Phía trên các bình nước thánh ở cửa ra vào Nhà thờ cũng có những lời nhắc nhở tới Bí tích Thanh Tẩy mà mỗi tín hữu đã lãnh nhận, cũng như thái độ phải có khi cầu nguyện. Ví dụ: phía trên các phù điêu tạc sáu thiên thần cầm bình nước phép ở trên tường của năm lối vào từ cuối nhà thờ, từ Phải sang Trái, chúng ta đọc được sáu câu latinh trích từ Kinh Thánh:

* Quoecumque orantes petitis, credite quia accipietis - Khi cầu nguyện, bất cứ anh em xin điều gì, hãy tin rằng sẽ được (x. Mt 7,7tt).

* Orate et petite ut publicanus et leprosus - Hãy cầu nguyện và xin như người thu thuế và người phong cùi (x. Lc 18,9-14; 5,12-14; 17,11-19).

* Proepara animam tuam, noli tentare Dominum tuum - Hãy chuẩn bị linh hồn bạn, đừng thử thách Chúa của bạn (x. Mt 4,7).

* Quam terribilis est iste locus: hic est domus Dei - Nơi đây đáng sợ chừng nào: đây là nhà Thiên Chúa (x. St 28,17).

* Petite ut aperiatur vobis, dimittite si quid habetis, adversus aliquem - Anh em hãy xin để cửa mở ra cho anh em, hãy tha thứ nếu anh em có hận gì với ai (x. Mt 7,7).

* Vigilate et orate, ut non intretis in tentationem - Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ (x. Mt 26,41).

Bức phù điêu Thiên thần cầm bình nước phép ở trên tường lối vào Nhà thờ

- Lo cho họ thực hành các việc đạo đức bình dân: Cũng qua các bia tích, chúng ta nhận ra lời dạy của Cha Trần Lục gửi tới các tín hữu của ngài: lòng tôn sùng Thánh Thể ngoài Thánh lễ (như đã nói trên); việc tôn sùng Trái tim Chúa Giêsu (Nhà thờ Trái Tim); việc lần hạt Mân côi; việc suy ngắm các chặng đàng Thánh giá (hai bên gian cung thánh); việc tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria (tước hiệu Mân Côi nhà thờ Chính tòa, nhà nguyện Trái Tim Đức Mẹ), thánh cả Giuse (nhà nguyện thánh Giuse); các thiên thần (mười hai thiên thần chung quanh ảnh Đức Mẹ Mân Côi ở gian cung thánh, các thiên thần thổi loa trên nóc tháp nhà thờ); các thánh (cả Cựu Ước lẫn Tân Ước), nhất là các thánh tử đạo Việt Nam; việc suy niệm về các thực tại sau cùng của đời sống con người (hai thiên thần cầm Thánh giá và hai thiên thần khác thổi loa ở trên đỉnh tháp Nhà thờ); việc dùng nước thánh khi vào nhà thờ; và việc kính viếng các núi tưởng niệm các biến cố trong cuộc đời Chúa Giêsu (vườn Giêtsimani, hang sinh nhật, hang táng xác) …

2. Dạy giáo dân sống đạo qua các bài ca vè tôn giáo

Việc thực hành đạo đức bình dân này còn được thể hiện rõ qua các bài ca vè tôn giáo ngài đã viết ra. Các bài ca vè này là những kinh nguyện, ca vè đọc trong nhà thờ, theo từng mùa Phụng vụ, cũng như các ca vè Công Giáo bình dân đọc tại nhà, nơi ruộng đồng... Các bài ca vè này mang đậm chất giáo lý và những suy tư rút từ Kinh Thánh. Ví dụ, khi viết bài Than Mồ dưới hình thức phúng điếu người quá cố, ngài trình bày cuộc đời Chúa Giêsu cách đơn sơ vắn gọn, dưới hình thức một lời tâm sự về một tình yêu thương được biểu lộ trong đau khổ và trong cái chết. Rồi khởi đi từ việc mô tả cuộc đời Chúa Giêsu, ngài đưa tín hữu vào sâu trong nhiệm cục cứu rỗi của Thiên Chúa, qua cái chết của Chúa Giêsu mà họ đang suy niệm, than khóc và nhớ thương.

Có thể nói, với bài ca vè Than Mồ này, Cha Trần Lục đã rất khéo léo vận dụng, trình bày chân lý Cứu Độ một cách cụ thể phù hợp với tâm thức con chiên Việt Nam của mình, để mỗi lần nhắc đến bài ca vè này, cả một lịch sử cứu độ của Thiên Chúa lại sống động lên trong tâm trí họ. Ngày nay, ai xưng mình là giáo dân Phát Diệm, thì không thể không biết đến bài ca vè Than Mồ này. Có những người không biết vì lý do nào đó mà mỗi năm chỉ đến nhà thờ được hai lần, thì một trong hai lần đó là họ đi tham dự Ngắm Đứng và nghe Than Mồ.

• Cha Phêrô Trần Lục – Một Công Dân Gương Mẫu

Chúng ta ai cũng biết, ngoài đời sống thiêng liêng kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện chiêm niệm, công việc chính yếu của một linh mục là lo mục vụ cho giáo dân. Các công việc ngoài xã hội, tuy không phải là chính yếu đối với bổn phận linh mục, nhưng khi cần thiết, thì ngài cũng tham gia, và thậm chí phải vâng lời để tham gia. Cha Trần Lục là một linh mục đã sống tinh thần này. Không chỉ là một mục tử tốt lành hết lòng lo cho đời sống đạo của giáo dân, Cha Trần Lục còn lo phát triển kinh tế cho cả dân chúng trong vùng nữa. Linh mục Trần Công Hoán, một người sinh ra, lớn lên và đi tu tại Phát Diệm, hít thở trong truyền thống nối tiếp Cha Trần Lục, đã viết về công cuộc cứu dân giúp nước của Cha Trần Lục như sau:

“Khi về nhận xứ Phát Diệm, một nơi bùn lầy, nước mặn chua phèn, dân tình nghèo khổ. Việc khẩn cấp cha phải thi hành ngay là khôi phục sự an ninh. Hồi ấy cướp bóc lung tung, nhà nào hơi có máu mặt, rất có thể là mồi ngon cho bọn cướp. Bàn bạc với quan phủ huyện, ngài lập dân vệ ở mỗi làng, làm điếm canh, hễ nghe dân kêu làng, các làng chung quanh phải đến tiếp ứng, đôi khi chính cha đứng chỉ huy.

…Tiếp tục công trình khai hoang của Cụ Nguyễn Công Trứ, Cha Trần Lục đã huy động nhân dân đắp những con đê nhỏ, đắp thêm đê mới, đào ngòi, xây cống, dựng cầu… cho nên chẳng bao lâu Phát Diệm – Kim Sơn đã trở thành trù phú, đời sống người dân được nâng cao và sung túc”.

Việc lo phát triển kinh tế cho dân luôn là mối bận tâm của Cha Trần Lục, nhưng việc lo cho họ được bình an sinh sống có lẽ còn là mối bận tâm hơn nữa đối với ngài. Chúng ta biết, dù Triều đình Huế đã có sắc chỉ cho giáo dân được tự do giữ đạo (1862), nhưng một số quan lại từ triều đình đến địa phương vẫn còn ghét đạo. Khi nhóm Văn Thân nổi lên làm loạn với chủ trương triệt hạ các làng Công Giáo, thì các quan quân này đã không dẹp, thậm chí còn dung túng. Trước tình hình này, dù không muốn, Cha Trần Lục cũng vẫn phải ghé vai gánh vác trách nhiệm. Chúng ta hãy nghe Cha Trần Công Hoán kể tiếp:

“Khi thấy tình hình tang tóc và đẫm máu, nhất là trong ba tỉnh Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa, và không thể nào dẹp nổi, quan Kinh lược Nguyễn Hữu Độ đến Phát Diệm gặp cha Sáu kể tình hình, rồi yêu cầu cha nhận chức Tuyên phủ sứ, để cùng với các quan lập lại trật tự và an ninh nhưng cha nhất định không nghe. Thấy vậy, quan mật tâu vào Kinh, xin Vua lấy quyền ép cha phải nhận và phong cha làm Tham Tri, sung Lưỡng quốc khâm sai tuyên phủ sứ, giao hẳn cho ngài quyền trấn an trong ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, và Hà Tĩnh. Nhận được tờ mật sớ, Vua liền châu phê: ‘kẻ dùng người hiền thì đáng trọng thưởng, nhà ngươi liệu như vậy thì thậm phải lắm. Việc mà được trôi xuôi là do người hiền biết dụng người hiền. Trẫm đã xét, phải tuân như vậy’”.

Sự việc này xảy ra vào năm 1885. Khi nhận được sắc chỉ của Vua, Cha Trần Lục rất lo lắng bối rối không biết sẽ phải xử trí thế nào, nên ngài đã trình bày sự tình với Đấng Bản quyền lúc bấy giờ là Đức Cha Pugninier (Phước) đang ở Kẻ Sở. Và tại đây, chính Đức Cha Pugninier cũng không thể đưa ra quyết định ngay được, nên đã xin để một đêm cầu nguyện và suy nghĩ. Sáng hôm sau, Đức Cha đã truyền cho ngài đi thi hành nhiệm vụ với điều kiện là phải thực hiện trong thời gian càng ngắn càng tốt.

Theo tác giả Vũ Huy Bá, “Nhờ sự hỗ trợ thiêng liêng là cầu nguyện và với tài trí thiên phú, Cụ Sáu đã làm cho Lương – Giáo hiểu nhau, sống hòa hoãn trong an cư lạc nghiệp và phe đảng Văn thân phải sợ uy danh mà phần đông ra đầu thú, chỉ còn một ít lẩn lút vào rừng. Từ đó danh tiếng Cụ Sáu ngày một lên cao, nên đã nảy sinh ra sự đố kỵ, ghen tương nơi các quan cả Pháp lẫn Việt. Đức Cha Pugninier theo dõi sát công việc của Cụ Sáu và thấy rõ tình thế đó, ngài liền khuyên Cụ Sáu từ nhiệm sau ba mươi lăm ngày hoạt động”.

Sự kiện này cũng đã được chính Cha Trần Lục ghi lại trong Tự Tình của ngài như sau:

Tấm lòng vì nước vì dân.

Lo vui Lương-Giáo đồng nhân bao nài.

Ép mình vâng lệnh Khâm sai,

Song bề giảng giáo khôn nguôi lòng mình.

• Cha Phêrô Trần Lục – Một Nhà Tri Thức Uyên Thâm

Không chỉ là một mục tử nhiệt thành, một công dân gương mẫu, Cha Trần Lục còn là một nhà tri thức uyên thâm hiếm có. Dù sống trong một giai đoạn lịch sử mà vai trò của các linh mục Công Giáo “annamites” không được nhìn nhận đúng mức, thì Cha Trần Lục vẫn được báo chí và chính khách cùng thời nhận định đánh giá rất cao. Chúng tôi xin trưng dẫn một vài nhận định ở đây để làm ví dụ:

Thống chế Hàn lâm Viện sĩ Lyautey, trong Lettres du Tonkin et de Madagaskar, đã viết: “Ở Phát Diệm có Cụ Sáu, một linh mục quả cảm, gương mẫu và luôn khát vọng hoàn thành từ việc nhỏ đến việc lớn. Sinh ra, Cụ có thiên tài về kịch nghệ và văn thơ. Cuộc đời Cụ nổi tiếng từ khi là thày Sáu tại trại lao giáo Lạng Sơn. Từ khi làm chính xứ Phát Diệm chỉ biết phục vụ Giáo Hội và dân nghèo”.

Tác giả Thiện Đình, trong tác phẩm Nguyễn Tựu Tiên Sinh Truyện, khi đề cập đến nhân vật Cụ Sáu, cũng đã viết: “Ông Trần Lục sống cùng thời với ông Nguyễn Trường Tộ … Ông Trần Lục chuyên về học thuật và việc giảng đạo. Sau Triều đình có trao cho chức Nguyên phủ sứ và sắc cho lá cờ ‘tiền thanh tra hậu giảng đạo’… Ông Trần Lục là người có kiến thức”. Chúng ta sẽ bàn đến lãnh vực tri thức của Cha Trần Lục theo hai khía cạnh sau:

• Kiến Trúc Sư Tài Giỏi

Để nói về công trình kiến trúc tài khéo của Cha Trần Lục, không ai có thể diễn tả xuất sắc hơn Đức Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (1868-1949), vị Giám mục Việt Nam tiên khởi và cũng là Giám mục Phát Diệm chỉ mấy chục năm sau khi Cha Trần Lục qua đời. Đức Cha đã mô tả công trình này trong bài Diễn Văn của ngài về Cha Trần Lục, được đăng trên báo L’Avenir du Tonkin, số ngày 29/9/1938, như sau:

“Nhà thờ Chính toà [Phát Diệm] có hình ảnh trong hàng trăm quyển tạp chí các nước, các nhà mỹ thuật trứ danh nhất các nước cũng đều công nhận, hoan nghênh và tán dương sự khéo léo, khiếu thẩm mỹ và cái tài tuyệt xảo trong nền mỹ thuật của nước ta, cùng khâm phục tính kiên nhẫn lạ lùng của chúng ta trong sự cố gắng làm cho thành những công việc khổng lồ, đang khi chỉ có những phương kế thô lậu đơn sơ.

Ta hãy tưởng tượng đến nguyên một cái công phu chở những khúc gỗ nặng tới 10 tấn, tức là một vạn cân một khúc, qua hơn 200 cây số; những tảng đá có nhiều tảng đến 7 thước khối, cạy ở trên núi đem về Phát Diệm trên con đường xa 30 cây số; những phiến đá hoa nặng 6, 7 tấn, không có máy trục mà cũng kích lên cao được tới 5, 10 và 12 thước.

Các ngài hãy đến ngắm nghía cái công trình của những người thợ kiên nhẫn ở khắp các nơi trong xứ Bắc kỳ, đã đến Phát Diệm mà đục chạm, đánh bóng, cùng tô điểm những cái cột khổng lồ kia, những tấm đá hoa đủ các màu kia. Các ngài hãy đến Phát Diệm mà xem người ta đã dùng cách gì mà làm được cho đất phù sa nên chắc nịch, nhờ đóng xuống đấy một rừng tre sâu tới 30 thước. Các ngài hãy vào trong nhà thờ chính toà Phát Diệm mà ngắm 52 cái cột bằng gỗ lim, chu vi mỗi cái 2 thước 4 tấc, thân cao 12 thước; các ngài hãy ngắm cả ‘cái bàn thờ chính đục nổi chạm bóng mà sơn son thếp vàng chói lọi có lẽ khắp hoàn cầu, không có những nhà thờ nào rực rỡ như những nhà thờ ở Phát Diệm, trùng trùng điệp điệp những bức cuốn, càng vào trong càng lộng lẫy’ (Yvonne Schultz, tạp chí Illustration ngày 9 Novembre 1929).

Không thể dùng lời nói mà diễn lại được hết cái công nghiệp của Cụ Sáu là một nhà kiến trúc, một nhà công tác, một nhà điêu khắc, một người huy động hàng trăm thợ thuyền làm việc dưới quyền mình. Những cảnh diễn lại sự tích trong Kinh Thánh, đều có bóng lá sen, cây cau, cây chuối che phủ, và ở trên lại có mấy pho tượng thiên thần, trông hình như nhà bày cảnh muốn đem cái tâm hồn nước Nam thu vào một cảnh con con tươi đẹp ấy để dâng lên đấng Chí Tôn ngự nơi cửu trùng vậy.

Danh tiếng Cụ Sáu một ngày một vang lừng đồn dậy vì những công trình vĩ đại như thế. Đến Hoàng đế Tự Đức bây giờ cũng tỏ lòng yêu mến Cụ. Trên những kim khánh của nhà vua gửi thưởng cho Cụ, có khắc những câu như sau này: ‘Lời nói của Cụ làm cho ai nấy tín nhiệm. Cụ làm cho khắp chốn được thái bình. Cụ là người tài giỏi biết giáo dục dân chúng và đem hạnh phúc cho họ. Cụ là người ngay thẳng có một’”.

Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây những dấu mốc lịch sử các công trình đồ sộ trong quần thể Nhà thờ Phát Diệm mà Cha Trần Lục đã lần lượt xây cất:

Năm 1875: xây Núi Táng Xác vừa để tạo cảnh quan, nhưng quan trọng hơn là nhằm mục đích thử độ lún của đất bồi. Núi này từ năm 1954 được đổi tên thành Núi Sinh Nhật.

Năm 1883: xây nhà nguyện Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ. Nhà nguyện này hầu như hoàn toàn bằng đá và được coi là viên ngọc trong quần thể Nhà thờ Phát Diệm.

Năm 1888: xây nhà nguyện dâng kính Trái Tim Chúa.

Năm 1891: dựng Nhà thờ Lớn dâng kính Đức Mẹ Mân Côi. Đây là công trình quan trọng nhất, cũng là công trình đòi hỏi nhiều nhân tài vật lực nhất, khởi công từ năm 1875.

Năm 1895: xây nhà nguyện kính thánh Gioan Tiền Hô. Năm 1923, nhà nguyện này được đổi tên thành nhà nguyện kính thánh Rôcô.

Năm 1896: xây ba công trình: Vườn Giêtsimani, từ năm 1925 đổi thành núi Lộ Đức; nhà nguyện kính thánh Phêrô; và nhà nguyện kính thánh Giuse.

Năm 1898: xây Hang Bêlem, sau này đổi tên thành Núi Sọ.

Năm 1899: xây Phương Đình. Đây là công trình sau cùng, và theo ý kiến của nhiều người, là công trình tinh tế nhất và đẹp nhất trong quần thể nhà thờ Phát Diệm.

Trong những thập niên gần đây, người Công Giáo chúng ta nói nhiều về Hội nhập văn hóa trong Truyền giáo. Đây là kết quả của tiến trình đổi mới suy tư thần học trong Công đồng Vatican II (1962-1965). Đối với nhiều người Công Giáo Việt Nam hiện tại, việc hội nhập văn hóa trong công tác truyền giáo xem ra vẫn còn mới mẻ lạ lẫm, thì cách đây hơn một trăm năm, Cha Trần Lục đã đi tiên phong và đã thành công trong việc hội nhập này. Ngày nay, không một người Công Giáo nào khi chiêm ngắm quần thể nhà thờ Phát Diệm, lại không công nhận đây là một công trình hội nhập văn hóa vào Tin Mừng. Nói cách khác: qua công trình kiến trúc nhà thờ Phát Diệm này, Cha Trần Lục đã đưa Tin Mừng vào văn hóa Việt Nam.

Tác giả Kim Ân (cha Trần Minh Thực), khi giới thiệu quần thể kiến trúc nhà thờ Phát Diệm cho khách thập phương, đã khẳng định “Cả quần thể [Phát Diệm] này như một tiếng nói sống động phản ánh tâm thức người Việt Nam”.

Nhà nghiên cứu Phạm Đình Khiêm, trong bài viết “Trần Lục: Hai Sứ Điệp Trên Đá”, đã đưa ra những lời nhận xét thật chí lý về Cha Trần Lục: “Cụ giữ vững tinh thần dân tộc và tìm được ở đó những hướng dẫn công trình xây dựng của Cụ”; và về quần thể kiến trúc: “Du khách đến Phát Diệm, chiêm ngưỡng kỳ công kiến trúc của Cụ Sáu, nếu lòng biết hỏi lòng, tất sẽ rạo rực lên trước cái tinh tuý hiển hiện của tinh thần Việt Nam, cái hào khí của dân tộc Việt Nam như quyện lấy cái linh thiêng của tôn giáo nơi đây”.

Nhưng tâm đắc nhất vẫn là lời nhận xét của tác giả Trần Cao Tường về công trình hội nhập văn hóa của Cha Trần Lục: “Công trình Việt hóa Đạo Chúa của Cụ Sáu Trần Lục quả là tài tình và sâu sắc. Không như một hoa hòe hoa sói hay do tự ái dân tộc, mà phát xuất từ một bắt buộc, vì muốn đạo Chúa thấm vào trong mạch máu và rung được trong tế bào người Việt… Cũng chỉ có một con đường thôi. Đó là khi đạo thể hiện mang thịt mang xương. Ngôi Lời đã mang thịt xương làm người. Đạo đã mang thịt xương Do thái. Đạo đã mang thịt xương Hy lạp. Đạo đã mang thịt xương Rô ma. Đạo đã mang thịt xương văn hóa Âu Mỹ. Thì nay, với công trình Cụ Sáu Trần Lục, đạo đang mang thịt xương Việt để cắm lều giữa lòng văn hóa dân Việt mà mang đến Tin Mừng cứu độ”.

• Nhà Văn, Nhà Thơ Công Giáo Được Ưa Chuộng

Ngoài biệt tài kiến thiết quần thể Nhà thờ Phát Diệm, Cha Trần Lục còn là một nhà văn, nhà thơ Công Giáo rất được mến mộ. Như đã đề cập ở trên, Cha đã sáng tác rất nhiều kinh nguyện, ca vè đọc trong nhà thờ, theo từng mùa Phụng vụ, cũng như các ca vè Công Giáo bình dân đọc tại nhà, nơi ruộng đồng... Các bài ca vè này mang đậm chất giáo lý, nhưng cũng đầy hồn thơ, tính triết lý và những hình ảnh gần gũi thân thương phản ánh văn hóa lối sống của người dân Việt bình dân.

Trong số các tác phẩm Cha Trần Lục còn để lại cho hậu thế, chúng ta phải kể đến khoảng sáu nghìn câu thơ vừa lục bát, vừa song thất lục bát, và thơ bốn chữ. Tất cả được gộp lại trong Sách Thuật Lại Ít Nhiều Ca Vè Cụ Sáu do nhà Thiện Bản Ninh Bình ấn hành năm 1911, tái bản năm 1914 và 1920, gồm bốn cuốn:

Cuốn I viết về thánh Gioakim, thánh nữ Anna và Đức Mẹ Maria.

Cuốn II viết về Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần.

Cuốn III viết về sự tích nhà thờ Trái Tim ở Phát Diệm và hạnh tích một số vị hiển thánh.

Cuốn IV chuyên chú về giáo dục, gồm ba tác phẩm:

• Hiếu Tự Ca (1088 câu): nói về chữ hiếu của con cái đối với cha mẹ tổ tiên.

• Nữ Tắc Thường Lễ (1016 câu): Dựa theo đạo tam tòng (phụ, phu, tử) và tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh), để đưa ra những nguyên tắc ứng xử thông thường cho các thanh thiếu nữ để trở thành người đạo hạnh (thảo kính cha mẹ, lo liệu công việc nhà, giao tiếp ngoài xã hội, dáng điệu đi đứng, cử chỉ khi ngồi, lời ăn tiếng nói, cách thức trang phục và trau dồi nghề nghiệp).

• Nịch Ái Vong Ân (440 câu): Đây là những chỉ dẫn dành cho thanh niên (cách đối xử với vợ, với cha mẹ hai bên: chớ chìm đắm trong tình ái mà quên ơn nghĩa sinh thành).

Phải nói cách công tâm rằng: Các bài ca vè của Cha Trần Lục đúng thật là “ca vè”, chứ chưa thể gọi là những áng thơ chuyên nghiệp được, vì lời văn của các bài vè này còn rất thô sơ mộc mạc đúng chất ca vè. Nhưng chính cái đơn sơ mộc mạc này lại làm thành cái rất đặc biệt, rất riêng của Cha, trong vai trò một mục tử nhân lành luôn quan tâm chăm sóc từng li từng tí cho con chiên, không chỉ về đời sống đạo, nhưng cả về đời sống nhân bản nữa. Ví dụ: Trong tác phẩm Nữ Tắc Thường Lễ, Cha đưa ra tám điều dạy nhân bản cho các thanh thiếu nữ, giúp họ biết cách ứng xử sao cho phải đạo đối với cha mẹ, hay biết làm những việc “nữ công gia chánh”. Có một điều thú vị là, khi ngài đã dạy điều gì, thì ngài dạy một cách rất chi tiết từng li từng tí. Có lẽ trong văn học dân gian Việt Nam, chưa có tác phẩm gia huấn ca nào khi bàn đến “cách ngồi” của nữ nhi, lại bàn chi tiết như chúng ta thấy trong Nữ Tắc Thường Lễ:

Thứ năm ta nói đến điều:

Nữ nhi thật nhiều đứa ngồi dở dang

Ngồi đừng ngồi như chão chàng

Cũng đừng ngồi xổm mà càng khó coi.

Ngồi cho đĩnh đạc hẳn hoi

Chớ đừng ngồi xổm kéo người nhỡ ra.

Ngồi đừng chân duỗi chân co.

Ngồi đừng lâng láo như trò trẻ con.

Ngồi đừng hai gối bó tròn.

Ngồi đừng xoay xở trông nom người ngoài.

Ngồi đừng chân duỗi cả hai

Cũng có người ngồi chân bỏ đưa đu.

Đừng ngồi chồm chỗm bao giờ.

Đừng ngồi chống nạnh thế mà không xong.

Đừng ngồi bậc cửa mà trông.

Đừng ngồi mà lấy tay nâng đỡ cằm.

Đừng ngồi mặt mũi sa sầm

Như buồn như giận mà căm chuyện gì.

Ngồi đừng có ngảnh mặt đi

Ra như kiêu hãnh vậy thì khó coi.

Ngồi đừng vác mặt trông giời

Vác mặt như thế là người kiêu căng.

Ngồi đừng trông vách như rằng

Không thèm nói chuyện lằng xằng dơ tai.

Ngồi đừng ngáp ợ vươn vai

Vặn mình bẻ đốt ngón tay làm gì.

Ngồi đừng vo tay làm chi

Cũng có khi thì vạch đất mà chơi.

Khi ngồi quần áo hẳn hoi

Ở cho nhiệm nhặt, lôi thôi thì đừng.

Khi ngồi đừng có quay lưng

Những điều thể ấy thì đừng, chừa đi.

Nghe rằng cũng có nữ nhi

Vắt chân chữ ngũ phỏng thì không không.

Ngồi đừng ngồi vuối đàn ông

Phải giữ cho lắm ra công mới hòng.

Điều này nhi nữ làm lòng

Đừng ngồi kề gác không xong đâu mà.

Vách cột cũng phải tránh ra

Ngồi nấp vách cột ấy là người ngu.

Ngồi đừng dựa dẫm người ta.

Ngồi đừng trò chuyện đàn bà đàn ông.

Ngồi đừng ngồi ngã vào lòng,

Hay ngồi gục xuống bên hông người nào…

Có lẽ cũng chính vì cái chất đơn sơ mộc mạc và rất chi tiết cụ thể trong các bài ca vè của Cha, mà nó đã đi sâu được vào lòng những người thôn quê bình dân hầu như không được học hành. Và vì nó đi vào lòng người, nên nó trở thành có giá trị và được mến chuộng. Thực ra, những tác phẩm này của Cha Phêrô Trần Lục không chỉ được mến chuộng nơi những người nhà quê, nhưng nó còn được mến chuộc không kém nơi nhiều nhà tri thức nho giáo, và các quan lại triều đình đương thời.

Kết Luận:

Chỉ vài nét phác họa rất nhanh về cuộc đời và sự nghiệp của Cha Phêrô Trần Lục cũng đủ để chúng ta nhận ra nơi ngài mẫu gương tuyệt vời của một mục tử nhiệt thành, một công dân gương mẫu, và một tri thức lỗi lạc. Ngày nay cha Phêrô Trần Lục đã trở thành người thiên cổ, nhưng di hài của Cha vẫn còn đây giữa khuôn viên quần thể kiến trúc lịch sử của Cha; tinh thần của Cha vẫn còn sống động nơi trăm ngàn con tim của giáo dân Phát Diệm xa gần.

Giờ đây chúng ta có thể nói được điều gì về Cha? Nếu còn ngại ngùng, thì chúng ta hãy để Vua Đồng Khánh nói thay cho chúng ta. Trong sắc phong cho Cha Trần Lục chức Nam Tước phẩm Thượng Thư vào năm 1925, Đức Vua đã viết: “Trẫm nhớ Ông Trần Lục, một linh mục hưu, đã mất: vị anh tài của nước, cựu thần của tiền triều, bậc cứu thế độ dân, theo đạo mầu La mã. Lòng trong sạch, học lực cao sâu, ví được như Nguyên Long, biết cơ sáng tối, biết lẽ cương mềm, lừng tiếng hơn người trong và ngoài nước. Nên ra nên ẩn, nên nói nên không, đạo biến ông thảy đều xuôi xắn. Tuần duyên đâu, dân thảy đều được an lạc, như Phục Hâm xưa giữ cõi Bình Nguyên, trấn thủ đâu, hạng lang yêu phải tuyệt hết, cũng như thể Thể Thích vững được Trấn Áp nhờ bức thành dài. Muốn được thịnh dân giầu, ông chú vào những kế sâu xa: khẩn điền lập ấp, lại biệt tài về cách kinh doanh, bể một góc mà ông mưu thành nên nơi dân đông đúc, nửa Ninh Bình…”

Để kết luận, chúng tôi xin mượn lời thơ của Phước Môn Bá Nguyễn Hữu Bài, đã ngẫu hứng viết ra trong một lần về thăm Phát Diệm (năm 1928). Những vần thơ này đã được khắc bên nấm mộ của Cha Trần Lục, để nó sẽ được theo Cha sống mãi trong cõi đời đời:

Trước mồ, đứng sững, lụy châu rơi;

Phảng phất thần tình, thấy rạng Người.

Đạo đức thơm lừng, năm cõi đất;

Công danh sáng dậy, một phương trời.

Thánh đường, rường cột, cây không hủ;

Cửu tháp tầng thành đá chẳng rời.

Khoát sắt, thơ son, truyền sự nghiệp.

Trung trinh hai chữ để gương đời.

Phát Diệm, 22.06.2013


Bài 4: Hội nhập văn hóa - Một chọn lựa căn bản của cha Phêrô Trần Lục

Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê

Dẫn nhập:

“Phát Diệm”, không chỉ là tên gọi của một vùng dân cư thuộc huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, mà còn, là tên gọi thân thương của một cộng đoàn Công Giáo địa phương: “Giáo xứ Phát Diệm”, đặc biệt, còn được đồng hóa với quần thể kiến trúc “nhà thờ Phát Diệm”, do cha Phêrô Trần Lục xây dựng từ năm 1875 – 1899.

Nói đến Phát Diệm, là nói đến “nhà thờ lớn” và dĩ nhiên, là phải nói tới Cụ Sáu, Tác giả của công trình kiến trúc độc nhất vô nhị này tại Việt Nam.

Bộ ba: Phát Diệm, nhà thờ đá, “Cụ Sáu”, đã hòa quyện trong ký ức của người Phát Diệm xưa và nay, tạo thành một dòng chảy “Ân nghĩa” không ngơi nghỉ bồi đắp nên một Phát Diệm: Đẹp về nhân cách, đẹp về địa danh. Thật vậy, “Bộ ba” ấy đã làm nên chất người Phát Diệm thế nào, thì cũng đã thấm nhập vào máu thịt Cụ Sáu như vậy: Phát Diệm và Cụ Sáu đồng hóa với nhau: “Quả thế, tên Phát Diệm và tên linh mục Trần Lục ngay từ ban đầu đã được Thiên định gắn liền với nhau, để rồi sẽ không bao giờ ly tán”, đến nỗi Lyautey, Nguyên Soái và thành viên Hàn Lâm Viện Pháp, đến thăm Phát Diệm, năm 1896, đã viết lại cảm tưởng của mình: “Phát Diệm, tức là Cha Sáu, là một linh mục Việt Nam đã cao niên, một trong những vị anh hùng khiêm tốn, một trong những con người khát khao hoạt động, có khả năng thành công trong bất cứ sự nghiệp nào, bởi vì xuất thân để đóng những vai trò quan trọng, và nếu không gặp vai trò quan trọng, thì chính những cái nhỏ bé của ngài đã là sự nghiệp vĩ đại rồi”.

Bởi đâu Cụ Sáu trở thành nhân vật thời danh và vĩ đại như thế? Câu trả lời đó là: Cụ Sáu, điểm hẹn hò giữa đức tin và văn hóa Việt Nam. Ngài đã chọn cho mình một lối đặc thù “hội nhập văn hóa” để chu toàn nhiệm vụ “thầy dạy đức tin”.

Trong “Năm Đức Tin” này, mọi thành phần dân Chúa được mời gọi đào sâu đức tin đã lãnh nhận bằng việc tuyên xưng, cử hành và loan báo. Thật cần thiết và hữu ích tổ chức một buổi tọa đàm về cha Phêrô Trần Lục – Chứng nhân đức tin tại Phát Diệm. Nói rằng cần thiết, vì không thể bỏ qua một gương chứng nhân đức tin, đã bước những bước thật dài, thật vững vàng trong tiến trình hội nhập văn hóa (rao giảng Tin Mừng theo phong cách Việt Nam); nói rằng hữu ích, vì ngài nên tấm gương và thúc đẩy chúng ta tiến xa hơn nữa trong việc hội nhập văn hóa, để cộng đoàn Kitô giáo Việt Nam không còn bị coi là “một đạo” ngoại lai trong não trạng đồng bào của mình.

Trong bài tham luận: “Hội nhập văn hóa: một chọn lựa căn bản của cha Phêrô Trần Lục”, chúng ta đề cập đến mấy điểm sau Nền tảng thần học của hội nhập văn hóa (I); Cha Phêrô Trần Lục: Điểm hẹn hò của đức tin và văn hóa Việt Nam (II); Cha Phêrô Trần Lục: Công trình hội nhập văn hóa (III); Tiếp bước cha anh trong hành trình hội nhập văn hóa (IV).

• NỀN TẢNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA HỘI NHẬP VĂN HÓA

• Nền tảng thần học của hội nhập văn hóa

Mạc khải là sự Thiên Chúa, trong tình yêu thương chan hòa, thân hành đến gặp gỡ, ngỏ lời với loài người như với bạn hữu, chấp nhận đến sống với họ, để hướng dẫn họ đi vào cuộc sống của chính Ngài. Các động từ: đến gặp, ngỏ lời, sống với họ [...] diễn tả hoạt động nhập thể của Lời Chúa trong lịch sử và trong môi trường văn hóa của con người thời đại, mà đỉnh điểm là Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể.

Trong hiến chế: “Lời Thiên Chúa” (DV. 4), công đồng Vatican II trình bày một kitô học theo chiều đi xuống (christologie descendante): “Ngài (Chúa Cha) đã sai Con của Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng soi sáng mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ biết những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa”, để nhấn mạnh chiều kích nhập thể của Ngôi Lời. Từ nay, trong Đức Giêsu Nazareth, Thiên Chúa nói bằng ngôn ngữ con người, hoạt động theo phong cách con người. Nên biết, ngôn ngữ và hoạt động nhân sinh tạo ra văn hóa, đồng thời cũng là loại hình sinh hoạt văn hóa để làm cho kho tàng văn hóa ngày càng phong phú thêm. Bởi vậy, khi vào trần gian, Đức Giêsu đã tiếp nhận truyền thống văn hóa tổ tiên và với một thái độ kính trọng, Ngài tận dụng những nét đẹp của truyền thống để loan báo Tin Mừng Chúa Cha theo phong cách của các nhóm thính giả, khiến họ thích thú, thán phục và tin theo; nhưng đồng thời, Ngài cũng chữa trị những thương tích và bất toàn tiềm ẩn trong truyền thống văn hóa ấy: “Các thánh giáo phụ luôn quả quyết rằng, sự gì không được Chúa Kitô tiếp nhận vào Người thì không được chữa lành”.

Tuy nhiên, Đức Giêsu chẳng hoạt động một cách đơn lẻ, Ngài luôn hoạt động trong Chúa Cha nhờ Thánh Thần. Kinh tin kính, trong phần tuyên xưng về Chúa Con, quả quyết: “... Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, mà Người xuống thai, sinh bởi bà Maria Đồng Trinh, chịu nạn thời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thánh giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng...”.

Qua những điều tín biểu vừa tuyên xưng, chúng ta kết luận: chính Chúa Thánh Thần đã làm cho Ngôi Lời nhập thể, đã đưa Thiên Chúa đến với loài người và đưa loài người hội nhập vào trong Thiên Chúa. Đức Giêsu, nhờ Thánh Thần, là người “Thứ Nhất” thực hiện việc loan báo Tin Mừng Chúa Cha bằng con đường hội nhập văn hóa một cách sâu rộng và triệt để nhất.

Chúng ta vững tin rằng: Chúa Thánh Thần đã làm cho Ngôi Lời nhập thể thế nào, thì cũng sẽ làm cho Tin Mừng hội nhập vào các nền văn hóa như vậy. Trong Tông Huấn về Giáo Hội tại Á châu, Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô II viết: “Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của sự hội nhập văn hóa của đức tin Kitô giáo tại Á châu” và “Thánh Linh tác động trên châu Á vào thời các tổ phụ và các tiên tri, và còn tác động mạnh mẽ hơn trong thời Đức Giêsu Kitô và Giáo Hội sơ khai. Hôm nay, Ngài đang hoạt động giữa các Kitô hữu Á châu, củng cố chứng từ về đức tin của họ giữa các dân tộc, các nền văn hóa và tôn giáo tại lục địa này. Đúng như cuộc đối thoại tình yêu giữa Thiên Chúa và con người được Chúa Thánh Linh chuẩn bị và được hoàn tất trên mảnh đất Á châu trong mầu nhiệm của Đức Kitô. Như thế, cuộc đối thoại giữa Đấng Cứu độ và các dân tộc trên lục địa này hôm nay tiếp tục trong cũng một quyền năng Thánh Linh tác động trong Giáo Hội”.

Với nội dung vừa trình bày, chúng ta có thể tìm đến một định nghĩa cho việc hội nhập văn hóa, để từ đó quy chiếu những nghiên cứu, khám phá, lượng giá cho công trình hội nhập rất tinh tế và phức tạp này.

• Một định nghĩa mô tả

Trong tông huấn “Redemptoris Missio” (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Đức Gio-an Phaolô II diễn tả việc hội nhập văn hóa theo mô hình của Ngôi Lời nhập thể: Giáo Hội làm cho Tin Mừng nhập thể vào các nền văn hóa khác nhau, và đồng thời Giáo Hội dẫn đưa các dân tộc cũng như các nền văn hóa riêng của họ vào trong chính cộng đoàn Giáo Hội.

Hội nghị truyền giáo năm 1979 tại Manila của liên hội đồng các giám mục Á châu (FABC) cũng đã đưa ra một định nghĩa về hội nhập văn hóa tương tự như định nghĩa trong tông huấn “Redemptoris Missio”: “Hội nhập văn hóa không chỉ là thích ứng Kitô giáo có sẵn vào một tình thế nào đó, nhưng đúng hơn là làm cho Ngôi Lời hiện thân một cách sáng tạo trong Giáo Hội địa phương”.

• Tầm quan trọng của việc hội nhập văn hóa

Tất cả mọi người, cách riêng Dân Chúa tại Việt Nam đều nhận ra cuộc hội nhập văn hóa của đức tin Kitô giáo là sứ vụ đặc thù và cũng là một dấn thân mục vụ đối với Hội Thánh tại Việt Nam.

• Về mặt tích cực

Người Á châu nói chung và người Việt nam chúng ta nói riêng có truyền thống văn hóa riêng, nên cũng muốn diễn tả đặc tính riêng của mình trong cách suy tư, cầu nguyện, cách sống, cách chia sẻ kinh nghiệm Kitô hữu của riêng mình với các anh chị em, vì nếu Kitô hữu không khám ra căn tính của riêng mình, họ sẽ đánh mất tương lai.

Liên hội đồng các giám mục Á châu nhấn mạnh chiều kích đối thoại trong việc hội nhập văn hóa: “đào sâu đối thoại tại Á châu giữa Tin Mừng và văn hóa, để đức tin được hội nhập văn hóa và văn hóa được Phúc Âm hóa”.

Chúng ta xác tín rằng: loan báo Tin Mừng bằng con đường hội nhập văn hóa chính là đang cùng với Chúa Thánh Thần thực hiện một lễ “hiện xuống mới” trong thời hiện tại hôm nay và trên chính quê hương này, để trong ngôn ngữ và gia sản văn hóa đặc thù, họ dâng lời ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa.

• Về mặt tiêu cực

Cùng với các dân tộc Á châu, chúng ta chia sẻ những thách thức và cam go giữa Giáo Hội và vấn đề thuộc địa. Giáo Hội bị coi như thành phần ngoại lai (đạo ngoại quốc...). Giáo Hội tại nhiều nơi còn bị coi là vật cản hay mối đe dọa cho cuộc hội nhập quốc gia và căn tính tôn giáo, văn hóa...

Đàng khác, Giáo Hội vẫn là ngoại quốc trong lối sống, cơ chế tổ chức, lối thờ phượng, trong cách lãnh đạo được đào luyện theo Tây phương và trong thần học của Giáo Hội. Những lễ nghi tôn giáo thường vẫn quy củ, không tự phát, cũng không mang đậm nét Á châu... (FAPA, II, 195-196).

Vấn đề sống còn của Giáo Hội tại Việt Nam, không phải là tự vệ, hộ giáo..., mà phải là việc hội nhập văn hóa, để trong sự hiện diện của mình, mọi người đều nhận thấy có mình ở trong đó “một Giáo Hội nhập thân nơi dân chúng, một Giáo Hội bản xứ và hội nhập văn hóa” (FAPA, I, 14).

Tại Việt Nam, khởi đầu công cuộc truyền giáo, các vị thừa sai đã cố gắng thực hiện công trình hội nhập văn hóa trong nhiều lãnh vực khác nhau và đã đem lại nhiều hiệu quả khả quan. Tại Phát Diệm, linh mục Phêrô Trần Lục là một điển hình. Công trình kiến trúc đồ sộ “quần thể nhà thờ Phát Diệm” được nhìn nhận như một công trình hội nhập văn hóa tại Việt Nam.

• CHA PHÊRÔ TRẦN LỤC: ĐIỂM HẸN HÒ CỦA ĐỨC TIN VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Qua tác phẩm, người ta biết được khả năng của tác giả. Dường như có một tỷ lệ thuận giữa tác phẩm và tác giả: tác phẩm càng tinh xảo, càng hoàn hảo về phương diện nghệ thuật, thì chủ nhân của nó lại càng tài khéo, tinh thông và khôn ngoan gấp bội. Quần thể nhà thờ Phát Diệm tự minh chứng cách hùng hồn trí thông minh, sự uyên bác về phương diện nhân bản, văn hóa Việt Nam, cũng như kiến thức thần học, kinh thánh, phụng vụ của Cụ Sáu. Cả hai đã được kết tinh nên một cách hài hòa nơi con người đáng kính của Cụ. Ngài là điểm hẹn hò giữa đức tin và văn hóa Việt Nam.

• Cụ Sáu: mẫu mực về nhân bản và văn hóa Việt Nam

Trong phạm vi bài thuyết trình này, chúng ta không đề cập đến thân thế và sự nghiệp của cha Phêrô Trần Lục, mà chỉ chú nhắm đến phương diện nhân bản, văn hóa của ngài xuyên qua bút tích (Ca vè Cụ Sáu) và công trình kiến trúc quần thể nhà thờ Phát Diệm.

Đọc “Ca vè Cụ Sáu”, độc giả bị cuốn hút vào những lời răn dạy đầy ắp tính nhân văn: đức hiếu thảo của kẻ làm con phải có đối với cha mẹ:

“Mấy lời hiếu tự nói qua,

Để cho ai nấy trẻ già nhớ ơn

Làm người sống ở thế gian

Ai không đội đức cao san (sơn) nặng đầy”.

Ngài dạy dỗ một cách chi tiết, tỷ mỷ, kỹ càng, những kẻ làm con về: cung cách hành xử, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, cho tròn chữ hiếu đối với cha mẹ.

Trong phần “Nữ tắc thường lễ”, tác giả liệt kê những đức tính phải có của người phụ nữ, đồng thời cũng phê phán các nết xấu cần phải loại trừ đối với người phụ nữ. Những lời răn dạy trong nữ tắc thường lễ là phương pháp đào tạo nhân cách người phụ nữ theo tiêu chuẩn “Tứ đức” (Công – Dung – Ngôn – Hạnh) của Nho giáo.

Còn trong “Nịch ái vong ân”, Cụ Sáu đề cập đến tư cách phải có của người đàn ông, bậc tu mi quân tử. Được xem như cột trụ trong gia đình, người đàn ông phải biết “tề gia”, nghĩa là điều khiển gia đình mình cho đúng lễ nghĩa gia phong, có sự kính trên nhường dưới, biết răn dạy những người thuộc quyền, cụ thể ở đây là “dạy vợ”. Chúng ta phải đặt mình trong bối cảnh văn hóa Việt Nam cách đây hơn 100 năm để thấy những lời răn dạy của ngài là cần thiết và hữu ích. Đối với Cụ Sáu, người đàn ông không biết “tề gia” thì không thể hy vọng thành công trên lãnh vực “trị quốc” và “bình thiên hạ” được.

“Ca vè Cụ Sáu” được giáo dân Phát Diệm xưa và nay đón nhận rất chân thành và phổ cập. Bằng chứng là tập sách này được in ấn và tái bản nhiều lần, ngay cả trong những giai đoạn khó khăn nhất của lịch sử Phát Diệm. Nhiều người cho tới ngày nay vẫn còn thuộc lòng “Ca vè Cụ Sáu”.

Sở dĩ tác phẩm của ngài được đón nhận trên diện rộng như vậy vì nhiều lý do, có thể do thể loại thơ văn bình dân hợp với tâm thức người Việt Nam..., nhưng có một lý do khác quan trọng hơn, đó là cung cách sống nhân bản của ngài đã có ảnh hưởng trên giáo dân, khiến họ yêu mến mà tìm đến với ca vè của Cụ để học làm người. Cụ Sáu dạy dỗ giáo dân bằng chính đời sống và gương sáng của mình: “Lời nói như gió lung lay, gương lành như tay lôi kéo” (ca dao), đúng như nhận định của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI: “Con người ngày nay thích nghe chứng nhân hơn các thầy dạy, và nếu họ có nghe các thầy dạy thì trước hết những thầy dạy đó đã là chứng nhân rồi”.

Còn về phương diện kiến trúc, quần thể nhà thờ Phát Diệm là nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam:

• Đặc tính phong thủy được Cụ lưu tâm cách đặc biệt: “Tiền thủy, hậu sơn” tạo nên một cảnh quan hài hòa, tôn thêm vẻ hùng vĩ cho quần thể, đồng thời cũng tạo nên một không gian trầm tĩnh dễ đưa hồn vào cầu nguyện, gẫm suy.

• Kiến trúc với những vòm cuốn, mái cong cao vút trên nền trời trong xanh tạo đường nét mềm mại, thanh cao, duyên dáng: quần thể to lớn, vĩ đại, nhưng không thô kệch. Đi sâu vào chi tiết một chút, chúng ta thấy các biểu tượng rất cao quý Việt Nam được ngài sử dụng vào những vị trí thích hợp nhằm thông truyền một sứ điệp Tin Mừng phù hợp với tâm thức Việt Nam... Tựu trung, khi đến với nhà thờ đá Phát Diệm, người Việt Nam dễ nhận thấy mình ở trong đó và cũng cảm thấy có cái gì đó là của riêng mình.

• Cụ Sáu: một đức tin được nhập thể

Trong dụ ngôn người gieo giống (Mt 13, 3 – 9), Chúa Giêsu nói đến mảnh đất tốt mà trong đó hạt giống Lời Chúa được gieo vào sẽ sinh hoa kết trái phong phú dồi dào. Mảnh đất ấy không gì khác hơn là tâm hồn con người và truyền thống văn hóa, tôn giáo của một cộng đoàn. Nơi tâm hồn con người là nét nhân văn được thể hiện qua đời sống nhân bản và văn hóa.

Cụ Sáu: mảnh đất tốt được tuyển chọn. Khẳng định đó hoàn toàn có lý vì hai lý do:

• “Ca vè Cụ Sáu” nhấn mạnh đạo đức gia đình như là yếu tố nền tảng mà trên đó mọi nhân đức nhân bản, kể cả đức tin được xây lên. Thiếu yếu tố cơ bản này, con người chỉ là mảnh đất sỏi đá, gai góc, không thích hợp để hạt giống Tin Mừng mọc lên. Cụ Sáu ý thức sâu xa mối dây liên kết bất khả phân ly giữa nhân đức nhân bản và đức tin, nên khi giáo dục đức tin cho giáo dân, ngài dạy họ các đức tính nhân bản. Đọc “Ca vè Cụ Sáu”, độc giả nhận thấy một sự liên kết hài hòa gần như đồng hóa giữa đức tính nhân bản và đức tin: Trong nhân bản có đức tin và trong đức tin có nhân bản.

• Quần thể kiến trúc nhà thờ Phát Diệm là lời tuyên xưng đức tin sống động của Cụ vào Thiên Chúa và vào các chân lý cứu độ Kitô giáo. Những bức phù điêu, chạm bong trên các tường và các bàn thờ là cuốn Phúc Âm rút gọn diễn tả các “mầu nhiệm cả” trong đạo. Chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô về Cụ Sáu: “Tôi biết tôi đã tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới ngày Ngài đến” (2Tm 1, 12 ). Đức tin của Cụ quả là sâu sắc, thế nên, không còn lời nào phù hợp hơn để diễn tả ngoài khẳng định này “Cụ Sáu: một đức tin đã được nhập thể”.

• CHA PHÊRÔ TRẦN LỤC: CÔNG TRÌNH HỘI NHẬP VĂN HÓA

Trong 34 năm làm cha xứ Phát Diệm, Cụ Sáu đã lo giáo dục nhân bản qua những ca vè, cũng như đời sống đạo đức cho giáo dân. Đặc biệt xây dựng quần thể nhà thờ Phát Diệm. Cả hai công trình này đều thể hiện sâu sắc đặc tính hội nhập văn hóa Việt Nam.

• Ca vè Cụ Sáu chứa đựng những nét hội nhập văn hóa

“Ca vè” là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian Việt Nam, rất phổ thông và thịnh hành trong giai đoạn từ thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20. Người dân thường dùng câu ca dao, dân ca, bài vè để chuyển tải ý muốn của mình, nhằm giáo dục, phê phán hiện tình con người và xã hội. Ngôn ngữ Việt Nam tự thân đã có thanh trắc, thanh bằng, âm điệu trầm bổng, nên khi nói người ta có cảm tưởng như một bài ca. Với đặc điểm về cung điệu như thế, người nghe rất dễ lọt tai với thể loại văn vần, thơ ca, vè. Loại hình văn hóa này đã ăn sâu vào ký ức của người dân Việt Nam, từ thuở còn nằm nôi nghe lời ru của mẹ, đến khi nằm yên trong “quan tài” vẫn còn được nghe những bài ca theo thể thơ ca, vè như thế.

Cụ Sáu sử dụng ca vè vào mục đích giáo dục nhân bản và cũng uyển chuyển, tinh tế nhắc nhở đời sống đức tin, bổn phận giáo dục đức tin cho con cái:

“Việc phần hồn trước dạy làm dấu,

Kêu Giêsu, Thánh mẫu quan thầy

Kinh hàng ngày sự cần phải học

Mẹ dạy con trằn trọc hôm mai”.

Đọc Hiếu tự ca, độc giả nhận thấy Cụ Sáu không dừng lại trong việc giáo dục nhân bản, nhưng trên nền tảng nhân bản, Cụ muốn gieo trồng đời sống đức tin như là cùng đích của một đời sống nhân bản phải đạt tới. Phần kết của Hiếu tự ca, Cụ Sáu nhấn mạnh đạo hiếu không chỉ là bổn phận tự nhiên, mà hơn thế, do chính Chúa truyền ban, nên khi thực hành đạo hiếu là thực thi Lời Chúa, nhờ đó kẻ thực hành sẽ được hạnh phúc đời này và đời sau:

“Hãy lắng tai nghe lời Chúa hứa,

Ai hết lòng thảo hiếu mẹ cha,

Sẽ ban phần thưởng này là

Sống lâu dưới thế để mà trả công

Về sau phúc trọng muôn phần

Chúa còn trả lại vô cùng hẹp chi

Mấy lời hiếu tự phải ghi

Chôn lòng mà giữ chớ khi nào rời. Amen”.

Do đi đúng vào căn tính người Việt, Ca vè Cụ Sáu đã được đón nhận nồng hậu nơi giáo dân Phát Diệm: người ta đọc, học, thực hành Ca vè Cụ Sáu, mãi cho tới ngày nay, nhiều cụ vẫn còn thuộc lòng. Việc đưa lời Chúa, nhắc nhở sống và thực hành đức tin vào ca vè chính là cách thức hội nhập văn hóa đúng nghĩa.

Cho tới nay, Phát Diệm vẫn còn giữ được truyền thống đạo đức, nề nếp gia phong, tinh thần đoàn kết, trọng chữ hiếu cũng là nhờ sự kiên trì giáo hóa, miệt mài gieo trồng đức tin của vị linh mục đáng kính, cha Phêrô Trần Lục.

• Quần thể nhà thờ Phát Diệm: công trình hội nhập văn hóa

Khu quần thể nhà thờ Phát Diệm là công trình hội nhập Tin Mừng vào nền văn hóa, tôn giáo Việt Nam, trong tổng thể, cũng như từng chi tiết. Trong khuân khổ của bài thuyết trình, chúng ta chỉ đề cập tới 3 điểm nền tảng sau đây:

• Hội nhập Tin mừng trong nghệ thuật kiến trúc xây dựng

Khi nói về kiến trúc cổ Việt Nam, nhiều người lầm tưởng là bản sao của kiến trúc Trung Hoa, nhưng thật ra, kiến trúc cổ truyền Việt Nam khác nhiều so với lối kiến trúc Trung Hoa, nhất là về phần cấu tạo mái cong. Kiến trúc phần mái của người Trung Hoa dùng phương pháp “chồng đấu, tiếp rui”, trong khi người việt dùng “tàu đao, lá mái” để cấu tạo mái cong”.

Cụ Sáu xây dựng khu quần thể theo đúng phong cách bản địa Việt Nam: mềm mại, thanh cao, trầm tĩnh, nhờ đó hồn Tin Mừng đã được thổi vào nghệ thuật kiến trúc dân tộc. Trong công trình nhà thờ Phát Diệm, Cụ đóng vai trò trung gian, “mai mối” để cho Tin Mừng và nghệ thuật kiến trúc bản địa thực hiện cuộc đối thoại “vô ngôn” sâu sắc và hiệu quả: “Đây không phải lời, cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai, nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất và lời chúng truyền rao khắp cả địa cầu” (Tv 18, 4 – 5).

Do vậy, người Việt Nam đến với Phát Diệm là nhận ra chúng mình khi cùng nhau quy tụ dưới mái của công trình kiến trúc, và hơn nữa, nhận ra nguồn cội thiêng thánh của mình khi tịnh ngôn, tịnh tâm lắng nghe “quần thể nhà thờ Phát Diệm” tâm sự về Tin Mừng cứu độ đã nhập thể trong nghệ thuật kiến trúc thuần túy Việt Nam.

• Hội nhập Tin Mừng trong văn hóa “đình làng”

Khu quần thể nhà thờ Phát Diệm, theo chiều Nam – Bắc, bắt đầu là “ao hồ”, “sân phương đình”, “phương đình”. Cấu trúc này được rập khuân theo mô hình văn hóa nông thôn Việt Nam, văn hóa làng. Cây đa, bến nước, sân đình là biểu tượng của làng đã đi vào văn chương và được thi vị hóa. “Đình làng” có thể được xem là địa chỉ riêng của mỗi người, đặc biệt trong những dịp hội làng, hay mỗi khi có việc làng. Bởi vậy, đình làng được xây dựng với những tiêu chí rất đặc biệt như: luật phong thủy, địa điểm, phương hướng. Lý tưởng nhất là đình có địa điểm thoáng đãng nhìn ra sông nước, nếu không có được ao hồ thiên nhiên thì dân làng phải đào ao, đào giếng để có mặt nước phía trước đình cho đúng thế “tụ thủy”, vì họ cho đó là điềm thịnh mãn cho làng. Trong đình, gian giữa, có bàn thờ, thờ vị Thành hoàng của làng, một chiếc trống cái cũng được để trong đình để đánh lên mỗi khi có việc làng, trống đánh theo “nhịp ngũ liên” mời gọi, thúc giục dân chúng về hội làng. Mọi sinh hoạt hành chính, tế tự, hội hè, rước sách, khao vọng, đón người đỗ đạt... đều diễn ra tại đình làng.

Tin Mừng được nhập thể trong văn hóa đình làng:

Trước hết trên nóc đình làng là “lưỡng long chầu nguyệt”, nhưng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh (trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương) thì phải gọi là “lưỡng long chầu mặt trời” (vì vòng tròn có ngọn lửa bốc cháy). Hai con rồng là biểu tượng sức mạnh âm – dương trong vũ trụ. Vòng tròn ở giữa là mặt trời, tượng trưng cho thái cực viên mãn của vũ trụ. Con rồng bên trái là âm, con rồng bên phải là dương”.

Nóc phương đình Phát Diệm được đặt cây thánh giá, chầu hai bên là hoa văn họa tiết hình triện long hóa. Nếu hình tròn bốc lửa là tượng trưng cho cho thái cực viên mãn của vũ trụ, thì Chúa Giêsu chính là mặt trời công chính và việc Ngài nhập thể chính là thánh giá. Cụ Sáu không gạt bỏ “lưỡng long chầu mặt trời”, nhưng chỉ cho mọi người “mặt trời” là Chúa Kitô. Cây thánh giá trên nóc phương đình đích thực là sự nhập thể của Tin Mừng vào quan niệm về vũ trụ của người Việt Nam. Chúng ta có thể so sánh điểm hội nhập văn hóa này với câu truyện mà Thánh Phaolô đã trình bày trong bài giảng cho giới trí thức trên đồi A-rê-ô-pa-gô (cf. Cv 17, 22 – 29).

Nếu cây trống cái trong đình làng mỗi lần gióng lên triệu tập dân làng đến tế lễ trời đất, thành hoàng, lễ hội truyền thống hoặc hội họp bàn việc làng, thì trên gác cao của phương đình chuông nam ngân nga trầm bổng gởi lời tự sự tới mọi người: “Tôi ca tụng Chúa thật, tôi kêu gọi dân chúng, tôi tập hợp các giáo sĩ, tôi khóc người qua đời, tôi đẩy lui dịch tễ, tôi điểm tô ngày lễ”. Cụ Sáu đã trang trí phương đình theo kiểu cách sinh hoạt cung đình: sập đá, bàn thờ (trước đây còn cả hai ghế đá đặt hai bên bàn thờ); trong tâm trí Cụ Sáu, Đức Giêsu là vua vũ trụ và lời Người giảng dạy như Đấng có uy quyền. Tin Mừng nhập thể trong sinh hoạt “đình làng”; không thay thế, nhưng làm cho sinh hoạt ấy được thăng hoa, được thần hóa. Quả thật, Cụ Sáu đã khơi “nguồn nước hằng sống” là Chúa Giêsu cho dân làng Phát Diệm đang thường xuyên tụ họp trong đình làng của mình để tìm “nguồn nước” cho thỏa cơn khát tâm linh.

• Hội nhập Tin Mừng vào văn hóa kể chuyện: đặc điểm của văn hóa Á châu

Á châu ít dùng ngôn ngữ trừu tượng, họ thích dùng hình ảnh, câu chuyện để dạy dỗ, để chuyển tải tư tưởng. Kể chuyện là loại hình sinh hoạt văn hóa Á châu. Tông huấn “Giáo Hội tại Á châu” đề nghị “khoa sư phạm gợi nhớ” sử dụng chuyện kể, dụ ngôn và biểu trưng: “Ai cũng biết kinh nghiệm thực tế của Á châu không chủ yếu là đường thẳng hay ý niệm, nhưng là đường xoáy ốc và biểu trưng, là những gì thuộc về trực giác, hấp dẫn, gợi mở, thẩm mỹ”.

Cụ Sáu am tường cảm thức văn hóa kể chuyện của người dân Việt, nên trên các bức tường của phương đình, mặt tiền Nhà Thờ Lớn, 5 nhà nguyện nhỏ, Cụ cho chạm những bức phù điêu diễn tả những mầu nhiệm Chúa Cứu Thế: từ việc Người giáng sinh, đời thơ ấu ẩn dật, đến đời hoạt động công khai, đặc biệt là biến cố tử nạn, phục sinh và lên trời vinh hiển. Mỗi bức phù điêu là một câu chuyện kể về cuộc đời Đức Giêsu như sách Tin Mừng diễn tả. Hội nhập Tin Mừng vào văn hóa kể chuyện cho người Việt Nam sẽ truyền cho họ cảm xúc ngạc nhiên, thích thú, ấn tượng, để rồi được lôi cuốn và thuyết phục.

• TIẾP BƯỚC CHA ANH TRONG HÀNH TRÌNH HỘI NHẬP VĂN HÓA

Hội nhập văn hóa của đức tin Kitô giáo là sứ vụ đặc thù và cũng là một dấn thân mục vụ của Giáo Hội tại Việt Nam, bởi vì chúng ta luôn mong muốn: “một Giáo Hội nhập thân nơi dân chúng, một Giáo Hội bản xứ và hội nhập văn hóa”.

Hội nhập đức tin vào văn hóa bản xứ sẽ chạy dài suốt dòng thời gian mãi cho tới ngày Chúa lại đến.

Tiếp bước cha anh trong hành trình hội nhập văn hóa nơi địa phương này gồm hai việc quan yếu sau đây:

• Trân trọng giữ gìn, bảo tồn nguyện vẹn di sản cha ông để lại

Do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu, thiên tai và bom đạn chiến tranh, quần thể nhà thờ Phát Diệm bị hư hại nặng nề. Hai lần tu sửa đáng ghi nhớ:

Lần thứ nhất được thực hiện ngay sau trận bom ngày 15-8-1972. Đức Cha Phaolô Bùi Chu Tạo quyết định sửa chữa ngay. “Công việc bắt đầu vào tháng Mân côi năm ấy, chúng tôi tra tay vào công việc lấp các hố bom, xẻ gỗ đóng lại 52 cánh cửa chung quanh nhà thờ, đi mua ngói ở các nơi về lợp lại. Không những giáo dân ở Phát Diệm, mà còn cả anh chị em giáo dân bên Bùi Chu, trong Thanh Hóa cũng đóng góp: cho thóc, cho gạo nuôi thợ”. Hàng mấy trăm con người làm việc miệt mài, bất chấp máy bay hàng ngày bay lượn trên đầu, mặc cho súng bắn, họ vẫn cứ làm. Công việc tấp nập như thế hàng hai ba tháng, sau đó còn phải sửa chữa những nhà thờ nhỏ và sân, hai năm trời mới xong. Có được thành quả sửa chữa mỹ mãn như vậy, là vì con cháu ý thức được công lao tổ tiên xây dựng.

Lần thứ hai đại tu toàn bộ quần thể nhà thờ Phát Diệm. Bắt đầu từ thập niên tám mươi của thế kỷ XX, dưới sự chỉ đạo của Đức Cha Giuse Nguyễn Văn Yến, từng hạng mục được trùng tu. Nguyên tắc làm việc: “tuyệt đối trung thành với nguyên mẫu, chỉ thay những phần không thể giữ lại được, và không được phép thay những cột đã được xức dầu thánh hiến. Cuối tháng 05-2000, công việc trùng tu hoàn thành mỹ mãn”.

Bên cạnh việc bảo tồn nguyên vẹn di sản cha ông để lại, các thế hệ con cháu còn phải tích cực hơn nữa nghiên cứu công trình hội nhập đức tin vào văn hóa dân tộc của tiền nhân, để cảm nhận giá trị vĩnh hằng và tính thời sự của Tin Mừng trong công trình kiến trúc đồ sộ này. Một dấu ấn được ghi để dám “thi gan” cùng tuế nguyệt, đó là lễ cung hiến nhà thờ chính tòa Phát Diệm ngày 06 tháng 10 năm 1991. Đức Cha Phaolô Bùi Chu Tạo, nhân danh Giáo Hội, đã “đội triều thiên” cho công trình của Cụ Sáu.

• Cam kết, dấn thân rao giảng Tin Mừng bằng việc hội nhập văn hóa

Như đã minh chứng trong bài thuyết trình: khát khao của dân Chúa tại Việt Nam là được nhìn thấy “một Giáo Hội nhập thân nơi dân chúng, một Giáo Hội bản xứ và hội nhập văn hóa”. Viễn tượng này chỉ có thể thành hiện thực khi toàn thể dân Chúa, đặc biệt, các nhà chuyên môn, cam kết, dấn thân trong lãnh vực khó khăn, phức tạp và tế nhị này. Dựa vào những chỉ dẫn của tông huấn: Giáo Hội tại Á châu đoạn 22, chúng ta tập trung vào những điểm quan yếu sau đây:

• Lãnh vực thần học:

Văn hóa thờ “Ông Trời” cũng là một cách thức bày tỏ tự thâm sâu đáy lòng con người về một thượng đế có ngôi vị, thông biết mọi sự, làm chủ muôn loài, thưởng phạt công minh. Phải chân nhận, trong văn hóa, tôn giáo thờ “Trời” rất gần với mạc khải về Thiên Chúa ngôi vị trong Kinh Thánh. Tin Mừng có thể hội nhập trong văn hóa thờ “trời”, hít thở và hấp thụ chất dinh dưỡng từ nền văn hóa ấy.

Hội nhập văn hóa trong lãnh vực kitô học trong nền văn hóa “đình làng” và trong văn hóa kể chuyện Chúa Giêsu rất được đón nhận nơi anh chị em đồng bào của mình (kể chuyện Chúa Giêsu cách sống động bằng chính cuộc đời mình).

• Lãnh vực phụng vụ

Tâm thức người Việt là say mê thờ phượng, lễ hội tôn giáo và lòng đạo đức bình dân. Tinh thần tôn giáo truyền thống Việt Nam là mảnh đất tốt để đức tin hội nhập trong nghi thức thờ phượng truyền thống vốn có. Tuy nhiên không dừng lại ở những cử chỉ, hình thức giả tạo bề ngoài, nhưng phải làm thế nào để đức tin Kitô giáo được sống trọn vẹn trong môi trường văn hóa và thực tế cuộc sống của người dân. Nhiệm vụ của hội nhập văn hóa trong lãnh vực phụng vụ là tìm kiếm những phương cách hữu hiệu để nuôi dưỡng các hình thái thích hợp biểu lộ đức tin chân chính và đẩy lui mọi hình thức mê tín dị đoan trong việc tế tự, thờ phượng và cầu nguyện.

• Lãnh vực đào tạo

Đào tạo nhân sự theo phong cách Á châu rất được quan tâm. Trong cuốn: Đào tạo linh mục, định hướng và chỉ dẫn của hội đồng giám mục Việt Nam, xuất bản năm 2012, lưu tâm cách đặc biệt mô hình đào tạo các linh mục theo phong cách Á châu gồm bốn nét đặc trưng:

• Linh mục, con người trưởng thành.

• Linh mục, con người của sự thiêng thánh.

• Linh mục, con người của đối thoại.

• Linh mục, con người khiêm tốn phục vụ

“Như vậy, trong bối cảnh Á châu có nhiều tôn giáo, nhiều nền văn hóa lớn và đa số là dân nghèo, các giám mục Á châu, sau khi trình bày yếu tố nền tảng: con người trưởng thành của linh mục, đã làm đậm nét hình ảnh người linh mục Á châu trong tương quan với Chúa, với người khác, nhất là với các tôn giáo khác và với người nghèo”. Mô hình đào tạo linh mục theo phong cách Á châu sẽ góp phần tạo nên những con người của hội nhập văn hóa và từ nơi họ tiến trình hội nhập Tin Mừng vào nền văn hóa bản xứ sẽ có cơ may phát triển và gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp.

Kết luận:

Hội nhập văn hóa là một đòi hỏi cấp bách trong sứ vụ đến với muôn dân của Giáo Hội. Sứ vụ này đã được thực hiện trước tiên nơi Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. Ngài trở nên khuân mẫu về hội nhập văn hóa cho Giáo Hội mọi nơi và mọi thời.

Nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội thực hiện công trình hội nhập văn hóa theo mô hình Ngôi Lời nhập thể, nghĩa là, làm cho Tin Mừng nhập thể trong một nền văn hóa đặc thù, và giới thiệu nền văn hóa ấy vào trong đời sống Giáo Hội. Con đường hội nhập văn hóa là con đường làm cho Giáo Hội địa phương không còn xa lạ, ngoại lai trước mắt đồng bào của mình, nhất là thể hiện đặc tính Công Giáo và đặc tính “duy nhất trong đa diện” và “đa diện trong duy nhất” của Giáo Hội Chúa Kitô.

Công trình hội nhập văn hóa của Cụ Sáu tại Phát Diệm là một dấu ấn đậm nét, một thành quả lớn lao trên đời sống giáo dân và đồng bào Việt Nam. Một truyền thống đạo đức sâu sắc, bền bỉ và một Giáo Hội mang bản sắc địa phương, đó chính là nhờ công lao Cụ Sáu.

Con đường hội nhập văn hóa chỉ có khởi đầu mà không có kết thúc. Tiếp bước Cụ Sáu, chúng ta cam kết dấn thân lên đường thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng theo phong cách Việt Nam: hội nhập Tin Mừng vào nền văn hóa Việt Nam. Công việc đầy dẫy thử thách, cam go, phức tạp, tế nhị, nhưng hãy cứ lên đường trong niềm vui và hy vọng vì có Chúa Thánh Thần đang cùng hoạt động.

Nhờ ơn Chúa và sự hăng say nhiệt thành tông đồ, chắc chắn Giáo Hội sẽ đáp ứng được nguyện vọng của con dân Việt Nam là sớm được thấy: “một Giáo Hội nhập thân nơi dân chúng, một Giáo Hội bản xứ và hội nhập văn hóa”. Thật mong ước lắm thay.

Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê

Giám đốc TCV. Phaolô Phát Diệm


TÀI LIỆU THAM KHẢO

• Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội (Ad gentes).

• Đức Gio-an Phaolô II, Thông điệp sứ vụ Đấng Cứu Độ (Redemptoris Missio, ngày 07.12.1990).

Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia, ngày 06.11.1999).

• Ca vè Cụ Sáu.

• Tòa giám mục Phát Diệm, Nhà thờ Phát Diệm, nxb. Tôn giáo, 2009.

• HĐGMVN, Đào tạo linh mục – Định hướng và chỉ dẫn, nxb. Tôn giáo, 2012.

• HĐGVN, Hiệp thông, số 76 (tháng 5 & 6 năm 2013).

• Vinh-sơn Trần Ngọc Thụ, Lịch sử giáo phận Phát Diệm (1901-2001), Paris, 2001.

• Hoàng Xuân Việt, Thắng cảnh Phát Diệm – Địa linh nhân kiệt và kỳ quan, UBĐKCG, 1991.

• Phạm Ích Khiêm, Văn hóa học và văn hóa thế kỷ XX, Viện thông tin khoa học xã hội, 2001.

• Lê Thanh Đức, Đình làng Miền Bắc, Hà Nội, 2001.

• Kiến thức ngày nay: “khoa học và đời sống”, số xuân 2012.


Bài 5: LM Phêrô Trần Lục - Danh Nhân Văn Hóa Dân Gian

Phaolô Lê Đức Long

LINH MỤC PHÊ RÔ TRẦN LỤC (1825-1899)
DANH NHÂN VĂN HÓA DÂN GIAN VIỆT NAM

Nói về Cụ Sáu, một vĩ nhân của lịch sử cận đại, tên tuổi ngài gắn liền với Phát Diệm cũng như Nguyễn Công Trứ gắn liền với Kim Sơn. Ngài không chỉ là một giáo sĩ đạo đức nhiệt thành việc tông đồ, mà còn là một danh nhân văn hóa, có tài kinh bang tế thế.

Đức Cha Nguyễn Bá Tòng giám mục tiên khởi Việt Nam, nổi tiếng thông thái và hùng biện, được mời đi diễn thuyết nhiều nơi ở trời Âu đã ca tụng Cụ Sáu như sau: Tôi quyết rằng không có người Việt Nam nào như Cụ Sáu, và ngài nhắc đến lời Thánh ca khen ngợi Đức Maria là “Vẻ vang của Giêrusalem, là vui mừng của Israel và danh dự của dân tộc” để liên hệ đến Cụ Sáu rằng: Cụ là vẻ vang của Hội Thánh Bắc kỳ này, là vui mừng của con cái Phát Diệm, là danh dự của cả dân tộc Đông Dương chúng tôi. Bàn về một con người vĩ đại như thế thì phải cả một pho sách dầy, bởi vì Cụ Sáu là nhà truyền giáo, nhà chính trị, nhà văn hóa, nhà kiến trúc, nhà giáo dục, nhà thơ, nhưng trên hết là một cha xứ đạo đức thánh thiện, hết lòng với con chiên, để lại cho hậu thế một cuộc đời xuất chúng, một sự nghiệp phi thường vượt không gian và thời gian. Đã có rất nhiều bài viết về Ngài, ở đây tôi chỉ xin nói đến một lĩnh vực: Cụ Sáu – danh nhân văn hóa dân gian Việt Nam.

Cha Phêrô Trần Lục sinh 1825 ở làng Mỹ Quan Nga Sơn Thanh Hóa, thụ phong linh mục năm 1860 rồi lên truyền giáo ở Lạng Sơn. Nguyễn Công Trứ khai khẩn Kim Sơn 1829. Cha Tôma Kỳ mở xứ Phát Diệm được tách ra từ xứ Hảo Nho năm 1850, cha Kỳ tử đạo tháng 12/1861. Cha Anrê Dũng kế thừa cũng tử đạo chết rũ tù ở Ninh Bình tháng 5/1863. Sau 2 năm vắng cha xứ, đến năm 1865, Đức Cha Chiêu Theurel sai cha Phêrô Trần Lục về coi xứ Phát Diệm, năm đó Ngài 40 tuổi, 5 năm linh mục.

34 năm làm cha xứ, Cụ Sáu đã để lại cho Phát Diệm một quần thể kiến trúc nhà thờ vĩ đại với phong cách Á Đông tuyệt mĩ, những đường nét tinh sảo được khắc chạm trên gỗ, trên đá với văn hóa dân tộc: Tứ Linh – Tứ Quý – Lá Lật, những chủ đề Kinh thánh được phác họa với khuôn mặt Á Đông, những vầng mây, đài sen gần gũi với Phật giáo và văn hóa dân gian. Bốn Thánh sử trên nóc bốn lầu phụ của Phương đình được đắp với tư thế ngồi thiền, một cảnh chưa từng có vì tượng thánh của đạo Công Giáo khắp nơi đều tượng đứng, trừ tượng Pietà của Michelange. Vị trí đặt cũng mang một ý nghĩa từ Kinh Thánh: “Những điều anh em nghe rỉ tai thì hãy công bố trên nóc nhà”. Tôi đang nói về những nét văn hóa dân gian của Cụ Sáu trong kiến trúc xây dựng, mảng đề tài này đã nhiều người khảo sát bàn đến.

Ở đây tôi muốn nói đến văn hóa giáo dục của Ngài trong lãnh vực thơ văn, ai cũng biết đến ca vè Cụ Sáu giáo dục ở đây có cả dạy Đạo và dạy Đời. Dạy đời có 2.544 câu thơ, nội dung giáo dục nhân bản gồm: Hiếu tự ca 1088 câu, dạy đạo làm con đối với cha mẹ, bề dưới với bề trên.

Nữ tắc thường lễ 1016 câu, dạy người con gái ăn ở nết na, mẹo mực sống.

Nịch ái vong ân 440 câu, dạy người con trai biết sống và ứng xử ở đời.

Về Đạo có ca vè hạnh tích các thánh, về Đức Mẹ, về Chúa Ba Ngôi, về Thánh linh, Thánh Thể, các vãn dâng hoa tháng Đức Mẹ, Dâng hạt mùa thương khó, đặc biệt nhất là bài văn Than mồ “Đứng trước Hiếu Sơn” dài 66 câu thật sâu đậm và linh thiêng, nó mang dáng dấp ca vè trong văn chương bình dân Việt Nam, nhưng lại là lời kinh trong nghi thức phụng vụ. Tóm lược lịch sử cứu độ, kể cuộc đời Chúa cứu thế từ sinh ra, đi giảng đạo, chịu khổ hình chết trên Thánh giá và mai táng trong mồ. Chúng ta thấy gần giống như Kinh Nguyện Thánh Thể IV trong sách lễ Rôma ngày nay. Nhưng kinh nguyện Thánh Thể IV ghi lại lịch sử cứu rỗi để tạ ơn chúc tụng, còn vãn than mồ của Cụ Sáu hướng lòng giáo dân đi sâu vào mầu nhiệm thương khó và sự chết của Chúa Giêsu để sám hối đền tạ.

Còn phải kể đến kinh cầu hồn và kinh Lạy Chúa Ngôi Hai. Hai kinh này chỉ Địa phận Phát Diệm có, các địa phận khác ở Việt Nam không có. Người dân Phát Diệm đi đọc kinh giỗ cho người qua đời, hay tháng các linh hồn không thể bỏ qua kinh cầu hồn, lứa tuổi 60 – 70 trở lên ai cũng thuộc lòng. Còn kinh Lạy Chúa Ngôi Hai rất hay và thảm thiết, nói đến ơn cứu chuộc và diễn tả Tứ Chung: Chết – Phán xét – Thiên Đàng – Hỏa Ngục, giới trẻ bây giờ nghe họ bảo là rất khiếp sợ, cứ suy ngẫm kinh này thì không ai dám phạm tội nữa. Cả 2 kinh này giờ không thấy in trong sách kinh giáo phận Phát Diệm nữa.

Trở lại đề tài tham luận của tôi: Cụ Sáu – nhà văn hóa dân gian – vì Cụ đã khéo trình bày chân lý đạo với tâm thức văn hóa dân gian Việt Nam, vấn đề này Cụ đã đi trước Công đồng Vaticant II 3/4 thế kỷ, một vĩ nhân của lịch sử đóng vai trò tiên tri. Cụm từ Hội nhập văn hóa mới được ứng dụng sau Công đồng Vaticant II 1965, nhưng xa xưa thời Giáo Hội sơ khai Thánh Phaolô đã từng tuyên bố Ngài là Do Thái với người Do Thái, Hy Lạp với người Hy Lạp (1 Cr). Thánh Tôma Aquinô thì có châm ngôn này: “Điều gì được tiếp nhận, thì được tiếp nhận theo cách thế của người tiếp nhận” (quidquid recipitur, ad modum recipientis recipitur).

Để kết thúc tôi muôn nói rằng Phát Diệm có được Cụ Sáu là một ơn huệ, ơn huệ ấy để ca ngợi Chúa, cuộc đời Cụ Sáu ca ngợi Chúa, văn chương Cụ Sáu ca ngợi Chúa, Khu Thánh đường này ca ngợi Chúa, mọi người về đây ca ngợi Chúa, những phiến đá bất động sừng sững nơi Phương đình này ca ngợi Chúa, và cả nền văn hóa dân gian Việt Nam yêu quý của chúng ta cùng với Cụ Sáu cũng đang thầm lặng ca ngợi Chúa. Adorat Te silentium.

Xin trân trọng cảm ơn ./.


Bài 6 - Cảm nhận của giáo dân Phát Diệm về cha Trần Lục

Giuse Vũ Đức Trung

TOẠ ĐÀM VỀ CÔNG TRÌNH CHA PHÊRÔ TRẦN LỤC

CẢM NHẬN CỦA GIÁO DÂN PHÁT DIỆM VỀ CHA PHÊRÔ TRẦN LỤC

Hôm nay nhân dịp kỷ niệm ngày giỗ thứ 114 năm của người Cha kính yêu của chúng ta là Cha Phê rô Trần Lục, nhưng Cha thường bảo giáo hữu Phát Diệm chúng ta rằng: cứ gọi Cha là “Cụ Sáu”. Danh xưng “Cụ Sáu” quả thực đã luôn luôn mang lại cho Cụ một quãng đời đầy những sự kiện đáng yêu, đáng nhớ và đáng tự hào.

Khi nói về Người Cha kính yêu của chún ta, thì nhiều Đấng Bề Trên, nhiều học giả đã mất khá nhiều giấy mực và công sức để viết về Cụ. Trong số các Đấng Bề Trên viết về Cụ Sáu, tôi vô cùng cảm ơn Đức Cha J.B Nguyễn Bá Tòng Giám Mục tiên khởi Việt Nam và được đảm nhiệm coi sóc địa phận Phát Diệm, được quản lý cơ ngơi của Cụ Sáu để lại, Đức Cha đã say mê viết về Cụ Sáu một cách sâu sắc nhất.

Đức Cha nói: “Tôi không sợ ai cải chính lời nói của tôi, tôi quyết rằng không có một người Việt Nam nào sánh với “Con Người ấy” kể từ đầu lịch sử nước ta, lại kể quá lên nữa trước Chúa Giáng Sinh hơn hai ngàn năm.

Thưa cộng đoàn, khi tôi còn trẻ và ít đọc về Cụ Sáu, tôi cứ cho là vì quá say mê mà Đức Cha đã nói như thế, có phần nào hơi cường điệu. Cũng giống như câu chuyện của Cố Long sau đây, cố là một Linh Mục Thừa sai, theo như cha Trần Công Hoán kể lại: cố Long về coi xứ Ninh Bình 5, 6 tháng rồi mà chưa xuống thăm Phát Diệm. Thời bấy giờ Phát Diệm là một trung tâm, là một địa danh không ai mà không biết tới. Nhưng cố Long không muốn xuống thăm Phát Diệm vì nghe thấy rằng người ta gọi Cụ Sáu là “Cụ Lớn”. Cố cho là quá cường điệu vì đã là một linh mục làm “Quan to”, và rồi lại tự xưng là Cụ Lớn thì tình nghĩa giữa con chiên và Chúa Chiên ra sao đây. Nhưng rồi Cố Long cũng không cưỡng lại được sự hấp dẫn của nhà thờ Phát Diệm và Cụ Sáu. Cố đã quyết định đi Phát Diệm một chuyến. Được tin Cố Long xuống thăm, Cụ Sáu ra tận cổng đón chào Cố Long. Cụ quỳ thụp xuống thưa với Cố rằng: “xin Cố tha tội cho con, đáng lẽ con phải lên chào cố trước rồi, con đã chuẩn bị đi nhưng lại được tin Cố xuống thăm nhà thờ và thăm Con, thật là con có lỗi lớn. Cố Long định đi một hôm, nhưng với sự tha thiết chân thành của Cụ Sáu, Cố Long đã ở lại và đến hôm sau mới về. Ngày hôm sau Cố Long giảng ở nhà thờ Ninh Bình rằng: “Cụ Sau quả là một Cụ Lớn”, một vị linh mục rất khiêm tốn và nhân từ. Lại một câu chuyện nữa: Cụ Sáu của chúng ta thật oan uổng, Cụ có thích “Làm quan đâu”. Một hôm Đức Cha Phao lô Bùi Chu Tạo hỏi tôi rằng: anh có biết câu thơ này nói về Cụ Sáu không?

“Con mèo đánh giặc đông tây,

Con Voi (ăn no) nằm bếp ỉa đầy nồi rang”

Ý Cụ Sáu ví mình nhỏ mọn như con mèo thế mà triều đình cứ lôi đi an dân, dẹp loạn hết chỗ này đến chỗ khác. Còn các quan như con voi thì được ở nhà vui thú an nhàn.

Đó, Cụ Sáu của chúng ta bị bắt buộc “phải làm quan” là một điều bất đắc dĩ, Cụ chỉ muốn ở với con chiên mà thôi.

Kính thưa cộng đoàn, khi chiêm ngắm công trình vĩ đại của nhà thờ, các du khách thường muốn tìm hiểu ai là tác giả của công trình này: với quá khứ hơn 100 năm trước, phương tiện xây dựng cách nào, nguồn kinh phí ở đâu, kỹ thuật và tổ chức quản lý thế nào. Đó là những câu hỏi của người đương thời ngày nay. Còn thời xưa, khi người ta mưu đồ hay đánh giá, nghiên cứu tìm hiểu một công trình vĩ đại thì cha ông chúng ta thường dựa trên 3 yếu tố cơ bản là: “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”.

Thưa cộng đoàn, có lẽ đây là lần đầu tiên Giáo Phận ta tổ chức cuộc hội thảo về “Người Cha Kính yêu”, mà bản thân tôi cũng như hết mọi người không kể lương giáo, trong nước và ngoài nước đều mang nợ với “Cụ Sáu”. Khi được Cha Chính xứ phân công cho tôi viết một bài nói về “Tình cảm của giáo hữu Phát Diệm đối với Cụ Sáu, hay là “Tình cảm của Cụ Sáu đối với giáo hữu Phát Diệm”, tôi rất phân vân vì nói sao cho đủ được và đây là một việc quá tầm của tôi. Nhưng rồi, trước hết vì vâng lời, và như có người nhắc bảo tôi rằng: “Biết ít thì nói ít, còn để người sau nói tiếp và nói đầy đủ hơn về Cụ”. Vâng tôi hy vọng rằng, nhờ vào những cuộc hội cấp Giáo phận như thế này, là lúc con cháu, giáo hữu Phát Diệm có dịp nhắc nhở ôn lại những công ơn của Cụ Sáu và của cha ông mình để đền đáp và sống với trách nhiệm như các Ngài đã sống.

Thưa Cộng đoàn, Cụ Sáu thường nói: “Linh hồn của Cha và linh hồn của các con là một, không có linh hồn của Cha, thì linh hồn của các con sẽ bị côi cút”. Tôi thiết tưởng không tìm đâu ra lời minh chứng nào, yêu thương gắn bó khăng khít hơn để diễn tả tình cảm của Cụ đối với giáo hữu Phát diệm.

Còn tâm tình của giáo hữu Phát diệm đối với Cụ Sáu thế nào đây? Chúng ta cứ nhìn vào hành động và cử chỉ vâng lời của cha ông chúng ta đối với Cụ Sáu thì sẽ biết rõ.

Các nhà viết sử sau này đều nhất trí rằng nếu chúng ta bỏ qua hay không nhắc tới những giáo hữu cộng sự đắc lực, tài ba, khôn ngoan của Cụ sáu thì quả là một thiếu sót lớn. Và đây tôi xin kể một số các cộng sự viên tiêu biểu của Cụ:

1. Ông Phó Bá, tên thật là Nguyễn Bách, thầy tôi kể cho tôi rằng: Ông rất giỏi về văn chương chữ nghĩa, và cả về kinh doanh buôn bán, ông có nhiều cửa hàng và rất hảo tâm. Cụ Sáu giao cho ông dạy nghề và thu mua sản phẩm đi bán cho các tỉnh. Ông là nhân vật thứ hai sau Cụ Sáu, là thư ký văn phòng của Cụ Sáu. Có lần tướng Trần Văn Soạn tả quân Đô Thống của phong trào Cần Vương, ngày 15/10/1886 đã viết một văn thư, phái người đến Phát diệm trao cho ông Phó Bá thư ký của Cụ Sáu. Lá thư viết rằng: “Nhân danh Tả quân Đô Thống, thống lãnh phong trào Cần Vương, đại diện Điện tiền Thượng Tướng Quân, bản chức tin cho sĩ phu biết: Sau ba tháng điều tra cẩn mật, bản chức biết ông là giáo dân kết án thực dân, không hợp tác với Pháp. Lại biết thêm ông và Cụ Sáu là đồng nghĩa cùng một ý chí phò vua cứu nước. Nay bản chức phong cho ông làm Tả quân Phó Thống cùng bản chức điều khiển phong trào đặc trách việc mộ quan: quyên tiền, vay thóc, bảo vệ thành Ba Đình. Lúc này các đồn của giặc Pháp hằng ngày bị quân ta đột phá và nhiều quân Phát bị chết”.

Ông Phó Bá đáp thư:

“Phàm là sĩ phu thì không thể nào cộng tác với quân Pháp, cũng không thể nào cộng tác với các phần tử Văn Thân, hằng ngày tiêu diệt các Linh mục Thừa sai và các tín hữu Công Giáo. Họ tuyên bố: “Bình Tây sát tả” nhưng họ không “Bình Tây” chỉ “Sát Tả” gây khổ sở cho dân lành. Mong rằng: Thượng Tướng hạ lệnh cho các phần tử Văn Thân ngừng ngay sát hại các tín đồ Công Giáo. Tiểu đệ tâm thành hợp tác với Đô Thống. Thư này tiệu đệ đã trình Cụ Sáu đọc và Ngài đã cho phép gửi tới Đô Thống.

Kính thư: Nguyễn Bách, hiệu Phó Bá”.

2. Ông Đốc Phan: Thầy tôi kể: Ông Đốc Phan, người hơi thấp, đậm đạp, rắn chắc, rất giỏi võ. Ông luôn được chọn đi tháp tùng Cụ Sáu vào Huế và các chuyến đi xa. Ông rất tinh thông về xây dựng, ông là kiến trúc sư toàn bộ công trình nhà thờ. Trên đường vào Huế khi đi tháp tùng ông đều lĩnh hội những đường nét, hoa văn kiến trúc của thành nhà Hồ và kinh đô Huế. Bản thiết kế Phương đình và nhà thờ được Cụ Sáu ưng nhận ngay từ bản đầu tiên. Ông rất sáng tạo kết hợp lối kiến trúc Á đông và lối kiến trúc Gô-tích và Rô-Manh một cách hài hòa.

3. Ông Đốc Việt. Cụ Sáu thường gọi là Bố Việt. Cụ Sáu yêu thương Bố Việt lắm và Bố Việt cùng khóc thương Cụ Sáu nhiều nhất. Thầy tôi kể rằng sau khi Cha Sáu mất 3, 4 tháng rồi, mà mỗi khi nhớ tới Cụ Sáu Bố Việt khóc rống lên như trẻ con vậy!

Khi Cụ Sáu ngã quỵ xống lúc đang làm lễ, Bố Việt chạy đến nâng cụ dậy và định đưa về nhà, nhưng Cụ bảo: Bố Việt cứ để Cụ nằm đây một lát, nếu có chết trên ngưỡng cửa nhà thờ, thì cũng được mà. Bố việt là người mà Cụ Sáu căn dặn: Các con cố gắng hoàn thành công trình Phương Đình chu đáo nhé! Ông Đốc Việt chịu trách nhiệm khai thác đá trên các công trường… ông nhớ từng viên đá được khai thác ở đâu…

4. Cụ Nghè tư Giản. Giáo dân thường gọi cụ là ông đồ Giản. Không ai biết Cụ là Ông Nghè. Cụ là một tiến sĩ đã đi sứ Trung Quốc. Nhiều lần Cụ đã dâng điều trần lên Vua Tự Đức mưu cầu cứu nước. Nhưng triều đình quá ư nhu nhược, câu nệ… nên cụ lui về ẩn sĩ tại Phát Diệm với Cụ Sáu. Cụ Sáu được Cụ Nghè Tư Giản ở bên để giúp đỡ Cụ về Văn Chương chữ nghĩa. Những bài ca vè, bài vãn, của Cụ Sáu bị ảnh hưởng của Cụ Nghè Tư Giản không phải là nhỏ.

Ngoài bốn nhân vật cộng sự đắc lực tài ba của Cụ Sáu ra, còn phải kể đến Gia độc nhà phụ trách về an ninh Cụ Huyện Chẫn ở Phát Ngoại: các cụ Tổng Ngữ, cụ Trùm Cần coi kho là những cánh tay đắc lực của Cụ Sáu. Đấy là chưa kể đến hàng thanh niên trai ngày đêm trên các công trường xa xôi để khai thác đá và gỗ. Thày Tư bảo tôi: Ông nội mày vào Vinh khai thác gỗ 6 tháng mới về một lần.

Nhiều nhà học giả nói rằng: Cụ Sáu về Phát Diệm như “Cá gặp nước”. Vâng đúng Phát Diệm quả là “Địa lợi một địa linh” không một nơi nào sánh bằng. Tạ ơn Đấng quan phòng khoan dung và thương yêu Phát Diệm, chỉ về Phát Diệm Cụ Sáu mới có “đất dụng võ”, hay nói cách khác: Nếu địa linh Phát Diệm không có Cụ Sáu là một “nhân kiệt” thì người Phát Diệm cũng không làm nên sự nghiệp được, không thể có ngôi thánh đường tráng lệ này. Vâng cả hai yếu tố ấy là “địa lợi” và “nhân hòa”. Tính “nhân hòa” thực là yếu tố chủ chốt và chúng ta thử xem Cha và con cái nâng niu giữ gìn tính “nhân hòa”.

Một lần ông cố Cẩm bị đòn oan vì tội không đôn đốc đủ giáo dân đi làm nhà thờ. Cố Cẩm uất ức tuyên bố không đi lễ nữa. Sau ít lâu Cụ Sáu biết Cố Cẩm không đi lễ thật. Cụ mặc phẩm phục, đeo thẻ ngũ, đi ngựa có lính hầu đi trước như đi đón vị thượng khách. Cụ lên tận Phương Thượng vào nhà Cố Cẩm. Cụ hỏi: “Cố Cẩm đâu? Sao giận cha lâu thế? Cũng có lúc cha sai lầm chứ, thôi cha xin, đi xưng tội đi rồi đi lễ nha. Con không đi lễ, Cha xây nhà thờ làm gì?”. Cụ Sáu cho quà Cố Cẩm rồi ra về. Cố Cẩm cảm động, xin lỗi Cụ rồi vui vẻ tiếp tục công việc. Trong cộng đoàn bất cứ có điều mâu thuẫn xích mích Cụ Sáu đều giải hòa và giữ gìn tình cảm Cha con êm thấm. Lời của Cụ có uy lực, không ai giận được Cụ. Ai được gặp Cụ đầu tiên, cũng đem lòng yêu mến Cụ ngay. Một lần nữa chúng ta phải cảm tạ Chúa đã ban cho Phát Diệm chúng ta một người Cha thánh thiện, tài ba, đã khéo dạy dỗ giáo dục con cái,… Phát Diệm chúng ta bằng hành động đầy nhân ái, bằng những câu ca vè đầy vẻ yêu thương. Thiết tưởng chúng ta không thể tìm đâu được nhà giáo dục nào giầu tình nhân ái như thế. Lòng sốt sắng đạo đức của giáo hữu Phát Diệm cũng tăng lên bội phần đến nỗi Cha bề trên Hội Thừa sai Paris là Cha Chevrille thốt lên sau khi thăm Phát Diệm rằng: “Ai muốn biết người ta kính mến Phép Thánh Thể và Phép tràng hạt Mân Côi như thế nào, cứ hãy về Phát Diệm mà xem”.

Ngoài giờ sinh hoạt cá nhân, người ta thường tìm gặp Cụ Sáu ở Nhà thờ Trái Tim. Khi Nhà thờ Lớn chưa hoàn thành thì Nhà thờ xứ bấy giờ là Nhà thờ Trái Tim.

Đúng như lời một Đức Giám Mục đã giảng tĩnh tâm cho các linh mục rằng: “Cứ xem Cha xứ của anh mỗi ngày quỳ trước Thánh Thể mấy giờ, thì anh sẽ biết được Cha xứ của anh coi sóc xứ sở của anh ra sao?”

Thưa cộng đoàn, tôi xin kể lại lời của vị toàn quyền Lord Cusson của Anh ở Ấn Độ đã đến Phát Diệm và thăm Cụ Sáu. Ông nói: “khi từ giã Phát diệm, trong các chuyến đi di lịch của tôi, tôi chưa bao giờ gặp thấy một nhân vật lỗi lạc hơn vị Giáo Hoàng nhỏ của Nước Nam này. Mong rằng cái bóng của Người đừng vội phế tàn”.

Nhưng ý Chúa nhiệm mầu đã muốn thưởng công cho “Con người ấy” sau một tuần làm phúc: giải tội và giảng giải, Cụ kiệt sức ngã gục trên bàn thờ.

Đức Cha Thành cử hành lễ an táng trước các quan chức đại diện của Triều đình và của Chính phủ Pháp. Cố Chính Linh, một Tiến sĩ Thần học, đọc bài điếu rất lâm li thống thiết. Trong buổi lễ hơn 40 nghìn người đầy nước mắt. Cố chính Linh nói: “Tôi chưa thấy, trong đời tôi, tôi chưa từng được chứng kiến cảnh khóc thương nhiều nước mắt như thế này. Cố đã ví nước mắt người giáo hữu Phát Diệm đổ ra cũng nhiều như nước ao hồ.

Theo di chúc của Cụ thì Cụ xin mai táng ở giữa ngã ba cuối nhà thờ lớn, để hằng ngày Cụ được nghe thấy tiếng chân đi của con cái Cụ đến chầu Chúa vì linh hồn của Cha và linh hồn của các con là một: Nhưng các nhân sĩ không đành tâm và đã mai táng Cụ ở địa điểm như hiện nay.

Vào những ngày tháng cuối đời Cụ Sáu như có linh cảm đau đớn sợ rằng sau này con cháu Phát Diệm sống chểnh mảnh luật Chúa như dân Do thái xưa phải bỏ cả Đền thờ Giêrusalem, bỏ quê hương yêu dấu đi lưu đầy nơi xứ người. Cụ Sáu thường buồn sầu giảng trên tòa giảng rằng: “Nếu các con không trung thành giữ luật Chúa, không thương yêu nhau thì coi chừng!! sẽ có ngày:

“Điền Canh vi thanh nhân Canh!

Thánh đường vi tha nhân thụ!”

Nghĩa là ruộng vường nhà cửa người khác đến ở và cầy cấy. Nhà thờ người khác đến làm chủ và sử dụng! Ôi! Thật ứng nghiệm!! nhà cửa ruộng vườn người khác đã đến ở…. Nhà thờ xuýt nữa người khác hưởng thụ, nếu không có Đức Cha Phaolô kiên vững bám trụ!

Thưa cộng đoàn, nhiều giáo hữu Phát Diệm đã di cư vào nam, và ở nước ngoài về hỏi chúng tôi rằng: “Hai chiếc ghế đá trắng ở bên cái sập Phương đình đâu rồi?”

Chúng tôi là những người ở lại quê hương thành thực xin lỗi rằng: Sau ngày giải phóng 1954, 8 phần 10 giáo hữu Phát Diệm bỏ nhà thờ và quê hương di cư vào Nam. Còn 2 phần 10 ở lại với nhà thờ, kẻ bị bắt, người bị tù, nhà thờ không người quản lý bảo vệ, trông coi! Hai chiếc ghế đá, học sinh ở trường bên hất xuống sân vỡ tan tành, 2 cái bệ chân được đưa vào khu núi Sinh Nhật rồi lâu nay không thấy đâu nữa.

May mắn thay! Và đội ơn Chúa quan phòng có Đức Cha Phaolô Bùi Chu Tạo đã kiên trì giữ gìn ngôi thánh đường. Nhất là biến cố năm 1972 sau trận bom xảy ra chính vào ngày 15/8 Lễ Đức Mẹ linh hồn và xác lên Trời, nhà thờ bị hư hỏng nặng nề, tưởng chừng không thể sửa chữa nổi!

Lại một lần nữa, nhờ có bàn tay của Đức Mẹ và Đức Cha, người giáo hữu Phát Diệm, không quản máy bay còn đang bắn phá, đổ xô về để tu sửa lại nhà thờ của mình một cách chu đáo.

Để kết thúc bài tham luận tôi xin mượn lời của Đức Cha Phaolô Bùi Chu Tạo đọc nhân dịp lễ Bế mạc năm thánh kỷ niệm 100 năm xây dựng nhà thờ chính tòa:

Thưa anh chị em,

Năm kỷ niệm mãi sẽ là một trang sử đẹp trong lịch sử Phát diệm, và chắc chắn sẽ còn được ghi nhớ lâu trong ký ức mọi người. Nhưng chúng ta không chỉ sống với những ngày đã qua, không được ngủ trên vàng son của quá khứ. Lật trang giấy, chúng ta phải viết tiếp lịch sử Phát Diệm. Chúng ta phải nhìn về phía trước, phải hướng về tương lai. Năm kỷ niệm không phải là cái mốc cuối cùng mà chỉ là một điểm bắt đầu. nói cách khác bấy giờ chúng ta không được nói: “xong rồi” và lại trở về nếp sống đạo đức trước đây.

Hy vọng rằng nhờ năm kỷ niệm này anh chị em sẽ gắn bó với nhà thờ Chính tòa hơn và do đó cũng thêm tha thiết với tương lai giáo phận hơn nữa.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban tổ chức và cộng đoàn.